Mê Thần Ký Chương 19 part 2

Chương 19 part 2
Nếu như chàng gặp bất kỳ nguy hiểm gì, ta hy vọng ngươi có thể kịp thời cứu viện, không tiếc sức mình giúp chàng vượt qua khó khăn”

“Hắn chắc sẽ không một mình xuất môn chứ?”
Tuy đao pháp của Đường Tiềm có thể xem là đệ nhất thiên hạ nhưng người mù thì vẫn cứ là người mù, có rất nhiều chuyện không phải chỉ dựa vào một thanh đao mà có thể giải quyết được.
“Không, cùng đi với chàng là Đường Phất, con trai cả của bọn ta, cho nên ta lại càng lo hơn nữa. Ta hy vọng ngươi có thể đồng thời bảo vệ cả hai người ấy.”
“Có thể nói xem họ sẽ đi đâu, làm gì không?”
“Xin lỗi, việc này ta không biết gì hết, chỉ biết bọn họ phải đi điều tra một chuyện, rất có thể sẽ gặp nguy hiểm.”


“Dựa vào võ công của hai người ấy, tôi tin rằng những lúc cần tôi ra tay không nhiều”, hắn thẳng thắn nói: “Hai nghìn lạng bạc là đủ rồi”.
“Hai năm trước, Đường Tiềm từng bị trọng thương, nội lực và sức khỏe đã giảm đi nhiều. Đường Phất còn quá trẻ, cao ngạo tự tin nhưng lại chẳng có kinh nghiệm giang hồ gì. Nếu như Đường Tiềm gặp chút nguy hiểm, nó sẽ thà chết bên chàng chứ không chịu trốn. Hai người họ phụ tử thân thiết, nhưng tuyệt đối không phải là trợ thủ tốt cho nhau.
Hắn nhìn nữ nhân trước mặt mà cảm thấy bội phục, trầm tư một lát, gật đầu: “Một vạn lượng bạc. Trả trước một nửa, sau khi xong việc thanh toán toàn bộ”.
Ngô Du rút ngân phiếu đưa cho hắn, chợt lại rụt về, nói: “Bọn họ không nói cho ta, ngươi chỉ còn có một mắt”.
“Hai mắt trượng phu cô đều mù cả”, hắn khoanh tay, lạnh lùng nói. Mắt trái của hắn hơi đục, ở giữa có một giọt máu tươi. Hắn biết trong lời đồn thổi trên giang hồ, sát thủ luôn được coi là những nhân vật thần bí không sợ chết càng không sợ đau, bọn họ gân đồng xương sắt, đao thương bất nhập, bị thương chảy máu chỉ là chuyện cơm bữa hằng ngày. Hình như trời sinh da thịt sát thủ không sợ lửa nóng đao vạch, cho dù có bị thương cũng nhanh chóng lành lại. Xương sườn bất kể gãy bao nhiêu chiếc, nằm trên giường nhiều nhất là mười ngày lại có thể xách đao xuất môn. Nói một câu, đã là sát thủ, phải có thân thể của sát thủ, càng phải biết tuổi thọ của sát thủ. Làm cái nghề này, đại đa số không sống quá bốn mươi, cho nên lúc nhàn rỗi bọn họ đều sống rất phóng túng, vung tiền như rác, mê rượu hám gái, chẳng có gì là không làm.
Thực ra, trừ việc thân thủ nhanh nhẹn, sát thủ chẳng có gì khác với người bình thường. Bọn họ dựa vào đôi tay mà kiếm cơm, thân thể chính là vốn liếng lớn nhất. Bất cứ một tổn thương vĩnh viễn nào cũng sẽ đem lại bất lợi chí mạng cho nghề nghiệp của họ. Bởi thế, bất cứ ai bị thương đều cố gắng che giấu vết thương của bản thân, chỉ sợ tin tức truyền ra, giá thuê tụt xuống; đồng thời bọn họ cũng thông thạo y quán, dược đường hay danh y từng địa phương như lòng bàn tay.
Tất cả đại phu đều bảo với hắn, con mắt trái của hắn sẽ mau chóng mất đi ánh sáng, e rằng tiếp đó còn bị mưng mủ sưng phù, sau cùng chỉ còn cách phải lấy ra. Cùng với việc thị lực của mắt trái giảm dần, theo bản năng hắn cũng cảm thấy khủng hoảng.
“Ta là đại phu. Ngươi vừa mới bị thương, võ công sẽ chịu ảnh hưởng lớn.”
Hắn cảm thấy bị sỉ nhục, sắc mặt tái xanh.
Đây là loại chủ thuê hắn ghét nhất. Chẳng biết chút gì về võ công, tự cho mình có tiền, thái độ chọn thích khách chẳng khác gì chọn dưa hấu.
Cùng lúc ấy, một đạo hàn quang như điện chớp ập tới mắt Ngô Du! Trong cơn hoảng hốt, nàng sợ ngây ra, đứng sững một chỗ.
Hàn quang chớp lóe rồi biến mất. Không có gió nhưng cái mũ trùm đen tuyền vẫn lay động.
“Xin hỏi, vừa rồi tôi chém bao nhiêu kiếm?”
Nàng lắc đầu.
“Chém đứt bao nhiêu sợi tóc của cô?”
Nàng lắc đầu.
“Tổng cộng tôi chém ba kiếm, làm đứt mười bảy sợi tóc của cô.”
Hắn đưa lưỡi kiếm ánh bạc tới trước mặt nàng, nhẹ một hơi, mười bảy sợi tóc dài lất phất bay trong không trung.
“Cô có hai mắt nhưng chẳng thấy gì cả.”
Ngô Du không đổi sắc mặt nhìn hắn, chẳng có chút xấu hổ nào trên mặt.
Qua một hồi, nàng lãnh đạm nói: “Ngươi hiểu nhầm ý ta rồi. Ta chỉ muốn nói, nếu bây giờ ngươi chịu tới y quán của ta một chuyến, ta có thể trị khỏi vết thương ở mắt ngươi, phí khám chỉ có năm mươi lượng”.

Rạng sáng, trời lất phất mưa nhỏ, đường núi âm u, mây mù gió thốc.
Mặt đất đầy bùn trơn trượt, xe ngựa tới lưng chừng núi thì không còn đường nữa, chỉ có một lối đi ruột dê nhỏ quanh co, rộng vừa đủ một người đi. Dọc lối toàn những cành mận gai đâm ra tua tủa, cành khô ngang dọc chắn đường, đá núi sắc cạnh, cỏ dại mọc um tùm. Tô Phong Nghi buộc ngựa dưới gốc cây đại thụ, bỏ mũ trùm xuống, sửa sang lại đầu tóc, nước mưa mát lạnh thoáng chốc đã ướt hết tóc, nàng nói với Tử Hân: “Xem ra chúng ta chỉ có thể đi bộ tiếp thôi”.
Tử Hân sớm đã xuống ngựa, nhặt dưới đất một đoạn trúc, lấy dao gọt đẽo thành một cây gậy trúc, đưa cho nàng: “Hôm nay thời tiết không đẹp. Dù muội có cảm thấy hái thuốc là chuyện thú vị thì cũng nên chọn một ngày đẹp trời một chút”.
Tô Phong Nghi nhận lấy cây gậy, vén góc váy lên cho chàng thấy đôi giày rơm của mình: “Muội không sợ đường trơn, trước lúc đi, muội đã cố tình đi đôi giày này. Chẳng lẽ huynh chưa nghe Đông Pha nói, ‘Gậy trúc giày rơm khinh ngựa tốt, Ai sợ, Áo tơi mưa gió mặc kệ đời’[1] sao?”, vừa nói dứt lời, bất thình lình chân trượt một cái, thân thể ngã về một bên, nàng không khỏi “A” lên một tiếng, mắt thấy bản thân sắp rơi xuống đến nơi, Tử Hân đã nhanh tay giữ lấy vai nàng, đỡ người nàng đứng vững, khẽ cười: “Lúc leo núi mắt phải nhìn đường, đừng có ngâm thơ”.
[1] Trích từ điệu Định Phong Ba của Tô Đông Pha thời Bắc Tống, Trung Quốc. Nguyên văn: Trúc trượng mang hài khinh thắng mã, Thùy phạ, Nhất soa yên vũ nhậm binh sinh.
Chàng vẫn đội cái nón mình thích, lưng đeo sọt thuốc, chống trượng mà đi, gạt cành chặt bụi. Tô Phong Nghi ngoan ngoãn theo sau chàng. Cái chân tàn phế của chàng đi trên đường núi trơn trượt thế này rõ ràng rất không thuận tiện, không chỉ là không sao đi nhanh, có lúc một bước mà phải đi thành hai, nhưng chàng vẫn có thể giữ cho bước chân vững vàng và có tiết tấu, rất ít khi phải dừng lại. Gặp chỗ nguy hiểm, chàng vẫn đi trước một bước để có thể tìm chỗ cao mà tiếp ứng phía dưới. Tô Phong Nghi vốn Iuôn nắm một cánh tay chàng, thấy chàng đi lại khó khăn nhưng vẫn phải phân tâm để ý đến mình, trong lòng không đành liền lẳng lặng bỏ tay ra, chỉ nắm lấy vạt áo chàng để chàng rảnh tay mà vịn vào cây cối ven đường.
Đi được gần một dặm đường núi, trước mắt bỗng thoáng đạt. Phía trước là một sơn cốc rộng rãí, cỏ cây xanh mướt, khắp nơi là xuân cúc vàng nhạt. Lúc ấy cơn mưa vừa tạnh, mặt trời ló ra khỏi lớp mây dày, gió khe khẽ thổi, ngàn vạn đóa hoa vàng đu đưa theo gió. Tạ Phong Nghi sớm đã mướt mát mồ hôi, bèn lật mũ trùm xuống, ngồi trên một tảng đá lớn bên đường, nói với Tử Hân: “Chúng ta nghỉ ở đây một lúc được không?”
Tử Hân thong thả đi tới bên đường, rút con dao nhỏ, khom lưng cắt lấy một khóm man thảo đang nở hoa trắng, cuộn thành bó rồi bỏ vào sọt thuốc.
“Đây là thuốc gì?”, Tô Phong Nghi bước tới hỏi.
“Mùng tơi. Thường dùng để tiêu sưng cầm máu”, Tử Hân lấy một cây đưa cho nàng xem: “Hạt của nó sau khi chưng lên, phơi khô tán nhỏ, hòa với mật ong trắng có thể bôi lên mặt dưỡng da”.
Tô Phong Nghi chớp mắt, cười nói: “Sao huynh biết? Huynh thử rồi à?”.
“Đường Hành thử rồi, đây là phối phương đệ ấy thích nhất.”
“Nói tới A Hành”, trong đầu Tô Phong Nghi thoáng động, vội hỏi: “Huynh có cách nào để cái đầu trọc lóc của huynh ấy được thấy mặt trời không? Thời tiết càng lúc càng nóng, lẽ nào huynh ấy cả ngày cứ phải đội tóc giả?”.
“Đệ ấy dường như đã thử qua không dưới năm chục đơn thuốc huynh kê, đáng tiếc là chẳng cái nào có tác dụng.” Tử Hân lắc đầu cười khổ: “Cho dù như thế, đệ ấy vẫn tràn đầy lòng tin với huynh. Bất kể thuốc gì, đệ ấy đều nghiêm túc uống theo lời dặn. Khiến cho bây giờ mỗi lần nghĩ tới cái đầu trọc ấy, là huynh cảm thấy day dứt không yên, có thể nói là còn đau khổ hơn cả đệ ấy nữa.
“Có phải vị đại phu nào cũng cảm thấy áy náy với bệnh nhân mình chữa không tốt?”
“Đúng vậy”, thần thái của Tử Hân vốn rất bình tĩnh, bình tĩnh tới mức gần như lạnh lùng, lúc này trong mắt lại thoáng hiện nét ấm áp: “Có điều phụ thân huynh không như thế, chí ít là không tỏ rõ ra bên ngoài”.
Tô Phong Nghi nghe thế, tim bất chợt đập mạnh hơn.
Từ trước tới giờ, Tử Hân chưa từng nhắc tới phụ thân mình, nàng một mực cho rằng chàng là cô nhi.
“Phụ thần huynh cũng học y?”
Chàng gật đầu, thần sắc buồn bã: “Người ốm đã nhiều năm, thân thể luôn không khỏe mạnh”.
Tô Phong Nghi vốn muốn tiếp tục hỏi xem phụ thân chàng có còn sống không, trong nhà còn có thân nhân nào khác nữa, thấy ánh mắt chàng có nét thương tâm, liền vội vàng ngậm miệng, cười nói: “Người nhất định cũng để huynh thử rất nhiều phương thuốc rồi”.
Câu trả lời của chàng rất kỳ lạ: “Huynh đoán trước giờ người chưa từng thử qua đơn thuốc của huynh… Cảm thấy chúng vừa không đáng tin, lại kỳ cục khó hiểu”.
Cứ như tìm được người cùng phe, Tô Phong Nghi lập tức ba hoa một trận: “Cha muội cũng như thế. Bất kể muội nói gì, ông ấy đều không tin. Thật ra chỉ là ông ấy không muốn tin bản thân lại có thể sai lầm, càng không thèm tranh luận với muội… Từ nhỏ tới giờ, hai chữ ông ấy hay nói với muội nhất là ‘xằng bậy’”.
“Nhưng mà, muội theo nghề đồ cổ, là ai dạy muội vào nghề?”, Tử Hân hỏi.
Tô Phong Nghi đáp: “Mẹ muội vốn là nha hoàn trong thư phòng của cha muội, sau này thành người của ông ấy. Từ khi có muội, bà lo muội khó có chỗ đứng trong cái đại gia tộc ấy, hằng ngày bà để ý thư mục sách cha muội đọc. Cứ mỗi khi ông ấy đọc xong một cuốn, mẫu thân lại trộm khỏi thư phòng, len lén chép lấy một bản cất trong chiếc rương. Bà dạy muội học chữ, đọc sách, từ nhỏ đã để muội tới tiệm đổ cổ của cha chơi với các sư phụ, giúp việc ở đây. Dần dần, dưới gầm giường muội đầy những sách bà chép. Năm muội mười hai tuổi, bà ốm nặng qua đời, trước lúc mất, muội cầu xin cha tới gặp bà một lần, ông ấy không đồng ý, nói là có cuộc gặp gỡ quan trọng. Những thứ muội biết đều là lén lút học được… Không ít những thứ gia truyền chỉ truyền con dâu không truyền con gái, mà cha muội đến cả con dâu cũng không tin. Quy củ của Tô gia là truyền con trai không truyền cho con dâu, càng chớ nói con gái…”
Trước giờ nàng đều không muốn nhắc tới việc nhà mình không biết vì sao hôm nay lại nói nhiều đến thế. Giọng nàng rất bình thản, tựa như tất thảy đều đã trở thành chuyện xưa cũ, nhưng lúc nàng nói, tay trái cứ run lẩy bẩy.
Lúc ấy, nàng cảm thấy một bàn tay to lớn nắm lấy cánh tay đang run của mình, nắm rất chặt. Kế đến, một giọng nói ấm áp dịu dàng nhè nhẹ vang lên bên tai:
“Phong Nghi, muội là một cô bé đáng yêu lại có học vấn. Rất nhiều người không hiểu biết nhiều bằng muội, bao gồm cả huynh.”
Nàng rất vui, muốn cười nhưng trong mắt đã đẫm lệ. Tử Hân buông trượng, ngồi xuống cạnh nàng, nàng tựa vào lòng chàng, nghe tiếng tim chàng đập đều đều. Tiếng tim chàng đập khiến nàng nhớ tới mẫu thân, nhớ tới hồi nhỏ mỗi khi chịu tủi hờn, mẫu thân cũng ôm nàng vào lòng như thế, nhịp tim người chính là lời vỗ về không lời. Nàng nguyện vĩnh viễn được sống cạnh trái tim này, vĩnh viễn nghe nó đập, tựa như nó là con tim của chính mình vậy.
Tử Hân vỗ vai nàng, tiếp tục nói: “Đừng đau lòng như vậy. Thấy muội bây giờ đã trở thành một chuyên gia về đồ cổ, rời khỏi phụ mẫu vẫn có thể tự mình sống tốt, mẹ muội trên trời có linh hẳn sẽ rất yên tâm”.
Tô Phong Nghi nín khóc bật cười: “Cái gì mà chuyên gia đồ cổ? Còn phải cách cái danh hiệu ấy một vạn tám ngàn dặm nữa cơ”.
Lúc ấy chàng vẫn đang cúi đầu, nàng ngẩng đầu, dùng trán cọ nhè nhẹ lên má chàng. Nước mưa và mồ hôi từ trán chàng chảy xuống, hòa với nước mắt nàng, lăn tới khóe môi có vị mằn mặn. Hai người im lặng không nói, ôm lấy nhau ngồi một chỗ.
Một tia chớp xé trời sơn cốc, mưa lại dần dần trút xuống, càng lúc càng to.
“Sắp có sấm rồi”, chàng đột nhiên nói, một cánh tay bất tri bất giác siết chặt lấy nàng, cứ như sợ nàng sẽ tuột đi mất.
“Huynh sợ sấm?”, Tô Phong Nghi nheo mắt cười.
“Ừ”, trong mắt Tử Hân hiện nét u uất. “Ta sợ sấm”.
“Có muội đây, không sao đâu”, nàng vỗ lưng chàng, nói rồi nhấc sọt thuốc, kéo tay chàng, chỉ về sườn núi cách đó không xa: “Nhìn kìa, ở đó có một ngôi miếu nhỏ, bọn mình tới đó tránh mưa. Y phục ướt hết cả rồi này!”.
Tử Hân ngẩng đầu nhìn, đằng xa mây đen nặng trịch, ở giữa có một đám mây cuồn cuộn như xoáy nước. Không có tiếng sấm, trong tầng mây chớp lóe không dứt, chiếu lên chân trời một mảng đỏ hồng. Chàng chợt cảm thấy cảnh tượng này dường như trước đây đã từng thấy, không khỏi có chút ngây ra, bất động. Tô Phong Nghi đã đưa trượng vào tay chàng, kéo chàng đứng lên: “Nhanh một chút, trời sắp mưa to rồi”.
Hai người lụp ngụp trong mưa, từ con đường nhỏ trèo thẳng một mạch tới sườn núi, chạy vào trong miếu.
Đó là một sơn tự bỏ hoang đã nhiều năm, tường sau thủng một lỗ lớn được chắn ngang bằng tảng đá, dường như bị lũ quét trăm năm trước lăn xuống. Trên mặt đá phẳng bóng có một hõm nước, nước mưa đang từ trên nhỏ xuống tí tách, những giọt nước tỏa ra bốn phía, phát ra tiếng nho nhỏ.
Tô Phong Nghi gom cành khô lại, rút mồi lửa nhóm một đám lửa nhỏ. Hai người cởi bỏ áo ngoài ướt sũng nước, đặt cạnh đám lửa hong khô. Trong khe cửa có ba đóa xuân cúc vàng, Tô Phong Nghi hái lấy, cười hì hì đưa tới trước mắt Tử Hân: “Xuân cúc này chính là loài hoa muội thích nhất, không biết có thể làm thuốc không?”.
Tử Hân ngẩn ra nhìn chằm chằm vào ba cái nhụy hoa lông tơ lởm chởm trước mũi mình, trên mặt có chút biểu cảm cổ quái, lại có chút ngượng nghịu, sau đó mặt chàng chợt tái đi, không tự chủ lùi về phía sau, tựa lưng vào tường, hơi thở càng lúc càng gấp gáp.
“Sao vậy?”, Tô Phong Nghi ngạc nhiên rồi chợt tỉnh ngộ, vội vàng quăng xuân cúc xuống đất: “Phấn hoa đúng không? Huynh sợ phấn hoa cúc?”.
Tử Hân gật đầu, miễn cưỡng coi đó là câu trả lời. Hơi thở mỗi lúc một gấp hơn, ngón tay tái xanh, mồ hôi ướt đẫm, khuôn mặt đã đỏ bừng.
Nàng vội vàng rút trong túi áo chàng ra một lọ thuốc màu đen, cái lọ này giống hệt lọ thuốc sáu năm trước. Dốc bên trong ra một viên thuốc hình vuông, màu thuốc và hình dáng cũng giống hệt sáu năm về trước. Nàng nhét viên thuốc vào miệng chàng, lấy bình nước đổ vào miệng chàng một ngụm, sau đó bấm mạnh vào huyệt Ngư Tế của chàng. Một lúc sau, Tử Hân mới thở ra một hơi dài, hô hấp ổn định trở lại, ngượng ngùng cười với nàng.
Bao nhiêu năm rồi chàng không hề thay đổi, vẫn không quen có người khác thấy mình phát bệnh, càng không quen có người chăm sóc mình. Nàng im lặng chăm chú nhìn chàng, cảm thấy có chút đau lòng.
Chàng cười rất yếu ớt, cười chỉ để an ủi nàng thôi.
“Lọ thuốc màu đỏ này có tác dụng gì?”, nàng hỏi. Trong túi áo chàng vẫn còn một lọ thuốc khác, bên trong đựng dược hoàn màu đỏ. Lần đầu tiên thấy chàng phát bệnh, nàng sợ hãi luống cuống, cũng chẳng biết thuốc nào có tác dụng, liền bỏ cả hai loại vào miệng chàng. Sau này chàng nói với nàng, chàng chỉ cần uống thuốc trong lọ màu đen thôi.
“Huynh không biết.”
“Huynh không biết?”
“Thuốc là do phụ thân huynh đưa, người dặn cứ cách ba tháng uống một lần.”
“Nhưng người lại không nói với huynh thuốc dùng làm gì?”
“Người nói dùng để trị bệnh hen suyễn, nhưng huynh không tin… Huynh chẳng phải không hiểu dược lý. Nếu thuốc huynh gửi, trước giờ phụ thân không uống, tại sao huynh lại phải uống thuốc người đưa mình?”
“Phụ tử hai ngưòi… khụ khụ… thật thú vị” nghe nói thế, nàng dở khóc dở cười.
Qua một lúc, Tử Hân chợt bảo: “Phong Nghi, dưới đất có rất nhiều gián”.
Gián!
Nghe thấy chữ này, nàng giật thót, Tử Hân sợ gián!
Nàng nhìn trái nhìn phải, không thấy bóng dáng con gián nào, lại lật đệm cỏ kiểm tra kỹ một lượt, vẫn không thấy gì, không nhịn được hỏi: “Gián ở đâu? Sao muội chẳng thấy một con nào?”.
“Ở ngay cạnh chân muội… ba con.”
“Làm gì có”, nàng trợn mắt, kiểm tra bốn phía: “Không có gián”.
“Không sao cả, Trúc Ân sẽ giúp chúng ta giải quyết. Gián là thứ huynh ấy thích ăn nhất”, chàng cười nhẹ: “Trước giờ muội chưa từng gặp Trúc Ân, đúng không?”.
Tô Phong Nghi càng nghe càng mơ hồ: “Trúc Ân là ai?”
“Trúc Ân ở trên cây”, chàng chào hỏi không khí: “Trúc Ân huynh, lâu rồi không gặp”.
Tô Phong Nghi ngây ra, thân thể chợt cứng đờ, sững sờ nhìn Tử Hân lẩm nhẩm nói, thần thái thân thiết giống như gặp được một lão bằng hữu nhiều năm không gặp. Nàng chú ý lắng nghe, muốn nghe xem chàng đang nói gì, đôi môi chàng luôn máy động, nhưng âm thanh lại thấp tới mức nghe không ra.
Nàng lay mạnh thân thể chàng, nhỏ giọng gọi: “Tử Hân, tỉnh lại! Tỉnh lại!”.
Tử Hân quay sang nhìn nàng, dịu giọng nói: “Không phải sợ, Trúc Ân là bằng hữu của huynh, hình dáng hắn tuy… tuy có chút kỳ dị nhưng tộc bọn họ, ai ai cũng có bộ dạng như thế”.
“Tử Hân, huynh nghe muội này”, nàng cuộn y phục ướt thành một dải, đắp lên trán chàng, nhìn vào mắt chàng, nói từng chữ: “Ở đây không có cây, cũng không có Trúc Ân”.
Chàng gạt tay nàng, thần thái rõ ràng có chút bực bội. Hồi lâu, kiềm chế được cơn giận của mình, mới bình tĩnh nói: “Trúc Ân ngồi ngay bên cạnh huynh”.
Khuôn mặt Tô Phong Nghi hơi tái đi: “Tại sao muội không nhìn thấy huynh ấy?”.
Đôi mắt Tử Hân mê man: “Huynh ấy vừa từ trên cây xuống, mặc một bộ áo màu đỏ sẫm, đầu người mình rắn. Lẽ nào muội không thấy ở đây có một cây linh sam, bên trên còn có cây leo cổ đằng nghìn năm…”.
“Vậy rốt cuộc Trúc Ân ngồi chỗ nào? Bên trái hay là bên phải muội?”, nàng lạnh giọng hỏi.
Tử Hân thở dài một tiếng, nói: “Phong Nghi, muội không hiểu lời huynh, huynh cũng không hy vọng muội có thể tin huynh. Chúng ta sống trong thế giới khác nhau”.
Nàng tập trung nhìn vào mắt chàng: “Tử Hân, huynh là đại phu, lẽ nào huynh cũng tin vào quỷ hồn hiển linh?”.
Tử Hân lắc đầu.
“Vậy thì, nói cho muội, rốt cuộc đây là chuyện gì? Vì sao huynh có thể nhìn thấy cái muội không thể nhìn thấy?”
Chàng không chịu trả lời.
“Mỗi người chỉ có một linh hồn, lẽ nào huynh có tới hai?”
Chàng trầm mặc, hồi lâu sau mới nói: “Muội sai rồi. Mỗi người đều có vô số linh hồn, mỗi một ý niệm đều là một lần linh hồn hiển hiện. Những linh hồn ấy, giống như một đám người đi vào cùng một gian phòng, có cái quen biết nhau, có cái hoàn toàn xa lạ, có cái hợp nhau, có cái hoàn toàn khác nhau… Huynh như thế, muội cũng như thế”.
Nàng nghe thấy mưa bên ngoài đã ngừng, mặt trời một lần nữa ló khỏi tầng mây, dải ánh sáng vàng khắp nơi.
Nàng không tin lời Tử Hân, bởi vì nàng sống trong một thế giới sáng tỏ. Đúng vậy, trong thế giới sáng tỏ, mỗi người chỉ có một linh hồn.
“Tử Hân, muội thích huynh, nhưng huynh không thể ép muội tin thứ muội không tin”, nàng ngơ ngẩn nhìn chàng, sợ hãi nói.
Tử Hân gật đầu, tỏ ra thấu hiểu, nhẹ giọng nói: “Chỗ này cách chân núi rất gần, sao muội không về trước? Nếu muội không phiền, huynh muốn ở đây một mình trò chuyện với Trúc Ân một lát”.
Tô Phong Nghi tức xanh mặt, chẳng nói chẳng rằng, quay đầu đi ra khỏi cửa.
Ngày hôm ấy, nàng cưỡi ngựa bồi hồi đứng trên sơn đạo rất lâu.
Mấy lần nàng định quay lại nói với Tử Hân, nàng tình nguyện tin là có Trúc Ân, tin rằng trong miếu có cây linh sam bên trên cuốn đầy cổ đằng. Chỉ cần chàng yêu nàng. Bất kể trong đầu chàng nghĩ cái gì, nàng đều nguyện tin tưởng. Nàng cũng nguyện ý tin rằng con người có vô số linh hồn, cho dù là linh hồn thuộc về nàng quá ít, cho dù là nàng sống trong cái thế giới không thể trông thấy Trúc Ân. Nàng hy vọng chàng có thể trao cho mình nhiều linh hồn hơn, để nàng có thể tiến vào thế giới của chàng. Nàng nghĩ rất lâu, rất lâu, cuối cùng lại cho rằng mình không phải ai khác, chỉ là chính mình. Bởi thế nàng lặng lẽ về khách điếm, lặng lẽ ăn bữa sáng, về phòng, thấy Đường Hành đã rời đi bèn ngã xuống giường, vùi đầu ngủ.
Tới trưa, Tô Phong Nghi thẫn thờ xuống lầu gọi hai cái màn thầu lót dạ, đang định ra ngoài, Tử Hân bỗng xuất hiện trước mặt nàng.
Chàng dắt ngựa, đeo sọt thuốc, rõ ràng chàng vừa mới quay về.
Nàng nhìn chàng, cắn một miếng màn thầu, chẳng nói chẳng rằng, đang định đi khỏi thì Tử Hân chợt gọi lại.
“Phong Nghi”.
Nàng không đáp, chỉ lạnh lùng nhìn vào mặt chàng.
Tử Hân đưa cho nàng một thứ: “Tặng muội… Huynh tự làm đấy, có lẽ muội sẽ thích”.
Nàng nhận lấy món đồ, đó là chiếc vòng tay kết bằng cây leo rất tinh tế. Bên trên còn khắc một cái xoáy nho nhỏ, giống hệt hình xoáy trên mắt cá chân chàng. Chỗ bện rất mới, cũng không có sơn phủ gì, hiển nhiên là vừa mới làm xong. Có điều, dây cổ đằng ấy đen bóng như sơn, hoa văn chi chít, chí ít cũng có trăm năm tuổi.
“Cổ đằng đen thế này, huynh tìm được ở đâu vậy?”, nàng hỏi.
“Trên cây linh sam kia.”
Nàng hơi sững người, trên mặt lộ ra vẻ mỉa mai: “Huynh tặng muội cái vòng này, là muốn muội vui hay là để chứng minh huynh đúng?”.
“Ta chỉ muốn tặng muội cái vòng này”.

“Nói cho muội, ở đây có gì?”
Một canh giờ sau, Tô Phong Nghi một lần nữa quay lại tiểu miếu trên sườn núi, theo sau nàng là Đường Hành.
“Củi khô đầy đất, một cái đệm cỏ, một đống tro than”, Đường Hành vừa đi vừa nhìn: “Một bức tường nát, mấy cửa sổ hỏng, một tảng đá to đùng”.
“Xin hỏi trong miếu này có cây linh sam nào không?”
“Cái gì?”
“Một cây linh sam, bên trên có cổ đằng bám.”
“Không có. Ngôi miêu nhỏ thế này làm sao có thể có cả một cây đại thụ? Có điều, ở giữa có một cái cột.”
“Ý huynh là, Tử Hân nhìn cây cột ấy thành linh sam?”
“Không thể. Ai cũng biết cột và linh sam là hai thứ khác nhau.”
“Vậy thì, trong này có ai khác không, ví dụ như một nam nhân mặc áo đỏ… đầu người mình rắn?”
“Đùa gì vậy, đây không phải là Sam Hải kinh.”
“Dưới đất có gián không?”
“Không có… không thấy con nào.”
“Vậy thì, A Hành”, Tô Phong Nghi thương cảm nói: “Chí ít thì thế giới của hai chúng ta giống nhau”.
“Ừm, A Thanh sẽ đồng ý với cách nghĩ của muội”, Đường Hành mỉm cười, rút bức tượng nhỏ màu đen trong người ra, đặt lên môi hôn nhẹ.
“A Hành, huynh… từng thấy A Thanh chưa? Có tin A Thanh sống ở trên đời không?”, nàng chợt hỏi.
“Đương nhiên là ta gặp A Thanh rồi, A Thanh đương nhiên sống trên đời này”, Đường Hành nói: “A Thanh lúc nào cũng ở đây, vĩnh viễn bên cạnh ta”.
“A Thanh… trông như thế nào?”
“Mặt ếch mình người. Thường mặc áo xanh.”
“Đường Hành, huynh đang thành thật trả lời câu hỏi của muội đấy chứ?”, Tô Phong Nghi bực bội hỏi.
“Đương nhiên!”
“Vậy xem ra, thế giới của chúng ta không giống nhau!”, nàng nói: “Muội chưa từng nhìn thấy A Thanh!”.
“Tại sao thế giới của muội nhất định phải giống với thế giới của người khác?”, Đường Hành hỏi lại: “Nếu không giống nhau, có phải muội sẽ cảm thấy thế giới của người khác là rất hoang đường?”.
“Bởi vì… muội…”, nàng há miệng líu lưỡi.
Đường Hành đi qua đi lại trong miếu, đột nhiên dừng bước, nói: “Phong Nghi, linh sam ở đây”.
Nàng chạy như bay tới.
Trên khoảng đất bằng ở cửa sổ phía sau quả nhiên có một cây linh sam rất lớn, bên trên cổ đằng leo đầy.
Khuôn mặt nàng lập tức kinh sợ tái đi. Quay đầu lại nhìn, nhận ra cửa sổ này đối diện với bức tường Tử Hân tựa vào lúc phát bệnh.
“Nhưng mà, lời huynh ấy nguyên văn là ở đây có một cây linh sam’.”
Đường Hành bật cười.
“Huynh cười cái gì?”
“Muội không hiểu rõ lời huynh ấy. Ta lấy ví dụ cho muội được không?”
“Huynh nói đi.”
“Ví như nửa đêm muội ngồi trong cái miếu này, chợt nghe không xa bên ngoài vẳng tới tiếng sói hú đáng sợ”, Đường Hành nhẹ giọng nói: “Nếu như lúc ấy, Tử Hân ở bên cạnh muội, muội sẽ nói với huynh ấy thế nào? Nói là ‘Ở đây có sói’, hay là ‘Ở kia có sói’?”.

Nguồn: truyen8.mobi/t36058-me-than-ky-chuong-19-part-2.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận