Mùa Hè Thứ Tư Của Quần Jean May Mắn Chương 19

Chương 19
Tibby dằn vặt mình suốt những ngày trước tiệc kỷ niệm ngày cưới của bố mẹ.

Nhưng có một niềm an ủi lạ lùng ở chỗ là ít ra thì nó cũng đáng bị vậy.

Brian và Effie đang diễn cứ như một đôi. Thậm chí cũng chẳng còn ai phủ nhận chuyện đó nữa.

“Bọn họ là hai người duy nhất còn ở lại nhà mà,” Bee nói.

“Chắc hai đứa nó chỉ là bạn bè thôi mà,” Carmen nói.

“Brian cô đơn. Cậu ta nhớ cậu mà,” Lena nói.

Tibby chẳng tin gì trong những lời ấy.

Nếu Effie tung dù chỉ phân nửa những trò khôn ngoan đầy thủ đoạn mà nó đã dùng với Tibby ra với Brian thì chẳng còn hy vọng gì nữa rồi. Không khéo lần tới Tibby gặp Effie thì nó đã đeo nhẫn đính hôn ấy chứ. Thậm chí Brian có thích nó hay không thì cũng chẳng nghĩa lý gì.

Effie ngớ ngẩn thân mến, cô em ngờ nghệch thậm chí còn không biết xem giờ nếu không có đồng hồ điện tử. Ha. Trong đầu Tibby, chính Effie đã biến thành con quỷ.

Vì chuyện này mà tiềm thức của Tibby đã sinh ra một giấc mơ bứt rứt lạ lẫm. Tibby mơ thấy giấc mơ đó đêm này sang đêm khác, suốt cả đêm dài: rằng Effie vừa mặc Cái quần Du lịch vừa làm bao nhiêu trò trơ tráo. Chỉ một lần trong suốt những giấc mơ đó Tibby mới được mặc. Và khi cơ hội lớn của Tibby đến, chẳng hiểu sao nó lại đi đút cả người vào trong một ống quần.

“Con có muốn mẹ hủy lời mời Brian tới dự tiệc không?” mẹ nó hỏi vào cái tuần trước khi Tibby chuẩn bị đón xe lửa về nhà.

“Để con nghĩ đã.”

Một giờ sau Tibby gọi lại cho mẹ. “Không, cậu ta nên tới. Sẽ không hay nếu bảo cậu ta đừng tới. Dù sao thì lúc nào đó con cũng sẽ phải thấy mặt cậu ta thôi.”

Họ im lặng một lát.

“Mẹ không gạt Effie ra được đâu,” mẹ nó nói, nêu lên chính cái điều mà Tibby đang mong.

“Không được ạ?”

“Con yêu, tất cả họ sẽ tới. Họ như một gia đình mở rộng của ta vậy. Mẹ không nghĩ nổi là không có cô Ari và chú George. Còn Lena? Cái đó đương nhiên rồi. Quả thực mẹ không thể bảo mọi người tới mà lại để Effie ở nhà.”

“Sao không ạ?” Tibby nói gay gắt.

“Tibby.”

“Vậy mẹ có vui lòng hủy lời mời con không?”

 

Càng lúc, Tibby càng dành nhiều thời gian xem ti vi hơn. Nó đã thôi không còn trông mong gì ở cái máy tính và cái tài liệu “Kịch bản” của nó. Nó xem hết mọi phim bắn giết. Mọi chương trình dạy làm đẹp. Mọi phim truyền hình nhiều tập. Mọi chương trình nấu ăn. Thậm chí cả những chương trình về côn trùng và chương trình lịch sử. Nó vung gần hết tiền tiết kiệm mua một cái đầu thu TiVo trên eBay. Chỗ tiền còn lại nó mua một cái PlayStation cũ. Tất cả những gì nó cần đều nằm ngay trong cái ti vi bé xíu đó. Nó chờ xem Maria Blanquette, nhưng bà ấy không bao giờ lên ti vi nữa.

Dù sao thì cũng có những giây phút tĩnh lặng, có lẽ là những lúc nửa đêm hay sáng tinh mơ, khi những giờ xem ti vi liên tu bất tận đã mài nhẵn trí óc nó để nó có thể thấy những mô hình lớn lao hơn của đời sống. Và rồi Tibby có cái ý nghĩ đáng buồn là khi nó đang ngây nhìn cái màn hình thì Brian, cựu Chúa Rồng, đang ở cùng một đứa con gái và đang sống.

To: Tibberon@sbgnetworks.com; Carmabelle@hsp.xx.com;

      Beezy3@gomail.ne t

From: LennyK162@gomail.net

Subject: Chuyện đó

 

Tớ thực tình không tin được là mình đang viết một email tập thể để kể cho bọn cậu chuyện này, nhưng tớ không thể nói với một cậu mà không nói cho những cậu khác biết.

Tớ đã làm rồi. Chuyện đó đó. Hay tớ phải nói là bọn tớ đã làm. Tớ và Leo ấy.

Bee, tớ nghĩ chính cậu (không phải sao) là người cá một tá bánh ca vát là chuyện đó sẽ không thể xảy ra trước khi tớ được hai mươi lăm. E hèm.

Không phải là tớ vội hay gì cả. Thật sự là không. Tớ chi tiền mua bánh rán được mà. Tớ nghĩ chỉ là tớ nhận ra mình đang chờ cái gì đó thậm chí còn không có thực nữa.

Tớ sẽ phải đích thân kể chi tiết cho các cậu nghe khi nào bọn mình gặp nhau. (Carmen??)

Tớ bỗng hình dung bố tớ tóm được cái máy tính và đọc được mọi thứ tớ viết.

Yêu lắm lắm lắm,

Lena - tình yêu của các cậu

(Người yêu của Leo)

 

Ban đầu, lịch trình chuyến trở về của Bee sẽ là từ Izmir đến Istanbul rồi đến New York và kết thúc bằng một chặng bay ngắn đến Boston. Dự tính của nó lúc đó là cuối cùng sẽ ở lại Providence một tuần rưỡi để lấy lại phong độ cho trại huấn luyện bóng đá trước mùa giải.

Nhưng tại sân bay ở Istanbul nó lại đổi chuyến bay đến Boston thành bay đến Washington, D.C.

Và điều làm nó vui, sau những giờ quá cảnh rối rắm, là được thấy Tibby và Lena đứng ngay trước khu vực hành lý chờ nó. Nó chạy ào tới chúng, muốn đè chúng bẹp dí ra vì vui mừng.

“Thấy mấy cậu đây tớ mừng quá!” nó hét lên với hai cô bạn.

“Bọn tớ nhớ cậu lắm,” Lena nói khi Bee ôm chúng tới tấp.

“Tớ nhớ mấy cậu,” Bee thú nhận.

