Cách cuộc chiến chỉ còn hai ngày, chẳng ai tới làm phiền hắn.
Sáng sớm, Đường Tầm và hắn đi tới Phi Diên cốc một chuyến để làm quen với địa thế.
Trong đầm lầy tỏa ra một thứ mùi vị hỗn tạp của đỗ quyên, me, rong rêu, lau sậy rồi cả mùi lưu huỳnh, đá vôi, mùi rễ cỏ. Đường Tiềm dễ dàng phân biệt nó với khoảng rừng tùng đằng sau chiến trường.
“Kinh hữu Vân Mộng, tê hủy mi lộc mãn chi[1]. Năm đó Sở Tuyên Vương từng đi săn bắn suốt một dải này, nghe nói xe ngựa tới nghìn cỗ, cờ xí rợp trời. Khói lửa đồng hoang nghi ngút như mây, tiếng hổ rống vang như sấm”, Đường Tầm vốn mau miệng, lập tức liên miên bất tuyệt giới thiệu, “Nghìn năm sau, địa hình nơi này càng thêm trũng xuống, đầm lầy khắp nơi, nghe nói nếu không phải là cao thủ khinh công, rất khó để đi qua”.
[1] Đất Kinh có Vân Mộng, nơi ấy đầy ắp tê giác với hươu nai. Trích sách Mặc Tử.
Đường Tiềm gật đầu.
Từ mà Đường Tầm rất thích dùng chính là “nghe nói”. Võ công hắn không tệ nhưng từ trước tới giờ chưa từng tham gia trận quyết đấu nào. Mỗi dịp náo nhiệt hắn đều có mặt nhưng tới khi thật sự bắt đầu thì lại chẳng thấy đâu nữa. Hắn đọc sách cũng không ít nhưng chẳng nhớ nổi tên sách, cũng chẳng nhớ được xuất xứ của điển cố. Phụ thân hắn, Đường Ẩn Tăng là chú ruột của Đường Tiềm, Đường Tiềm vẫn luôn cho rằng, cái tên này phải dành cho Đường Tầm mới đúng. Chính là vì cho dù đã thêm hai chữ “nghe nói” thì những lời tiếp sau rõ ràng đều không đủ độ tin cậy.
Cho nên, mọi người đều biết võ công của Đường Tầm không dở nhưng không biết hay ở chỗ nào; đều biết hắn có học vấn nhưng cũng chẳng rõ điểm nào nên phục hắn.
Đường Tiềm cho rằng, nếu hắn có thể ít nói hai chữ “nghe nói” đi thì tình hình sẽ tốt hơn rất nhiều. Có điều, kiến nghị này ôm ấp trong lòng đã mười mấy năm nhưng cũng chưa từng nhắc tới với hắn. Đường Tiềm là kẻ mù, cho nên không thể “nhìn” ai không thuận mắt. Hắn cũng không giỏi giáo huấn người khác, cũng không đủ kiên nhẫn nghe người khác giảng giải dông dài. Nhưng kiến nghị của Đường Tầm hắn thường nhớ kỹ. Ví dụ như Đường Tầm nói, nam nhân ít nhất cũng phải học thuộc lòng một nghìn bài Đường thi thì mới có thể hấp dẫn được nữ nhân. Thế là hắn học thuộc lòng ba nghìn bài nhưng chưa từng có dịp dùng tới dù chỉ là một lần.
“Đệ vốn cho rằng người xưa nhắc tới Vân Mộng là chỉ một dải Động Đình. Không phải trong sách có nói ‘Khí chưng Vân Mộng trạch, Ba hám Nhạc Dương thành’[2] sao?”
[2] Hai câu trong bài Vọng Động Đình hồ tặng Trương thừa tướng của Mạnh Hạo Nhiên (689 – 740). Nghĩa là: Khi ôm đầm Vân Mộng. Sóng lay thành Nhạc Dương.
“Đấy là đầm nam, nơi đây là đầm bắc. Nghe nói trong vòng tám, chín trăm dặm quanh đây ban đầu vốn cũng là một cái hồ lớn mênh mông khói sóng, hiện giờ đang dần khô cạn đi”, ngừng lại một chút, Đường Tầm chán nản cười một tiếng, kết thúc cuộc nghiên cứu, “Mục đích chúng ta tới đây hình như không phải để dạo chơi ngắm cảnh. Ta mang theo một ít hương với tiền giấy, có lẽ bọn ta nên tới mộ của các vị đao khách bái tế một phen”.
“Từ lúc nào huynh bỗng biến thành người tin thần sợ quỷ thế?”
“Ta không muốn đệ chết dưới đao của Tiểu Phó.”
Mộ địa nằm sau khu rừng tùng. Đang là sáng sớm sương hãy còn giăng mỏng, gió khẽ động, mấy giọt sương đọng trên cây tùng nhỏ xuống vai hắn.
Đến rừng tùng, bọn họ nghe thấy có tiếng bước chân nhẹ nhàng, tiếp đến phát hiện ra bên cạnh mộ phần của Hàn Duẫn có một thanh niên áo đen đang đứng cúi đầu yên lặng trong sương.
Người đó thân hình không cao lớn, trên lưng có đeo một thanh đao màu đen. Thanh đao cán đen, tua cũng màu đen, đen giống hệt như màu mắt hắn.
Tay hắn trước sau luôn đặt trên cán đao, bộ dạng tựa như có thể rút đao bất cứ lúc nào.
Khói hương màu xanh bốc lên trong làn sương ẩm ướt đang ngấm dần xuống, trên không trung hãy còn vài tờ tiền giấy phiêu phất.
Đường Tầm vừa định mở miệng, Đường Tiềm đã lên tiếng: “Tiểu Phó?”.
Người áo đen ngẩng đầu, lãnh đạm nhìn hắn một cái, đáp: “Đúng”.
… Giọng của hắn xa xôi mà lạ lùng, âm điệu rất khác người trung nguyên.
Xem ra hắn không hề muốn bị người khác làm phiền, hai người bọn họ biết ý định rời đi.
Mới đi được hai bước, Tiểu Phó đột nhiên quay người lại hỏi: “Ngươi chính là Đường Tiềm?”.
“Là ta.”
“Ngươi không nhìn thấy đao của ta?”
“Không nhìn thấy.”
“Ta nhìn được đao của ngươi cho nên cũng hy vọng ngươi biết được đao của ta ra sao”, nói rồi cởi đao xuống đưa tới.
Đường Tiềm hiểu ý của hắn. Đối với một đao khách mà nói, từ chất lượng, độ dày mỏng, ngắn dài, nặng nhẹ, vết khắc trên mặt đao, độ cong của đao cho tới hình dáng cán đao, thủ pháp cầm đao đều có thể nói lên thói quen và những chi tiết trong việc dùng đao của chủ nhân thanh đao.
Bất kỳ kẻ dùng đao nào cũng phải quan sát kỹ càng đao của đối thủ.
“Không cần đâu”, hắn không đưa tay đón lấy, “Ta không có hứng thú đối với hình dáng đao, chỉ có hứng thú với âm thanh của đao”.
Tiểu Phó sững người, ánh mắt lạnh đi: “Dưới đao của ta không có đường sống”.
Đường Tiềm khẽ cười: “Ta thì vừa vặn ngược lại”.
Trên đường quay về, Đường Tầm than thở: “Trông người này đơn giản là giống y chang Phó Hồng Tuyết mà trong sách tả”.
Đường Tiềm lắc đầu: “Đệ không nghĩ thế”.
“Đệ nghĩ thế nào?”
“Thứ nhất, hắn không què. Thứ hai, hình như hắn cũng không hề bị động kinh. Thứ ba, đao của hắn có thể rời tay của hắn.”
“Điều này nói lên cái gì?”
“Nói lên rằng đao pháp của hắn có khả năng còn cao hơn Phó Hồng Tuyết.”
Bốn tuổi, Đường Tiềm bắt đầu luyện đao. Trừ những lúc ra ngoài đi chơi hay những dịp nghỉ, hai mươi năm nay, ngày nào cũng luyện đao hai canh giờ, trước giờ chưa từng gián đoạn. Kể cả trận đại chiến đã ở ngay trước mắt, hắn cũng không thay đổi thói quen luyện đao của mình.
Cho nên ngày hôm nay hắn hành xử không khác so với ngày thường. Sau khi luyện đao thì theo lệ ngồi trên sạp trúc uống trà, an nhàn hóng gió mát lúc chiều muộn một lát, rồi lại theo lệ ra ngoài tản bộ. Lúc quay về sắc trời đã tối, bữa tối rất thịnh soạn, rất nhiều người chúc rượu khích lệ hắn, hắn cũng vẫn như ngày thường, tự tiết chế chỉ uống hai chén. Uống xong ngụm canh cuối cùng, hắn quyết định rời bàn rượu, nghỉ ngơi sớm một chút.
Trong tiếng ồn ào có người cất tiếng hỏi: “Sao bọn lão đại vẫn chưa về nhỉ?”.
Vừa định đứng dậy, đột nhiên nghe “bình” một tiếng, một vật nặng nề được quăng lên bàn vừa khéo rơi trúng một bát canh cá, lập tức chén bát lộn xộn, nước bắn tung tóe bốn phía. Đường Tầm ở bên cạnh đang định uốn cạn chén rượu trong tay, không biết từ lúc nào, trong chén ngọc lại có thêm một vệt loang màu đỏ. Vệt loang từ từ lan rộng ra biến thành một mảng đỏ.
Đó là một giọt máu.
Đại sảnh đột nhiên im phăng phắc, mọi cặp mắt đều đổ dồn vào cái bọc máu me ướt đẫm trên bàn.
Dõi về hướng cái bọc được quăng tới, bọn họ nhìn thấy một cô gái mặc áo tím kéo ghế ngồi cạnh cửa, dáng người rất nhỏ nhắn.
“Lão đại quay về rồi đấy”, cô gái đó như cười như không, nhẹ nhàng phất tay một cái, “trên bàn kia kìa”.
Nút thừng buộc cái bọc đó đột nhiên bị cắt đứt, lộ ra một cái đầu người quen thuộc.
Đường Lan.
Thoáng cái, tất cả mọi người đều biến sắc, ai nấy đều nín thở, trong mắt đầy ắp nỗi sợ hãi và phẫn hận!
Đã có không ít người nhận ra kẻ vừa đến chính là Sở Hà Y, nữ nhân đã cứu Mộ Dung Vô Phong khỏi địa lao lúc trước.
Ý thức được tình hình không ổn, lão tứ Đường Hoài sắc giọng hỏi: “Đường Ngũ đâu?”.
Đường Ngũ là mưu thần, cũng là hộ vệ thân cận nhất của Đường Lan, võ công cực kỳ cao cường, là một trong bốn thanh niên đại cao thủ của Đường gia.
Các loại “Phục hưng kế hoạch” của Đường môn gần như đều xuất phát từ Đường Ngũ.
“Bình” một tiếng nữa, Sở Hà Y quăng tới một cái bọc máu me ướt đẫm khác. Tất cả đều là người trên giang hồ, tất nhiên mọi thứ đều không cần giải thích gì.
Đường Tầm siết chặt nắm tay, nghiến răng nghiến lợi hỏi: “Ngươi đã giết bọn họ, lại còn dám tới đây tìm chết?”.
Nữ nhân áo tím cười lạnh một tiếng, tay vung lên, một viên dược hoàn màu đỏ tươi đã rơi vào một cái bát không trên bàn.
Viên dược hoàn màu đỏ tươi đó không ngừng xoay tít trong bát, lúc dừng lại đã biến thành một đám bột màu đỏ. Hà Y đi tới cạnh bàn vỗ nhẹ lên bàn một cái, đám bụi phấn kia bốc lên thoắt cái đã biến mất không còn tăm tích gì.
Đường Tam đứng vụt dậy, nhanh chóng lùi lại sau bàn, lớn tiếng kêu: “Mọi người cẩn thận! Là thuốc mê!”.
Trong khoảnh khắc, tất cả mọi người đều lùi lại ba thước, trong lòng thầm nhủ: Loại bột thuốc này đã tan vào trong không khí, chỉ sợ đã sớm trúng độc rồi.
Hạ Y lạnh lùng đưa mắt quét qua đám người, cất tiếng: “Ngươi nói không sai, người biết điều hiện giờ tốt nhất là thật thà một chút. Ta có hai con đường, các vị cứ tự mình chọn lấy một. Thứ nhất, kẻ nào muốn toàn mạng thì xéo hết đi, người của Hình đường ở lại. Hoặc, tất cả đều ở lại, mỗi người chặt đi một chân”.
Tiếng nói vừa dứt, Đường Tam đã chống nạng bay vụt ra khỏi cửa lớn.
“Ta đi trước, ta chỉ có một chân.”
Nháy mắt, bóng người chớp động, người trong đại sảnh thoáng cái đã không còn thấy đâu nữa.
Chỉ còn lại Đường Tầm và Đường Tiềm.
Hà Y nhìn trái nhìn phải đánh giá hai người này một lượt rồi hỏi: “Ai là Đường Tiềm?”.
Đường Tiềm đáp: “Ta”.
“Kẻ đứng cạnh ngươi là ai?”
“Là huynh đệ của ta, không có bất cứ quan hệ gì với Hình đường.”
Hà Y hỏi: “Vậy sao ngươi còn không mời hắn rời đi?”.
Đường Tiềm vỗ vai Đường Tầm, nói: “Huynh đi trước đi, đệ sẽ không sao đâu”.
“Nhưng…”
“Huynh ở lại đây có thể chỉ càng thêm phiền phức”, hắn đanh mặt, bồi thêm một câu.
Đường Tầm lưỡng lự giây lát rồi đẩy cửa đi ra.
Hắn khẽ vận khí, phát hiện nội lực không vận dụng được chút nào, biết rằng thuốc mê đã bắt đầu có hiệu lực.
Trong đại sảnh nồng nặc mùi tanh của máu, đến cả khói bốc lên từ những ngọn nến lớn trên tường cũng khó che lấp đi. Hắn kéo một cái ghế, dứt khoát ngồi xuống.
“Ẩn đao và Tiềm đao hai vị tiên sinh, năm xưa cũng là những người ta cực kỳ khâm phục.”
Phụ thân hắn ngoại hiệu là “Ẩn đao”, cùng với mẫu thân hắn Hà Ngâm Xuân hiệu “Tiềm đao” rất được tôn sùng trên giang hồ, có thể coi là những nhân vật kỳ tích, thần thoại thuộc thế hệ trước của Đường môn. Bọn họ từng liên tục mười năm song song xuất hiện ở ba vị trí đầu trên Đao bảng. Một đôi phu phụ đều là cao thủ tuyệt đỉnh là chuyện cực kỳ hiếm thấy trên giang hồ, năm mươi năm gần đây quả thật có một không hai.
“Ông ta là tổng quản Hình đường, đáng nhẽ ta sớm phải nghĩ ra chính ông ta là người dùng hình với Mộ Dung Vô Phong”, Hà Y quắc mắt, trong lời nói ẩn chứa sát khí, “Chỉ vì không muốn tin tông sư đao pháp một thời cũng có thể làm loại chuyện ti bỉ vô sỉ như thế”.
Đường Tiềm khẽ nhíu mày.
Thực ra việc dùng hình với Mộ Dung Vô Phong là quyết định của Đường Lan, năm đó phụ thân hắn từng kịch liệt phản đối, cho rằng làm thế sẽ khiến Vân Mộng cốc phẫn nộ, càng mang tới cho Đường gia bảo thêm nhiều nguy hiểm. Nhưng Đường Lan chẳng để vào tai, thuyết phục bảy vị trưởng lão đồng thời gây sức ép với Hình đường. Căn cứ vào gia pháp, quyết định của hội đồng trưởng lão, Hình đường không thể phản kháng, buộc phải chấp hành.
Hắn biết một chút nội tình nhưng không muốn giải thích, chỉ lãnh đạm nói: “Gia phụ, gia mẫu đều đã qua đời. Bất kể ngươi muốn tính nợ gì thì đều có thể tìm ta. Ta là con trai duy nhất của bọn họ”.
“Yên tâm đi, ta không thể để ngươi chết dễ dàng thế được”, Hà Y nói, “Hiện phải phiền ngươi đi với ta một chuyến”.
“Đi đâu?”
“Vân Mộng cốc.”
Trong lòng hắn lạnh toát, không tự chủ được sờ sờ chân của mình: “Nếu ngươi muốn giết ta, tốt nhất là ra tay luôn đi”.
“Nếu ngươi không đi cùng ta, trước tiên ta sẽ giết ngươi rồi sẽ đi giết Đường Tam, Đường Tứ, Đường Thất, Đường Bát.”
Cứ trông nàng đã giết Đường Đại và Đường Ngũ, câu này xem ra không phải là giả.
Hắn đành đứng lên.
Xe ngựa lao đi trên sơn đạo mấp mô, Hà Y rõ ràng cực kỳ căm ghét hắn, dọc đường chẳng buồn nói một câu. Đi được khoảng nửa canh giờ, xe ngựa chầm chậm dừng lại, hình như đã tới cổng lớn của Vân Mộng cốc. Hắn nghe thấy người gác cửa hỏi: “Là vị nào?”, phu xe trả lời ngắn gọn một tiếng: “Là phu nhân”. Tiếp đến xe ngựa qua cổng, lại đi thêm gần một tuần trà rồi mới từ từ đỗ lại. Hai người xuống xe, đi men theo con đường sỏi nhỏ một lúc, hắn chợt ngửi thấy mùi quế nức mũi, liền hỏi: “Có phải chúng ta đến nơi rồi không?”.
Hà Y không hề trả lời, chỉ mở cửa rồi đẩy hắn vào trong.
Dường như hắn đang đi vào một sân viện có tiếng nước chảy róc rách, bốn phía không có tiếng người, chỉ nghe tiếng lá xào xạc trong gió. Dọc đường hắn cố giải khai huyệt đạo, ý đồ khôi phục lại một thành nội lực nhưng không ngờ loại mê dược đó quá mạnh, không có cách nào giải được. Mới đi mấy bước, hai chân đã như muốn rời ra, may mà vào cửa là có hành lang, hắn phải vịn vào tay vịn mới có thể miễn cưỡng cất bước đi tới.
Đến trước một cánh cửa, Hà Y gõ cửa rồi quay đầu bảo hắn: “Ta không phải nữ nhân duy nhất hận ngươi, cô ấy nhất định sẽ chăm sóc ngươi thật tốt”.
Bên trong vọng ra một giọng nói rất trầm, rất dịu dàng khẽ hỏi: “Ai đấy?”.
“Là ta.”
“Có phải đã đem hắn tới rồi?”
“Tới rồi.”
Tựa như trong giọng nói dịu dàng đó có ẩn ý cười: “Phiền phu nhân chớ có nói lại với tiên sinh, nếu người biết được nhất định sẽ nổi giận”.
“Đương nhiên”, Hà Y nói, “Ta cáo từ trước, người giao lại cho cô.”
“Đi thong thả. Nguyệt Nhi, tiễn phu nhân.”
“Không cần đâu.”
***
Sương đêm trên hồ bắt đầu ngưng tụ, khói sương lan tỏa. Chân trời sao thưa nhưng sáng tỏ, một vì sao lạ mờ mờ treo trên đỉnh núi đang chìm trong đêm tối phía xa.
“Muộn thế này rồi còn chưa đi nghỉ?”, một đôi tay vòng từ sau lưng ôm lấy chàng.
Nàng ôm chặt lấy chàng, hơi thở phả vào gáy có chút nóng bỏng. Còn thân thể của chàng lại lạnh giá, ngồi trong đình quá lâu, không tránh khỏi toàn thân cứng lại.
Chàng nắm lấy cổ tay nàng, nhẹ nhàng hỏi: “Nàng không sao chứ?”.
“Không sao”, nói rồi nàng vùi đầu vào cổ chàng, hôn vào khe ngực áo hơi hé mở của chàng. Làn môi ấm áp ướt át của nàng hòa tan chàng, khiến chàng gần như sắp mất đi tri giác. Chàng đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve má nàng.
“Ngồi ở đây lâu lắm rồi phải không?”, nàng hỏi.
“Không tính là lâu.”
… Không biết rốt cuộc nàng đã làm gì, sao khuya thế này mới quay về. Chàng không hỏi.
Về là tốt rồi.
“Đã thấm mệt chưa?”, nàng vén lại tấm chăn lông đắp trên chân chàng.
“Có một chút.”
“Vết thương trên tay đỡ hơn chưa?”
“Không sao nữa rồi.”
… Chiều nay, trên đường về cốc, xe ngựa của chàng bất ngờ bị đột kích, cho dù Hà Y phản ứng cực nhanh, tay của chàng vẫn trúng một mũi tên. Tuy chỉ là vết thương ngoài da nhưng đầu tên có bôi kịch độc, thoáng cái cả cánh tay đều biến thành màu đen. Nếu không phải chàng nhanh tay phối chế ra thuốc giải, chỉ sợ tính mạng cũng khó giữ. Kể cả như thế, cũng đã dọa cho Hà Y một phen khiếp sợ. Về đến cốc, chàng hôn mê lịm đi một canh giờ, lúc tỉnh lại thì phát hiện Hà Y không ở bên cạnh mình.
Chàng đoán được quá nửa nàng đi làm chuyện gì, định khuyên nàng không nên hành động theo cảm tính, bỗng cảm thấy trong ngực nôn nao, vội xoay người với lấy ống nhổ rồi nôn thốc nôn tháo không sao kiềm chế được.
“Sao rồi?”, nàng thất thanh hỏi.
Chàng nôn rất dữ dội, cả người gập xuống, cơ bụng co thắt từng hồi. Ngừng nôn rồi mà chén trà nàng bưng tới lúc nãy chàng cũng không muốn uống. Nước uống vào chẳng mấy chốc sẽ lại nôn ra bằng hết. Vật vã một lúc mới ngừng lại, khi ấy đã sức cùng lực kiệt rồi.
Gần đây dạ dày chàng không tốt, cơm cũng ăn rất ít, người gầy đi nhiều. Sau khi từ Thiên Sơn quay về, tình hình sức khỏe của chàng ngày càng sa sút, bệnh phong thấp vốn đã cực kỳ nghiêm trọng giờ lan ra toàn thân. Chỉ cần tiết trời hơi lạnh là các khớp tay phải sẽ sưng phù cương cứng, tay trái cũng dần dần mất đi sự linh hoạt. Trong những ngày tệ nhất, chàng không cách nào khám bệnh được, đến ngồi dậy cũng không dễ dàng. Mùa đông năm ngoái lại lạnh đến bất ngờ, khiến cho bệnh phong thấp, bệnh tim của chàng rồi vết thương cũ mới thay nhau phát tác, khiến chàng hơn ba tháng trời nằm liệt giường, đến cả bệnh án cũng không làm sao phê duyệt được, chỉ đành đóng cửa không tiếp khách.
Chàng là người cao ngạo quật cường, trước giờ vốn không muốn phiền lụy người khác. Nhìn khuôn mặt ngày càng hao gầy của thê tử, lòng chàng không nỡ, bắt đầu đồng ý cho phép học trò của mình thay phiên chăm sóc bản thân. Nhưng Hà Y kiên quyết phản đối, ngay hôm đó đuổi hết học trò của chàng ra khỏi cửa. Nàng thấu hiểu tính cách của Mộ Dung Vô Phong, không thích giao tiếp với người ngoài, những việc như tắm rửa, mặc y phục, thay thuốc phải do chính tay nàng lo liệu. Trừ khi bản thân đổ gục, tuyệt đối không để người ngoài chạm vào chàng.
Dần dần, chàng bắt đầu che giấu bệnh tình của mình, bắt đầu nói nhẹ đi tất cả mọi thống khổ, bắt đầu chăm chỉ uống thuốc.
“Uống thêm chút nước”, nàng vỗ vỗ lưng chàng, nhẹ giọng khuyên.
Chàng thẳng lưng lên, đón lấy tách trà, súc miệng, không quên trấn an nàng một câu: “Không sao, bệnh cũ, ngẫu nhiên phát tác một chút thôi”.
“Mấy ngày nay sương lớn, chỉ sợ lại phạm tới vết đao rồi”, nàng thở dài một tiếng, “Ban đêm cứ thấy chàng trằn trọc trên giường mãi”.
“Sao thế được? Mấy ngày nay ta ngủ rất ngon mà.”
“Nhất định là cực kỳ đau, thiếp phải đi hỏi Sái đại phu xem sao.”
“Thật sự không sao đâu.”
“Còn nói là không sao!”, nàng lo tới thất sắc, “Khăn trải giường bị chàng cào rách một lỗ lớn rồi”.
Chàng đành im lặng không lên tiếng phản bác nữa.
Nàng đưa chàng về phòng ngủ, tắt đèn, nằm yên lặng bên cạnh chàng. Biết chàng còn đang đoán hành tung của mình chiều tối nay, sợ chàng hỏi dồn, bèn cố ý chọn một đề tài nhẹ nhàng: “Sáng nay ở chỗ Sái đại phu thiếp gặp một đám học trò của chàng”.
“Đó là hôm nay cử hành y hội theo lệ, ta không tới dự.”
“Bọn họ bám lấy thiếp, hỏi xem rốt cuộc trong số tất cả học trò y thuật của ai cao nhất.”
Ngày thường Mộ Dung Vô Phong dạy học trò cực kỳ nghiêm, luôn nói không so bì ai cả. Các học trò đều muốn từ miệng Hà Y moi được một chút cơ mật.
“Nói với bọn họ: Ai cũng có cái hay riêng, khó phân cao thấp.”
“Thiếp chính là nói như thế. Cái câu vô thưởng vô phạt ấy nói ra vô số lần rồi, đến bản thân thiếp cũng thấy phát chán. Hay là bây giờ chàng nói nhỏ cho thiếp, thiếp thề sẽ không nói cho ai khác, có được không?”
“Ta muốn ngủ…”
“Là Sái Tuyên à?”
“…”
“Hay Trần Sách?”
“…”
“Chẳng lẽ là Vương Tử Kinh?”
“…”
“Rốt cuộc là ai?”
Trầm mặc hồi lâu, cuối cùng Mộ Dung Vô Phong cũng nói ra một cái tên:
“Ngô Du.”
Hà Y thở dài một tiếng, bỗng nói: “Chàng có phát hiện ra không? Ngô Du thay đổi nhiều rồi”.
Lúc vừa từ Thiên Sơn quay về, người trong cốc kể lại với họ, sau khi nhận được tin Mộ Dung Vô Phong “qua đời”, Ngô Du từng lâm trọng bệnh một trận. Tuy mọi người đều biết tại sao nhưng không ai dám nói ra. Khoảng thời gian ấy, mọi người thường trông thấy nàng mặc đồ trắng tựa như âm hồn đứng bồi hồi ven hồ vào đêm khuya. Sợ nàng nghĩ quẩn, Quách Tất Viên không thể không sai thủ hạ lặng lẽ bám theo sau. Nhưng nàng không làm gì dại dột, chỉ nằm liệt giường vài tháng rồi dần dần khỏe lại, khuôn mặt hóp đi trông thấy, từ xa nhìn lại, chỉ thấy được đôi mắt to tròn. Nàng trở thành cực kỳ trầm mặc, tính tình càng ngày càng xấu, càng ngày càng khó đoán. Nàng bới móc phương thuốc của Trần Sách, chê Sái Tuyên tay nghề chậm chạp, trong y hội thì tranh cãi với tất cả mọi người, khiến các đại phu từ bên ngoài tới không cách nào giữ được thể diện. Dần dần, người trong cốc không ai dám va chạm với nàng nữa.
Có một hôm, các đại phu cuối cùng cũng không nhịn nổi nữa, bèn nhất tề kêu khổ với Trần Sách lúc ấy là chủ quản y vụ. Trần Sách đành tìm lý do điều nàng tới Trúc Gian quán ngoài cốc. Tiếp đến, mọi người nhanh chóng phát hiện ra một chuyện: vai trò đại phu của Ngô Du là không thể thay thế. Những thủ thuật sở trường của nàng không ai bì được. Thiếu nàng, tốc độ khám chữa cho bệnh nhân trong cốc lập tức chậm đi rất nhiều.
Vì đại cục, Trần Sách đành khuyên nàng về lại cốc. Lần này, ba vị chủ quản lần lượt thay phiên làm thuyết khách nhưng không ai có thể mời được nàng về cốc.
Cho tới khi Mộ Dung Vô Phong quay về cốc nghe được chuyện này, bèn tự mình chạy tới Trúc Gian quán nói một câu “Thực sự ta rất cần cô về giúp”, nàng mới ngoan ngoãn cùng chàng lên xe ngựa quay về. Kể cả như thế, nàng cũng vẫn không muốn ở lại trong cốc. Mộ Dung Vô Phong chỉ có thể để nàng mười ngày đầu tháng ở lại cốc, hai mươi ngày sau về Trúc Gian quán. Nếu chàng sinh bệnh không dậy nổi, Ngô Du ắt sẽ tự động xin ở lại cốc cả tháng, giúp chàng lo liệu y vụ.
“Cô ấy có chút thay đổi”, Mộ Dung Vô Phong thừa nhận, “Dạo trước, ta thường thấy cô ấy một mình ở lại băng thất giải phẫu thi thể, tận khuya vẫn không nghỉ. Cô ấy không phải là người gan nhỏ, nhưng những thi thể ấy đa phần là chân rời tay cụt, mặt mũi đáng sợ, đến cả ta nhìn lâu cũng thấy khó chịu. Vậy mà cô ấy dường như rất thích thú, thường thường vừa làm vừa ăn, có lúc còn uống rượu nữa”.
“Không phải chàng cũng vừa làm vừa ăn nho đấy sao?”, Hà Y cười nói.
“Ta với cô ấy không giống nhau.”
“Sao lại không giống?”
“Ta từ trước tới giờ luôn thế”, chàng nói, “Còn cô ấy trước đây hoàn toàn không như vậy. Cô ấy vốn không thích đối diện với tử thi. Tòa băng thất ấy, nếu không bắt buộc phải đi thì cô ấy sẽ không đi. Nếu bọn ta rời đi hết, cô ấy cũng sẽ đi theo, rất ít khi đơn độc ở lại đó một mình”.
“Những thay đổi này bắt đầu từ khi nào thế?”
“Sau khi chúng ta quay về.”
“Cũng có thể khi cô ấy lấy chồng rồi sẽ khá hơn.”
“Tại sao?”
“Đối với một vài nữ nhân mà nói, lấy chồng vốn cũng là một liệu pháp.”