Có nhiều chuyện để nói quá, nên chúng cứ để sau hẵng hay. Chúng chạy xuống phố Angie mà ngốn cho thỏa thích bánh rán và thịt muối dù vẫn chưa đến giờ điểm tâm, và cảm thấy hạnh phúc được bên nhau. Bee nhận ra chúng rất giỏi tin rằng sẽ đến lúc mà mọi chuyện đều được kể cho nhau nghe và đứa nào cũng đều biết. Chúng sẽ chờ tới khi Carmen nhập bọn với chúng để trút bầu tâm sự một trận thả ga.

Bridget may mắn lắm, thật vậy. Trong nhiều chuyện quan trọng ấy.

“Tớ phải lo chút chuyện ở nhà,” Bee nói khi Tibby chạy xe của mẹ nó đến tận cửa nhà Bee. “Nhưng tớ sẽ ghé tiệc của bố mẹ cậu sau, nhé?”

“Ừ. Sẽ chỉ có cậu, tớ, Len... Brian và Effie,” Tibby nói ủ dột.

“Ôi, không,” Bee nói. “Thật sao?”

“Ừ.”

Bee nhìn sang Lena, thấy nó nhún vai. “Effie đã bao giờ làm theo ý tớ chưa?”

“Tớ sẽ mang cái khiên chống bạo loạn của tớ đến,” Bee nói.

Sau khi vẫy chào tạm biệt và nhìn chúng đi rồi thì Bee mới nhận ra là nó không có chìa khóa vào nhà. Nó không muốn gõ cửa. Nó để túi xách trước cửa và đi vòng ra sau nhà. Nó vẫn còn nhớ mấy cái mánh của cửa sổ bếp. Nó kiên nhẫn bẩy cánh cửa và cửa bật ra. Nó quả quyết bước vào.

Bố nó vẫn còn ở chỗ làm, nó nghĩ, còn Perry sẽ là đang trong phòng. Nó lấy túi xách vào từ đằng trước nhà. Nó lôi chúng lên lầu. Không dừng để nghĩ ngợi nhiều nó kéo khóa cái túi vải len thô ra và bắt đầu bỏ đồ đạc vào trong mấy ngăn kéo cũ trống lốc của mình.

Nó mở một cửa sổ trong phòng. Cất đồ đạc xong, nó đi xuống bếp và cũng mở một cửa sổ ở đó. Nó đảo nhanh một vòng quanh cái sân sau nhỏ nhắn cây cỏ um tùm, dừng một lát ngắt vài bông hoa tú cầu chỗ bụi cây nhà hàng xóm. Nó cắm mấy bông hoa xanh lơ vào trong một cái ly để ở giữa bàn bếp.

Nó nhìn vào tủ lạnh. Trong đó chẳng có gì nhiều. Một chai nước gừng. Hộp sữa còn một nửa. Mấy hộp thức ăn mua về. Một bó cần tây héo trong ngăn dưới cùng.

Trong tủ có nhiều lon hộp đủ loại, có trời mới biết là chúng đã để bao lâu rồi. Rồi nó nhớ ra ngũ cốc. Nó mở cửa chạn và thấy một hàng hộp thật ấn tượng. Cả bố và em nó đều khoái ngũ cốc.

Nó tìm được một cái bát và một cái thìa. Nó trút ra cho mình một lớp mỏng cốm ngũ cốc và thêm vào chút sữa, vui là sữa vẫn chưa hết hạn sử dụng. Nó ngồi xuống bên cái bàn bếp bé con. Nó không đói và ngũ cốc cũng chẳng ngon lắm, nhưng nó vẫn ăn.

Nó bỏ bát lẫn thìa vào trong bồn rửa. Nó để cái ví tòng teng nơi ghế dựa.

Dù mọi chuyện sẽ ra sao thì đây cũng là nhà nó, và nó sẽ nhớ làm sao để sống trong căn nhà này.

 

Phép lạ đã tiêu tan. Vẻ dễ thương ấy biến mất rồi. Nó trở lại là một Carmen mặc áo rét, dù trời đang hết sức nóng.

Nó cứ nằm trên giường, cố ngủ cho qua buổi tập. Nó cảm thấy cái thôi thúc Carmen-Hủy diệt ngày xưa, và nó cố gắng giải quyết chuyện đó.

Julia thật dễ mến. Nó đem về cho Carmen bánh quy và trà mua ở căng tin. Nó mua cho Carmen mấy túi Frito mặn và cho mượn cái iPod nữa. Nó hứa là chúng sẽ không bao giờ nhắc đến chuyện đánh dấu nhịp nữa nếu Carmen cảm thấy như thế chỉ làm cho tình hình rắc rối thêm.

“Cám ơn cậu,” Carmen cảm kích phát khóc lên được.

Nó muốn nằm ì trên giường cả ngày lắm, nhưng chỉ còn bốn ngày nữa thôi là đến đêm diễn đầu tiên rồi, và Carmen biết là nó mà bỏ qua phần tập buổi chiều thì Andrew sẽ làm cho nó tàn tật, cắt xẻo nó, xé xác nó ra từng mảnh, và còn giết chết nó nữa.

Nó thảm não lết đến nhà hát. Nó lại từ từ trở nên vô hình. Jonathan thậm chí cũng chẳng thèm cưa cẩm nó nữa.

Rủi thay nó lại vẫn còn hữu hình trong mắt Judy, chị ấy chỉ chờ sân khấu tan là chộp lấy nó.

“Carmen, lại đây,” chị nói, đi nhanh ra phía sau.

Carmen cảm thấy mình đang bị ngạt thở, ngay cả là cách xa cái nóng ba mươi lăm độ và độ ẩm một trăm phần trăm.

“Tôi không thích phải nghĩ là mình đã sai lầm.”

“Em cũng vậy,” Carmen nói ủ dột.

“Tôi đang cố nghĩ xem có chuyện gì không ổn với em.”

“Bắt đầu từ đâu ạ,” Carmen nói.

Judy nhìn nó nghiêm khắc. “Em đang bết bát đi đấy.”

“Em biết.”

“Đã quá trễ để kiếm ai khác diễn thay vai này rồi.”

Carmen cảm thấy mạch giật thình thịch trong đầu.

“Thế mà có đấy, tôi đã tính đến chuyện đó.”

Carmen không còn sáng suốt nữa rồi. Nó chẳng biết phải nói gì.

“Em biết không, Carmen, đại đa số người đạt được phẩm chất thật sự trong diễn xuất nhờ làm việc và học hỏi. Rất ít người có thiên khiếu xuất chúng, và với họ thì đôi khi chỉ cần tránh ra và để tự nhiên là được rồi. Em hiểu tôi nói gì không?”

Carmen gật, dù nó không hiểu hết những điều Judy nói.

“Vậy nên em về nhà rồi nghĩ xem vấn đề là ở đâu rồi mai quay lại thử áo và làm việc của mình đi.”

Carmen nhìn Judy mà ngây ra không dám tin.

“Còn một điều cuối cùng này nữa.”

“Vâng.”

“Hãy tin tưởng ở mình. Đừng nghe bất kỳ ai khác.”

Carmen cố không trợn tròn mắt lên, nhưng dường như với nó ngay lúc này thì đó là một mệnh lệnh khôi hài.

Cô Judy nhún vai. “Tôi chỉ nói có vậy thôi.”

 

“Xem con mua cái gì này,” Bee nói với bố khi ông đi làm về.

Thấy nó là ông đã ngạc nhiên rồi, chưa kể lại còn cả loại rau cỏ, trái cây tươi, mì ống nó mua ở cửa hàng Whole Foods mới mở và bày trên mặt bàn. “Con chỉ về nhà mấy tối thôi, nên con nghĩ nhà ta có thể cùng nhau làm bữa tối.”

Ngày xửa ngày xưa bố nó rất thích nấu nướng. Ông thường nghe mấy bài hát của Beatles trong bếp, còn mở to nữa, nên lời nhạc cứ đi thẳng vào mấy trang vở của Bridget.

Nó dịu dàng và thân ái đẩy vai bố. “Bố thấy sao nào? Bố biết làm xốt pesto mà, đúng không?”

Ông gật đầu. Ông trông căng thẳng, bàng hoàng, có chút hoảng.

“Được rồi. Con đi gọi thằng Perry đây. Nó biết làm xa lát trái cây đấy.”

Đây là một ý tưởng thật buồn cười, nhưng tối nay Bee đầy tham vọng.

Nó lôi Perry xuống lầu, mắt thằng em hấp háy như một con chuột chũi bị kéo từ dưới đất lên. “Ăn tối xong em quay lại chơi game cũng được,” nó bảo thằng bé. Nó xếp thằng bé đứng bên quầy bếp cạnh mình với một con dao gọt, một mớ trái cây, và một cái bát màu xanh. “Gọt vỏ rồi cắt mọi thứ ra thành hình hạt lựu ấy,” nó giải thích.

Thằng bé luống cuống đến mức cứ làm y lời nó.

Nó bắt đầu băm tỏi để làm xốt pesto. “Thế này hả bố?” nó hỏi bố. Đang rửa mấy lá húng tây ông liền ngước lên.

“Nhỏ hơn chút,” ông nói.

Nó cắm điện cái radio trong bếp đã lâu không dùng tới, giống như một món đồ chế tác, vặn một kênh cũ kỹ. Nó hơi hơi nhún nhảy khi mài phô mai.

“Mì ống hay mì dẹt?” nó hỏi Perry, tung tung nhẹ mấy cái hộp trước mặt thằng bé. “Em phải chọn đấy.”

“Ừ.” Perry nhìn từ hộp này sang hộp kia. Nó coi bộ nghiêm túc với việc đó. “Mì ống được không?”

“Được lắm,” Bee tuyên bố.

Họ làm trong im lặng, chỉ có âm thanh từ một bài hát ngớ ngẩn của Carpenters vang lên từ radio.

“Con có mua hạt thông không đấy?” bố nó hỏi.

Nó lấy làm may là mình đã mua. “Đây ạ,” nó nói, lôi ra từ sau một ổ bánh mì.

“Một số người dùng quả óc chó,” bố bảo chúng, “nhưng bố lại thích hạt thông hơn.”

“Con cũng vậy,” Bridget hăm hở nói.

Thằng Perry gật gù.

Sau khi đã xếp cái bàn bếp nhỏ và thắp một ngọn nến rồi giúp Perry chuyển chỗ xa lát đầy ngộn qua cái bát to hơn, nó nghe thấy bài “Hey Jude” từ radio vẳng ra. Nó cảm thấy một kiểu hân hoan buồn bã và kỳ lạ. Nó quay mặt tránh bố và em trai một lát và nhắm mắt, nghẹn đi khi nhớ lại trong nhà này, trong căn bếp này, đã từng ra sao.

Bên phải nó, hòa với tiếng nước chảy trong chậu, nó nghe thấy bố hát theo hai chữ trong bài hát. Chỉ có hai chữ, vậy mà cái đó mang lại cho nó một niềm vui khó lòng nén nổi.

 

Tiệc kỷ niệm hai mươi năm ngày cưới của bố mẹ Tibby là dành cho nó, ở một khía cạnh nào đó, như một tai nạn giao thông xảy ra trong cảnh quay chậm qua một quãng thời gian dài. Đôi khi nó có mặt trong vụ tai nạn và đôi khi nó lại đang đứng xem.

Với Tibby, cái đó còn có cái vẻ được báo trước. Cũng như trước một vụ tai nạn, Tibby không dám nhìn, nhưng nó cũng không thể không nhìn. Những thiên thần che chở nó thì khuyên nó ngoảnh đi. Còn nó thì lại bảo các thiên thần đó đi đi.

Lena đã đem Cái quần Du lịch đến cho nó mặc. Lena và Bee cứ kè kè bên nó đến độ nó cảm thấy như mình mọc thêm hai cái đầu nữa vậy. Cuối cùng nó phải bảo chúng là tách ra mà đi loanh quanh chỗ khác đi.

Tibby trò chuyện với nhiều bạn bè của gia đình. Nó làm như thể nó đang viết một kịch bản phim hẳn hoi, là một sinh viên điện ảnh thực thụ chứ không chỉ là vờ làm sinh viên điện ảnh khi xem ti vi.

Lần thứ nhất nó th y Brian là khi cậu đang ăn món khai vị. Lần tiếp đến thì cậu đang ăn há cảo. Lần thứ ba thì cậu đang ăn lá nho cuốn. Sao cậu ta lại có thể ăn tợn vậy được?

Lần thứ tư, cậu đang đứng với Effie. Cuối cùng thì cảnh đó cũng phải xảy ra. Tibby đứng nhìn trong khi Effie, nổi hứng trơ tráo kinh khủng, con bé đó để tay sau lưng Brian. Trước mặt bàn dân thiên hạ. Tibby cảm thấy buồn nôn. Cả Lena và Bee lại xuất hiện như có phép lạ, mỗi đứa một bên cùi chỏ Tibby.

Effie trông xinh đẹp. Thật vậy. Hai má nó hồng, đôi chân rám nắng và bộ ngực trông cứ như sắp chiếm cả căn phòng đến nơi. Công bằng mà nói, Effie không ăn mặc lố lăng. Nó không phấn son quá trớn. Effie hạnh phúc. Đó mới là vấn đề.

Và theo chuẩn mực cái đẹp đó mà nói thì Tibby là một nỗi kinh hoàng thật sự. Một Boo Radley­ lảng vảng làm mọi người sợ trong bữa tiệc vui của bố mẹ nó.

Tibby vào ngồi trong phòng mình một lát. Lúc đi ra sân sau nó thấy Bee đang chỉ mấy động tác đá banh cho Nicky và Katherine. Tibby cố làm vai hề phụ và bày trò phun hạt dưa, nhưng nó đang đùa với ai cơ chứ?

“Chuyện này có xong được không vậy?” nó hỏi Bee còn trước cả khi bánh được dọn ra.

Cuối cùng, lẫn lộn trong những tin tức ấm lòng và những lời chúc tốt đẹp và những vị hàng xóm say khướt, bữa tiệc cũng đã tàn hẳn. Rốt cuộc nó cũng phải chào tạm biệt Effie rồi đến Brian. Nó biết chắc đó không phải là cái hai đứa nó định bụng. Đứa nào trông cũng ngượng ngập vì cuối cùng mọi chuyện lại thành ra như vậy.

Tibby vẫn làm mặt tỉnh bơ. Và phải rồi, Effie đó, gần đến nghe được mùi. Tibby mấp máy môi và nói những câu theo một kiểu phải phép chung chung. “Cám ơn. Tuyệt lắm. Phải. Blah, blah, blah.” Effie ra về.

Giờ thì đến lượt Brian. Tibby cũng nói những thứ xuẩn ngốc và máy móc ấy, nhưng Brian không nói gì xuẩn ngốc hay máy móc đáp lại. Cậu chỉ nhìn nó. Tinh thần Tibby đã khô khốc đi rồi, nhưng dù là vậy, não nó vẫn hoạt động liên hồi. Não nó tiếp tục nhận thức mọi thứ và suy nghĩ.

Phải, Effie đang tỏa sáng. Effie là một nữ thần. Nhưng khi Tibby nhìn bằng cặp mắt thành thật thì nó có thể thấy là Brian, dù vẫn rất đẹp trai, nhưng trông không vui mấy. Cậu là một Boo Radley thứ hai, nhưng có cái bụng no hơn.

Tibby ngừng bất kỳ thứ xuẩn ngốc nào nó đang nói giữa chừng. Đủ rồi. Brian cầm tay nó. Cậu cầm tay nó và nhìn thẳng nó, mắt nhìn mắt. Nó không nhìn đi chỗ khác. Đó là điều can đảm đầu tiên nó làm trong suốt ba tháng nay.

Mọi thứ đều có một nhịp điệu tự nhiên ta biết mà không hay. Cái nhịp điệu tự nhiên ấy ra lệnh cho Brian buông tay nó ra ngay, nhưng cậu không buông. Cậu vẫn cầm và nó cũng thế. Trước khi bị xô đi theo một trợ lý pháp luật trong công ty bố nó, Brian siết chặt bàn tay nó. Nhưng nhanh và ý nhị đến mức nó không hoàn toàn chắc đó là cố ý hay thậm chí chuyện ấy có thực xảy ra hay không nữa.

Nó dõi theo bóng cậu đi với một cảm giác buồn nao lòng, từ từ, như thể nó thấy những vật gần từ ngàn dặm xa. Nó đi lên phòng mình mà không tạm biệt ai nữa cả.

Nó trèo vào giường và nhìn chỗ cạnh cửa sổ từng đặt cái lồng của Mimi, nơi Mimi đã sống những ngày chuột lang dung dị, nhẹ nhàng giữa đám bào gỗ và mấy viên bi. Tibby ước mình có thể về lại khoảng thời gian khi Mimi vẫn còn sống. Trở về thời gian khi Bailey còn sống.

Nó nghĩ đến cái lần đầu nó gặp Brian. Đó là nhờ Bailey, dĩ nhiên, con bé là người đã nghĩ ra chuyện đó, đã đưa chúng lại với nhau. Bailey thật kỳ diệu. Trước khi Bailey ra đi, về cơ bản nó đã xếp đặt Tibby với mọi thứ và mọi người nó sẽ cần để có một cuộc đời hạnh phúc. Còn Tibby thì phần lớn đã đánh mất hay lãng quên tất cả những người ấy.

Rất khó mà sống đúng kiểu đời sống ta nên theo, dù ta đã biết nó là gì.

Tibby ước ít nhất thì mình cũng có thể về lại cái đêm tháng Sáu khi nó mất đi ý niệm về tình yêu ấy. Nó không ước rút lại chuyện đã quan hệ tình dục. Nó từng ước vậy, nhưng giờ thì không nữa. Nó và Brian yêu nhau. Chúng đã đủ lớn để biết mình đang làm gì. Trong mọi chuyện, nó đều muốn cùng làm với cậu, và việc đó cũng là một trong số ấy.

Khi nghĩ về chuyện đó, nó nhận ra mình thậm chí cũng sẽ chẳng làm khác đi chuyện rách bao cao su hay nỗi sợ có thai. Nếu đúng là có một điều ước, nó sẽ muốn là không trở nên tham lam hay ảo tưởng hão huyền. Ta không thể quay ngược thời gian hay làm người chết sống lại. Nếu nó được một điều ước, nó hy vọng mình sẽ khiêm tốn hơn với điều ước đó.

Nó nhớ hồi chừng bốn năm tuổi nó đã hỏi Carmen có tin là điều ước mà Tibby ước bên nến bánh sinh nhật sẽ thành hiện thực không. “Có, nếu cậu ước cái gì thực tế, có thể xảy ra,” Carmen đã nói đầy triết lý vậy đấy.

Điều ước của Tibby sẽ là giữ chặt lấy cái ý niệm tình yêu ngay cả khi đối mặt nỗi hoài nghi tăm tối nhất. Vì đó là con đường nó đã thất bại. Không phải một lần, mà cứ lặp đi lặp lại mãi.

 

Đêm đó, Carmen cố nghĩ cho ra xem vấn đề là gì. Nó đi quanh sân khu học xá. Nó ngồi bên sườn đồi nơi lần đầu tiên nó gặp Judy. Nó gọi cho Tibby, và rồi nhớ ra bữa tiệc nhà Rollins thế là nó khóc vì đã không có mặt ở đó cùng họ.

Sao bọn mình luôn xa nhau thế? nó tự hỏi. Đôi khi một giọng nói trong điện thoại là không đủ. Sao mình cứ ở xa suốt thời gian vừa rồi vậy nhỉ?

Vì bọn mình có Cái quần, nó thoáng nghĩ. Cái quần giúp cho mình ở xa nhau mà vẫn không sao.

Nó quay về phòng ký túc, và cũng chẳng thèm cởi áo quần, đánh răng hay tắt đèn, nó trèo vào giường.

Nó nằm đó, mở mắt, một lúc sau thì Julia bước vào.

“Xem tớ mua gì cho cậu này,” Julia vui vẻ nói. Nó đang hóa thân làm nhân vật Họa mi xứ Florence.

“Gì thế?” Carmen hỏi yếu ớt.

“Bánh nướng bơ sữa cậu thích ấy. Người ta làm bánh ban đêm. Cậu biết chứ? Tớ có ba cái trong túi đây và bánh còn n-ó-n-g!” Nó kéo dài chữ O, luyến láy thành bài hát.

Carmen ngồi dậy. Bánh nướng, quả thật, là món ăn có thể an ủi nhất trong hệ mặt trời.

Nhưng khi ngước nhìn mặt Julia, nó chợt nhận ra cái gì đó. Julia trông vui vẻ lắm. Không chỉ là cái kiểu vui vẻ để giúp-bạn-lên-tinh-thần, mà vui vẻ thật tình. Carmen, ngược lại, cảm thấy - và trông rõ ràng - thật buồn.

Giây lát tiếp theo một điều khác chợt nảy ra trong đầu Carmen. Nó nhớ cái hồi, chỉ vài tuần trước đây thôi, khi Julia trông không vui. Và chuyện đó tình cờ lại cùng lúc Carmen cảm thấy, và trông rõ ràng là, rất vui vẻ.

Đây có phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên không? Nó cho là không.

Julia vui khi Carmen không vui. Thật ra, cái không vui của Carmen lại chính là cái dường như làm cho Julia vui. Và, ngược lại, niềm vui của Carmen gây ra sự khó chịu ở Julia.

Có một sự lệch lạc ghê gớm ở đây. Một sự lệch lạc nghiêm trọng. Loại bạn nào lại đi phất lên trên sự buồn khổ của ta kia chứ?

Nó biết câu trả lời. Không có loại bạn nào như thế cả.

Nó lại nằm xuống, đầu kêu ong ong.

Nó nghĩ đến cái quyết tâm thảm hại rằng làm sao để trở thành một người bạn xứng đáng hơn đối với Julia, cho rằng nếu nó giảm cân và lôi cuốn hơn, Julia sẽ quý nó hơn. Nó mới sai lầm làm sao! Julia thích nó chính xác là vì sự bất xứng của nó. Tất cả những thất bại của Carmen khiến Julia cảm thấy dễ chịu hơn về bản thân. Còn mấy chuyện mà Carmen thành công khiến Julia khinh miệt nó. Thậm chí là ngấm ngầm phá hoại nó.

Julia hình như đã đánh hơi thấy sự thay đổi tâm trạng, nhưng nó vẫn chưa chịu thôi. “Bơ hay mứt? Cả bơ mứt nhé!”

Ngay cả giờ đây, ngay cả giữa những nghi hoặc, hoang mang và buồn khổ sâu thẳm nhất, Carmen vẫn không muốn làm Julia buồn. Cái ý niệm về tình bạn đã ăn quá sâu trong nó rồi. “Không. Cám ơn,” nó nói. “Tớ chỉ là mệt quá.”

“Cậu chắc không? Bánh nóng đấy. Sáng ra nó không còn nóng nữa đâu.”

Julia khiến cho người ta thật khó lòng mà từ chối những thứ nó mời. “Không, cám ơn,” Carmen lại nói.

Mặt Julia có cái vẻ nhăn nhó. “Không sao,” nó nói. “Tớ cứ để bánh chỗ bàn cậu nhé.”

“Cám ơn,” Carmen nói đều đều. Nó gượng ra khỏi giường, đánh răng, mặc pyjama, rồi lại bò vào giường. “Cậu không phiền nếu tớ tắt đèn chứ?”

Julia cầm một cuốn sách dưới đất lên. “Tớ định đọc một lát đã,” nó nói.

Carmen cố ngủ, nhưng không ngủ được. Nỗi tuyệt vọng của nó lớn đến độ nó chẳng nghĩ ra cách nào để thấy dễ chịu hơn.

Và rồi nó nhớ ra một cách.

Trước cái chau mày nghi hoặc của Julia, Carmen cầm cuốn kịch bản của mình ở cuối giường lên ra ngoài hành lang. Nó ngồi dưới ánh đèn sáng trưng và cố làm quen lại với đứa con gái đã lạc mất.

 

Khi tỉnh dậy, Tibby nằm trong cái giường ngày xưa của nó một lát và để thế giới đang tỉnh thức dần dần trở lại với nó. Và nó nhận ra hơi thở mình được vọng lại. Nghĩ mà thấy buồn cười, khi hít thở làm đôi.

Rồi nó nhận ra hơi thở thứ hai không phải của nó. Nó mở mắt và thấy gương mặt Lena khi nó nằm ngang chỗ cuối giường nó. Gương mặt nhỏ nhắn, kiên nhẫn của Lena được đúc ra chính xác hơn, khỏe khoắn hơn những gương mặt bình thường. Hầu hết mọi người sẽ vỗ vỗ mà đánh thức ta dậy, nhưng Lena lại vui vẻ chờ trong khi Tibby ngủ.

“Ê,” Tibby nói. Nó thắc mắc sao nó có thể yêu mến Kaligaris chị nhiều thế mà lại ghét đứa em nhà Kaligaris kia quá chừng.

Lena mỉm cười. Nó dường như khá hài lòng khi nằm đó dưới nắng.

“Cậu quay lại hồi nào vậy?” Tibby hỏi, khuỳnh khủy tay lại rồi kê đầu lên bàn tay.

“Tớ sẽ ở lại đây vài ngày. Còn cậu?”

“Tớ nghĩ Bee và tớ sẽ đón tàu đi tối mai.”

Chúng im lặng một lát, nhưng rất có bầu bạn.

“Tớ nghĩ cậu nên quay lại với Brian,” cuối cùng Lena nói.

Tibby có cảm tưởng nó đang nhìn thấy những chữ bay xuống như lông vũ nhồi cái chăn bông. “Dù gì thì tớ cũng không thể nào làm vậy được.”

“Sao không?”

“Sẽ không công bằng,” Tibby nói, thật lòng mong là Lena sẽ không đồng tình với nó.

“Sẽ không công bằng với ai?”

“À thì, với Effie, tớ nghĩ vậy.”

Lena đăm chiêu nhìn kỹ mặt Tibby. Nó dường như muốn chiếu những ý nghĩ của mình ra bằng mắt cũng như bằng miệng vậy. “Tớ thấy cậu không phải băn khoăn nhiều về Effie đâu.”

“Sao tớ lại có thể không băn khoăn được? Nó xin phép tớ và tớ đã đồng ý rồi.”

Lena trông buồn buồn. “Ừ. Tớ biết. Effie là em tớ. Và tớ không muốn về phe cậu mà không về phe nó. Đâu phải tớ chưa nghĩ thấu đáo tất cả những điều này.”

“Tớ biết, Lenny,” Tibby nói đầy áy náy.

“Tớ đã chờ để nói bất cứ gì, vì tớ không muốn làm Effie đau lòng.”

Tibby gật. Nó đã khoác cơn giận Effie như một lớp da, che chở và khó chịu. Giờ Tibby cảm thấy mình đang thay da, tuột ra khỏi lớp da không phải từng tí một, mà là một mảnh. Và như một lớp da lột, một khi đã tách rời khỏi cơ thể, miếng da nằm khô và nhẹ tênh bên cạnh nó. Lớp da ấy đã cầm tù nó hoàn toàn, ấy vậy mà lại không thuộc về nó.

“Effie mạnh mẽ, cậu biết không? Nó cứ nảy tưng tưng.”

Mình không nảy, Tibby tự nhủ.

“Nó yêu Brian. Nhưng nó yêu Brian theo kiểu Effie. Giống n hư nó đi vòng vòng với tốc độ cả trăm dặm một giờ còn cậu ấy gần như đứng yên vậy. Nó chỉ gặp cậu ấy mỗi khi chạy xẹt qua cậu ấy, thế mà nó vẫn nghĩ chúng đang đi cùng nhau.”

Tibby cười to ngoài ý muốn.

“Brian cũng muốn giúp, nhưng như vậy thật không phải cho cậu ấy.”

Tibby ngạc nhiên vì bản tóm tắt hoàn hảo của Lena.

Lena chỉnh lại tư thế để ngồi bắt tréo chân đối diện Tibby và nhìn Tibby không chớp mắt.

“Có điều này tớ biết,” Lena nói.

Tibby cũng ngồi dậy. Lena cân nhắc những điều có ý nghĩa một cách cẩn trọng.

“Rằng có những người cứ phải lòng nhau lặp đi lặp lại hoài.”

Tibby gật, thấu hiểu cái vẻ u sầu đặc biệt tự bộc lộ trên mặt Lena.

“Và cũng có những người dường như chỉ có thể yêu một lần thôi.”

Tibby cảm thấy nước mắt trong mắt mình cũng y như nó thấy trong mắt Lena. Nó biết Lena đang nói về nó và Brian. Và bạn nó cũng đang nói về chính mình nữa.

 

 

 

Bridget đã dụ được Perry đi đạp xe với mình. Nó còn cố mượn bằng được chiếc xe đạp với mũ bảo hiểm của dượng Carmen, nhưng lại giao cho Perry cố vờ như đấy chỉ là cơn bốc đồng nông nổi nhất.

“Em thấy sao nào? Mình chỉ chạy xuống công viên Rock Creek rồi quay lại thôi.”

Thằng bé có vẻ không tin.

“Nhé?”

Nó leo lên chiếc xe đạp cũ của mình, chẳng để thằng bé kịp nghĩ ngợi gì nhiều. Nó hài lòng khi thằng bé miễn cưỡng làm theo. Perry chẳng ham thể thao gì, nhưng nó đã từng thích đạp xe.

Hôm đó là một ngày cuối hè đẹp tuyệt, lại không nóng như thường. Xe cộ rất thưa thớt, như thể ô tô đã cố ý tránh xa, biết rằng đó là một cảnh trạng mong manh.

Khi chúng đến được công viên là lúc Perry đang chạy thẳng lên cạnh nó, đạp theo cùng.

Nó dừng bên trong lối vào như đã hứa. “Em có muốn quay về không?” nó hỏi.

Thằng bé nhún vai. “Mình đi tiếp cũng được,” thằng bé nói, làm nó hài lòng.

Chúng đạp thêm một giờ nữa rồi mới dừng bên một chiếc xe đẩy mua kem que. Perry có tiền và muốn trả. Chúng ngồi xuống triền cỏ cạnh con lạch mà ăn kem.

Có quá nhiều thứ nó muốn nói với thằng bé. Nó muốn khiến thằng bé nói về mẹ chúng và về những thứ thằng bé nhớ. Nhưng nó biết phải từ từ. Sẽ rất dễ làm thằng bé sợ.

Trước khi chúng lại leo lên xe đạp, nó quàng tay quanh thằng bé siết chặt vai nó. Đã bao lâu rồi không có ai chạm vào thằng bé? Nó hơi cứng người lại, lúng túng một chút. Có thể đó không phải là cái thằng bé muốn, nhưng nó cảm thấy tận đáy lòng rằng đó là điều thằng bé cần.

Trên đường về nhà chúng ghé vào tiệm bán thú cảnh ở đại lộ Wisconsin. Perry vẫn luôn yêu thương thú vật, nhưng chưa hề được phép nuôi bất cứ gì ngoài mấy con sa giông, vì mẹ chúng bị dị ứng với thú có lông.

Đầu tiên chúng cầm mấy con chuột đồng lên, rồi đến một con chuột lang mập ú. Perry cầm một chú chuột bạch con cực kỳ cẩn trọng. Kế đến mỗi chị em chọn một con thỏ. Con thỏ của Perry cứ cố trèo xuống trước sơ mi của nó và chuyện đó làm thằng bé cười phá lên.

Chúng từ cửa hiệu bán thú cảnh về nhà chẳng được bao lâu thì điện thoại di động của Bridget reo. Tim đập nhanh, nó nhận ra đó là số di dộng của Eric. Không phải anh đang làm việc ở Mexico sao?

“A lô?”

“Bee hả?”

“Eric?”

“Anh đây,” anh nói dịu dàng. “Em đang ở đâu thế?”

Đã lâu lắm rồi nó chưa nghe giọng anh đến nỗi nó nghĩ mình khóc òa lên mất.

“Em đang ở D.C. Anh ở đâu vậy?”

“Anh ở New York.”

“Anh đang ở New York sao hả?” nó kêu lên vui sướng. Nó không kìm được. New York chẳng phải là ngay ở đây, nhưng gần hơn Baja nhiều lắm. “Mọi chuyện ổn cả chứ anh?”

“Mọi chuyện đều ổn. Anh muốn gặp em quá.” Anh nói dịu dàng.

“Anh muốn gặp em quá.” Dù hè này đã xảy ra chuyện gì đi nữa, thì theo những gì giờ đây nó cảm thấy, nó tin chắc là mình yêu anh.

“Mấy giờ rồi nhỉ?” anh hỏi.

Nó đi lại xem cái đồng hồ trong bếp. “Gần trưa.”

“Anh sẽ đến đó kịp bữa ăn tối.”

“Ở đây sao?”

“Ở đó. Có khi em nên cho anh lại địa chỉ của em.”

“Anh sẽ đến đây á?” Nó lại ré lên.

“Thế anh còn cách nào khác để gặp em đây?”

“Em không biết nữa!” nó choáng váng hét lên.

“Anh chẳng thể chờ đến mai đâu,” anh nói.

 

Sáng hôm đó, Carmen thay đồ trước ánh mắt dè chừng của Julia. Nó buộc mình phải thoa son, dù nó chẳng thấy tha thiết gì. Đôi khi ta cũng có thể tự lừa mình.

Nó không lựa cuốn sách nào nó đã lấy để mang theo cả. Nó thậm chí còn chẳng cầm theo kịch bản nữa. Nó không thể nào xem lời mà coi như không có những chỗ đánh dấu được.

Dù vậy, nó cũng lấy cái túi bánh nướng trên bàn mình và cầm theo khi đi ra cửa. Julia trông hài lòng về việc đó, ít ra là vậy.

Carmen đem mấy cái bánh nướng ra tít cánh cửa lớn đằng trước, vất chúng vào thùng rác.

Lúc tập nó vẫn theo cách thức cũ. Andrew quan sát nó, nhưng ông để mặc nó. Judy đã để nó yên. Carmen không cảm thấy vô hình trước mặt họ nữa. Nó cảm thấy họ đang tin cậy để nó tự tìm cách giải quyết lấy vấn đề của mình. Hoặc vậy hoặc là họ đã bó ff8 tay với nó rồi, nhưng nó không thực sự tin chuyện đó.

Nó ngồi ở dãy ghế sau, trong bóng tối, nghe Leontes giận dữ lớn tiếng về những điều không có thực. Nó nghĩ về cái ý niệm nó nảy ra bên sườn đồi cái đêm gặp Judy. Ở nơi chẳng có gì lại có khả năng có mọi thứ. Khi ta chẳng sống nơi đâu cả là ta sống khắp nơi.

Nó ước ngay lúc này mình có Cái quần, nhưng không được. Nó phải dựa vào chính mình thôi. Mi phải giống như một con rùa, nó nghĩ; mi phải nghĩ ra cách nào mang gia đình theo cùng.

Nó thấy Hermione, người mẹ đã mất tích của Perdita, xiêm y và trang điểm thành tượng đang hối hả chạy dọc lối đi. Đó là một sự tưởng tượng, phải thế không? Mẹ ta hóa thành tượng. William Shakespeare biết đôi điều về sự toại nguyện. Người mẹ-tượng vẫn đứng yên đúng nơi ta bỏ bà lại. Ta luôn biết tìm bà ở đâu. Bà không nhúc nhích, không thay đổi, thậm chí không già đi.

Carmen nghĩ đến mẹ mình. Bà khó mà làm một bức tượng. Bà chẳng ngồi yên được hai phút. Ấy vậy mà, ngay cả với người chồng thứ hai thêm một đứa con nữa và ngôi nhà mới - cùng hạnh phúc - Carmen vẫn luôn biết tìm bà ở đâu.

Nó nghĩ đến việc ghen tị hạnh phúc của ai đó là ra sao, và điều đó đem lại trong nó những cảm xúc nhức nhối. Nó không muốn nghĩ đến Julia. Nó sợ mình sẽ bắt đầu sôi sục lên, nó biết đâu lại bị cuốn vào cái vòng xoáy cơn nóng nảy ngày xưa và chuyện đó sẽ chẳng ích gì. Nó chẳng còn bụng dạ nào cho chuyện đó. Nó không còn sức. Ngay lúc này nó không có đủ tiền mà giành quyền sở hữu thứ đó.

Thay vì vậy, nó nghĩ đến đôi giày đi bộ của Ryan. Nó đưa tay sờ vật trang trí hình Cái quần tòng teng nơi sợi dây chuyền quanh cổ nó. Chẳng hiểu vì lý do kỳ lạ gì, nó nghĩ đến con chuột lang ngày trước của Tibby, con Mimi.

Julia đang chờ nó ngoài nhà hát khi họ nghỉ ăn trưa. Carmen thấy nó đang chờ ở đó với một nụ cười và hai cốc trà đá thật lớn đang rịn nước, bánh sandwich, và mấy túi khoai tây lát. Nó vẫy tay ra hiệu cho Carmen và Carmen cảm thấy những phản ứng quen thuộc, dù chúng đã lỗi thời và trật rơ. Nó cảm thấy cái sức lôi kéo của lòng biết ơn lúc trước. Nó cảm thấy thiếu thốn và không kiên định. Nó vẫn còn bám vào cái ý niệm về một người bạn, dù là một người bạn tồi.

Nhưng rồi Carmen không tiến lại. “Không, cám ơn. Hôm nay thì không,” cuối cùng nó nói, rồi bỏ đi thẳng.

 

Bridget rú ré trong phòng ngủ của Lena. Khi cơn say sưa vì được gặp Eric đã nguôi đi chút đỉnh, nó nhận ra là mình gặp rắc rối.

“Tớ đã bảo Perry là cả nhà sẽ lại cùng ăn tối. Xem chừng nó muốn thế lắm. Tớ không thể làm hỏng chuyện đó được.”

“Thế thì cả nhà cậu có thể cùng ăn tối,” Lena nói.

“Cùng nhau?”

“Phải. Sao không?”

Có nhiều lý do. Nhưng có lý do nào đủ chính đáng để ngăn nó làm vậy không?

“Thôi được, thế tớ làm gì với Eric đây?”

“Cậu làm gì với Eric ư?” Lena nhoẻn cười láu cá. “Chỉ có cậu mới trả lời được câu đó thôi.”

Bridget vờ thụi nó. “Thôi nào. Ý tớ là tớ xếp anh ấy ở đâu đây?”

“Trong nhà cậu ấy.”

“Trong nhà tớ á?”

Lena nhún vai. “Tớ chỉ có mỗi một ý kiến đó thôi.”

Bee chưa hề đưa ai về nhà. Từ hồi trung học đến giờ. Ngay cả bạn bè nó. Nó hầu như còn chẳng mang được cái thân về đó. Dĩ nhiên là không dẫn bạn trai rồi. Chuyện đó gần như quá kỳ lạ đến không tưởng tượng nổi. Nó có cần phải hỏi bố nó không? Bố sẽ nghĩ chuyện đó ra sao?

Và còn khủng khiếp hơn, Eric sẽ nghĩ gì về họ? Anh sẽ cảm nhận về nó ra sao nếu anh thấy nhà nó? Nếu anh gặp bố nó và em trai nó? Nó đã muốn che chắn để anh khỏi biết sự thật.

“Lenny, cậu biết nhà tớ sao rồi mà.”

“Tớ nghĩ Eric có thể liệu được.”

“Cậu có thật tình nghĩ vậy không đấy?”

“Nếu anh ấy xứng đáng với cậu, Bee à, thì tớ thật lòng nghĩ thế.”

Trên đường từ chỗ Lena về, lượng adrenaline trong người Bee bắt đầu dồn lên. Ở nhà, nó không thể ngồi yên dù có cố đi nữa. Nó bắt đầu hút bụi, rồi phủi bụi. Nó phun nước cọ rửa Fantastik lên mấy bức tường, cố làm cho chúng trông bớt xám đi một chút. Nó mở hết các cửa sổ ra. Nó lôi một cây quạt trên gác xép xuống. Nó lau chùi. Nó tìm thấy mấy cái hộp trong nhà xe và bắt đầu bỏ những thứ khó coi nhất vào trong đó - đĩa, hình ảnh, giấy tờ, những món đồ dùng cũ. Nó nhét tất cả chúng cho khuất mắt dưới tầng hầm. Nó giũ mấy tấm thảm. Nó cố sắp xếp chúng lại để che mấy tấm thảm phủ kín tường xấu đau xấu đớn. Nó bò ra mà chà sạch gạch lát phòng tắm. Nó ngắt trộm thêm ít hoa nữa bên sân nhà hàng xóm.

Khi bố nó về đến nhà, ông trông như thể bỗng thấy mình đang vào nhầm nhà.

“Ơi, bố,” nó nói. “Bạn con... thực ra là bạn trai của con sẽ đến ở lại một đêm. Vậy được không ạ?”

Sự hoang mang của bố nó gần như đã trở nên bít bùng ù đặc. Nó phải giải thích chuyện đó đến bốn lần ông mới tỏ ra là đã hiểu đôi chút.

“Cậu ta sẽ ở lại đâu?” cuối cùng bố nó hỏi, nhìn xa xăm.

“Trong phòng làm việc ạ. Trên trường kỷ.”

“Trong phòng làm việc của bố ấy à?”

“Dạ. Trừ khi là bố muốn anh ấy ở trong phòng bố.” Nó định nói vậy để đùa, nhưng lại không thành như một câu đùa.

“Bố không nghĩ thế đâu,” bố nói trịnh trọng.

“Thế thì trong phòng làm việc nhé? Được không ạ?”

Ông gật và thế là nó quay lại lau dọn, càng lúc càng điên cuồng hơn. Lúc năm giờ nó chặn cả hai bố con trong bếp.

“Không được đeo tai nghe bên ngoài phòng của hai người đâu đấy,” nó ra lệnh.

Cả hai gật đầu sợ sệt.

“Cố mà xê dịch một chút. Nếu Eric có nói chuyện với hai người, hai người mà đáp lại thì sẽ hay lắm.”

Cả hai lại gật. Họ thậm chí cũng không có vẻ phật ý.

“Ta sẽ ăn tối lúc bảy giờ ba mươi, được chứ? Bố ơi, ta có món xốt pesto còn thừa và con sẽ làm xa lát.”

Lại gật đầu.

“Chỉ vậy thôi. Cứ... là chính mình thôi,” nó kết thúc, đấy chắc là thứ chả hữu ích gì nhất mà nó đã nói.

Đến bảy giờ thì nó hụt hơi. Nó lướt dọc hành lang cảm thấy hối tiếc, vô vọng và buồn bã. Nó ước gì Eric không đến nhà này. Nó ước mình chưa nạt nộ bắt bố và em trai phải bỏ cái kiểu khó gần ấy đi. Nó ước mình sống cuộc đời nào cũng được mà không phải cuộc đời này. Đôi khi không thể ép buộc quá khứ và tương lai lại với nhau được.

Nhưng khi đi ngang phòng Perry thì nó thấy thằng bé đang lau dọn bàn. Khi nó xuống nhà, nó thấy bố đang cẩn thận xếp mấy tấm ga trải giường và một cái chăn vào chiếc trường kỷ trong phòng làm việc của ông.

Nó những tưởng họ chẳng có gì để cho nó, thế mà họ lại có. Nó đã nghĩ những cố gắng của mình với họ đều vô ích, nhưng có lẽ không phải. Nó tưởng họ không đủ sức làm nó đau khổ hay hạnh phúc, nhưng ngay lúc này nó biết điều đó là không đúng.

Họ có những tặng vật đơn sơ, cả ba người họ. Nhưng nếu có thể xếp ra những điều nhỏ bé ấy, có lẽ họ có thể bắt đầu làm cho mọi chuyện tốt đẹp hơn.

 

Tibby gọi cho Brian cuối buổi chiều Chủ nhật. “Cậu gặp tớ ở bàn ăn ngoài trời được không?” nó hỏi cậu. Đó là một nơi đầy ý nghĩa của chúng, nơi kỷ niệm nụ hôn đầu. Chỗ đó nằm dưới một cây ngô đồng khổng lồ trong một công viên hình tam giác bé xíu ở quãng giữa nhà hai đứa.

“Được,” cậu nói.

“Luôn nhé?”

Nó đến đó trước. Nó chong mặt về phía nhà cậu mà ngóng. Cuối cùng cậu tới, mặt trời lặn nhợt nhạt sau lưng. Nó cảm thấy niềm vui tràn trề trong lồng ngực. Có cái gì đó nơi gương mặt cậu làm nó đứng lên và giang cả hai tay ra đón cậu. Nó đánh bạo giang hai tay ôm cậu. Cậu để nó làm thế.

Nó bước qua một bên để cậu ngồi ở cuối bàn ăn ngoài trời. Nó mừng là cậu làm theo.

Điểm lý tưởng ở cái bàn này là khi cậu ngồi ở cuối bàn còn nó đứng giữa hai chân cậu, chúng được ngang tầm mà nhìn vào mắt và hôn nhau. Chúng đã làm vậy nhiều lần trước đây. Lần này thì nó không cố hôn cậu. Nhưng nó áp mặt vào mặt cậu để miệng nó kề bên tai cậu. “Tớ rất hối hận,” nó nói.

Cậu lùi đi, nhìn nó chăm chú.

“Tớ đã sợ. Tớ kinh hoảng. Tớ quên hết thảy những gì quý giá.”

Đôi khi nó thấy dư ng như cậu có thể trích mọi thứ trong đầu nó ra bằng mắt nhìn. Đôi khi dường như những gì nó nói cứ đi vào bằng cách đó.

“Tớ hiểu điều đó, Tibby. Tớ hiểu. Sao cậu lại không nói với tớ?”

Một cái chớp mắt làm rơi những giọt nước mắt bất ngờ. “Vì tớ không thể nói dối cậu giỏi được như tự dối mình.”

Cậu gật, dường như hiểu cả điều đó nữa.

“Tớ hứa tớ sẽ không làm vậy nữa,” nó nói. Mắt cậu dò lại những lời ấy, nhưng nó không sợ. Nó biết những lời đó là thật lòng.

Nhẹ nhàng, nó cầm hai bàn tay cậu trong bàn tay mình. Mạnh bạo, nó xô qua một bên những bản năng kiêu hãnh và sợ hãi ăn sâu trong mình. Giờ nó chẳng liên quan gì đến chúng nữa. “Tớ nhớ cậu,” nó nói. “Tớ ước gì chúng mình có thể quay lại.”

Cậu nhún vai. “Không thể được.”

“Không sao?” Nỗi đau đớn cực độ kéo căng những chữ đó qua một vực thẳm. Phải chăng nó đã sai khi tin rằng cậu sẽ tha thứ cho nó?

“Nhưng ta có thể đi tới trước.”

“Cùng nhau ư?” Nó chẳng làm gì để làm dịu đi niềm hy vọng thảm thương trên mặt.

“Tớ mong là vậy.”

“Thật sao?”

Cậu gật. “Nhưng mà tớ sẽ không đến đại học New York.”

Nó nhăn mặt. “Tại tớ. Tại tớ đã làm hỏng mọi thứ.” Nó đã chuẩn bị nuốt lấy những lời trách cứ như là ăn kem nếu cậu đón nó trở lại.

“Không sao đâu. Chắc cũng chẳng tệ lắm.”

“Tớ sẽ bù đắp. Tớ nhất định sẽ làm vậy. Tớ sẽ đón xe buýt về cuối tuần.”

“Cậu không phải làm vậy đâu, Tibby.”

“Nhưng tớ muốn thế. Tớ sẽ làm.”

“Cứ để xem mọi chuyện ra sao.”

“Được,” nó nói, thấy mình yếu ớt trước sự dè dặt, suy nghĩ của cậu.

Nó nhận ra cậu đã đúng khi nói là chúng không thể quay lại. Không biết sẽ thế nào, nhưng giờ thì mọi chuyện sẽ khác đi. Sự ngây thơ không phải là một trong những thứ ta có thể lấy lại được.

“Chắc ta có thể luân phiên,” cậu nói.

Hết chương 19. Mời các bạn đón đọc chương 20!

Nguồn: truyen8.mobi/t40232-mua-he-thu-tu-cua-quan-jean-may-man-chuong-19.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận