Lena vui hớn hở khi gặp bà và ngạc nhiên là không thấy Effie đâu. Nó đã chuẩn bị tinh thần cho một cuộc gặp mặt khó chịu.
“Effie bỏ đi Athens sáng nay rồi,” bà Valia bình thản bảo chúng, nhưng ít phút sau bà kéo Lena qua một bên. “Nó đã cố hết sức rồi, cháu biết không. Nó đã cố tìm cho ra cái quần đó suốt cả ngày lẫn đêm.”
“Cháu biết, bà ạ,” Lena nói.
Dù mệt lử vậy nhưng chúng vẫn biết mục đích của mình là gì. Lena tìm được hai cái đèn pin, thế là chúng đi ra những con đường hẹp rải sỏi và những lối đi bên dưới cái giàn trên thềm nhà bà Valia.
“Ở đây đâu đâu cũng gồ ghề cả,” Tibby nhận định, huơ huơ tay xuống vách đá về phía biển đen ngòm bên dưới. “Không bằng phẳng đâu.”
Như thế thì việc tìm đồ sẽ khó khăn hơn. Lena tự nhủ. Lực hấp dẫn luôn thắng thế ở đây.
Bà Valia nhìn chúng lắc đầu, tỏ rõ sự hoài nghi chẳng thèm giấu giếm, và lát sau thì chính Lena cũng nhận ra sự vô ích trong phương pháp chúng đang làm. Sao lại phải cố công rọi sáng từng khoảnh nhỏ thế giới khi mà mặt trời sẽ làm việc đó rất hiệu quả chỉ trong vài giờ nữa thôi?
“Bọn mình nên đi nghỉ chút đã,” Lena nói. “Đó là việc khôn ngoan nhất nên làm. Có vậy thì bọn mình mới dậy sớm mà bắt tay vào việc được.”
Sáng ra chúng quả đã bắt tay vào việc. Thế nhưng, dù có đắm chìm trong nỗi mất mát và sứ mệnh của mình thì chúng cũng không thể không thấy thán phục những thứ mặt trời bày ra trước mắt.
“Đây là nơi đẹp nhất tớ từng thấy. Đẹp hơn chỗ đẹp nhì cả ngàn lần,” Carmen nói.
Lena cũng nghĩ vậy. Nó cảm thấy nỗi choáng váng ngất ngây cùng với một niềm mãn nguyện vô cùng khi được chia sẻ điều đó với bạn bè. Một món quà bất ngờ khác, sự ưu đãi của Cái quần, nó nghĩ.
Nó kể cho chúng về sự hình thành của Caldera, một miệng núi lửa khổng lồ có lẽ là do một trận phun trào núi lửa lớn nhất trong lịch sử thế giới để lại. Nó nhấn chìm cả phần giữa hòn đảo, để lại những vách núi đứt gãy bao quanh một biển nước.
“Thế còn mấy hòn đảo đó?” Bee hỏi, nheo nheo mắt nhìn ra phía ba khối đất nổi trên Caldera.
“Là những tảng nham thạch còn lại đấy,” Lena giải thích.
Lena dẫn chúng đi xuôi những lối đi dốc, nơi chúng nghĩ gió ắt đã thổi bay Cái quần từ hiên nhà bà Valia. Những ngôi nhà bạc màu mưa nắng và những nhà thờ xiêu đổ, màu xanh sáng chói của những mái vòm và cửa, màu hồng rỡ ràng của những cành hoa giấy leo, tất cả quá bắt mắt đến nỗi thật khó mà tập trung vào công việc trước mắt được. Sau vài giờ ngoài nắng, chúng nghỉ chân trong bóng râm và cố vạch chiến lược.
“Rất có thể ai đó nhặt được nó rồi,” Tibby nói.
“Đó là một ý hay,” Lena nói.
Chúng xuống thị trấn. May thay, phần lớn các chủ tiệm cũng đều nói được chí ít là bập bõm chút tiếng Anh. Lena cầm theo một tấm hình.
“Chúng cháu đang tìm một thứ,” nó giải thích với một người đàn ông trong một tiệm bán áo quần. Nó lôi tấm ảnh chụp Cái quần khi Tibby mặc ngoài bãi biển mùa hè năm ngoái ra. Nó trỏ Cái quần. “Chúng cháu mất cái này đây.”
Người chủ tiệm trông sửng sốt. “Mấy cô lạc mất cô gái này à?” Ông đeo kính vào và đưa tấm hình lên gần mắt.
“Không phải, con bé ấy ở ngay đây này,” Bridget giải thích. “Bọn cháu làm mất Cái quần cơ.”
Chúng tìm được một hàng phô tô trong thị trấn. Dùng tấm ảnh, chúng phóng lớn hình Cái quần, cắt bỏ phần đầu Tibby đi, rồi dùng bút lông đen nét to khoanh tròn Cái quần. TÌM QUẦN BỊ MẤT, Lena viết bằng tiếng Anh và tiếng Hy Lạp. Bà chủ ở hàng phô tô giúp dịch ra. Lena ghi ra địa chỉ và số điện thoại nhà bà. CÓ HẬU TẠ!, nó viết bằng tiếng Hy Lạp.
Trong lúc chờ người ta làm năm mươi bản sao, Lena dẫn chúng đi một vòng.
“Đây là lò rèn của ông Kostos. Tớ nghĩ ông đã bán nó đi hồi năm ngoái năm kia gì rồi. Đó là nơi Kostos từng làm việc,” nó giải thích. “Đó là nơi bọn tớ hôn nhau lần đầu tiên,” nó nói thêm như kiểu thông tin bên lề.
Nó dẫn chúng xuống một cảng nhỏ. “Mấy cậu đã thấy bức tranh tớ vẽ chỗ này chưa nhỉ? Đó là một trong những bức đầu tiên mà tớ thích. Kostos và tớ đã đi bơi ở đây.”
“Tour tham quan này có chủ đề rõ ràng cụ thể đấy nhỉ,” Tibby nói.
“Ha ha,” Lena cười. Khi chúng đứng trên cầu tàu thì nó vờ xô Tibby xuống biển.
“Có thể nào lại không yêu ở đây được cơ chứ?” Bee hỏi.
Tràn đầy cảm hứng từ những ý nghĩ về tình yêu và cái đẹp, về những chốn xưa và những sàn nhà đất của mình, Bee giơ hai tay lên trời rồi cong người phóng từ cầu tàu xuống biển. Lạnh kinh hồn. Nó thò đầu lên khỏi mặt nước và hét lên vui sướng.
Vì là bạn nó, và là những người bạn lý tưởng gần như ở mọi khía cạnh, cả ba đứa chúng ré lên đáp lại rồi lao xuống theo nó.
Cả bọn rú ré kêu lạnh quá. Chúng vừa bơi vừa la hét, áo quần ướt sũng phồng lên. Bee lên bờ đầu tiên rồi giúp mấy đứa kia, cười và run cầm cập đến độ nó e chúng sẽ chết chìm vì bồng bột và sự ngốc nghếch nông nổi mất.
Cả bọn nằm cạnh nhau trên cầu tàu để mặt trời hong khô. Bầu trời khoác một sắc xanh tuyệt vời và trong vắt đến vô cùng.
Bee yêu nắng. Nó yêu những cái áo quần nặng trịch, nước nhỏ long tong của mình. Nó yêu tiếng sóng biển vỗ vào những cây cột bên dưới nó. Nó ré lên không chịu lúc mấy ngón chân lạnh ngắt của Tibby dụi dụi vào chân mình, nhưng lại cũng yêu cả điều đó nữa.
Nó thuộc về bạn bè nó và bạn bè nó thuộc về nó. Nó biết chắc những điều đó, ngay cả Cái quần đang tạm thời mất tích đi nữa.
“Tớ nghĩ chắc mấy bản phô tô của bọn mình xong rồi đó,” Carmen mơ màng nói.
Chúng dán mấy tấm hình khắp nơi. Khắp Oia và vùng lân cận.
“Tớ nghĩ bọn mình nên dán cả ở Fira nữa,” Lena gợi ý.
Vậy là chiều hôm đó chúng đến Fira cùng năm mươi bản nữa. Chúng đang tản ra, dán hình khắp các điểm du lịch đông người thì Bee chạy lại.
“Lena! Tớ nghĩ là tớ vừa thấy Kostos.”
Lena cảm thấy rù rù một luồng điện nơi lưng.
“Cậu còn chưa hề thấy Kostos bao giờ mà,” Tibby nói, ló ra cạnh nó.
“Ấy, tớ biết mà, tớ xem hình anh ấy rồi,” Bee khăng khăng.
Lena nhìn quanh, cố cảm thấy bình thản. Nó quan sát thong thả, điềm tĩnh. “Bà tớ nói anh ấy không ở đây. Cả hè này chẳng thấy anh ấy đâu đây cả. Cậu nghĩ cậu thấy anh ấy ở chỗ nào?”
Bee chỉ về một góc có quán cà phê và một cửa hiệu bán xe đạp.
“Làm gì có chuyện ấy chứ? Chắc cậu tưởng tượng ra đấy thôi,” Carmen nói. Nó đứng bên Lena ra chiều che chở.
“Carma à, anh ấy sống ở đây,” Bee nhấn mạnh. “Đâu phải tớ kêu là thấy anh ấy ở Milwaukee hay gì đâu.”
“Dù có vậy hay không thì dường như anh ấy cũng ám nơi này,” Lena nói một cách khéo léo. “Tớ là người đầu tiên phải thú nhận chuyện đó. Nhưng gì thì gì, ta tiếp tục thôi.”
Chúng dán hình đến khi trời tối, Lena lơ đãng mường tượng thấy Kostos khắp nơi.
“Giờ bọn mình về nhà chờ người ta gọi đến đi,” Lena nói.
Ở nhà Lena đi vào bếp, trong ấy bà Valia đã nấu một bữa tiệc thịnh soạn. “Bà ơi, Kostos đâu có đang ở đảo, phải thế không ạ?”
“Bà nghe là nó đi du lịch suốt hè này. Bà chẳng thấy nó lần nào cả. Bà có nói chuyện với bà Rena, nhưng bà không biết nó đi đâu.” Bà Valia vờ hờ hững chuyện Kostos. Như Lena, bà đã mất quá nhiều thời gian mà hy vọng.
Chúng có một buổi tối thật dài và ấm cúng ở nhà. Bà Valia đi ngủ sớm nhưng để lại cho chúng một chai rượu vang đỏ. Chúng ngồi dưới đất uống rượu và trò chuyện, trò chuyện và trò chuyện mãi.
Thật kỳ lạ, nhưng đến khi lê vào giường thì chúng nhận ra là dù đã có một trăm tấm hình phô tô rồi, vẫn không một ai gọi đến cả.
Lena là đứa dậy sớm duy nhất trong nhóm, và cơ thể nó dường như điều chỉnh theo giờ Hy Lạp nhanh nhất. Khi mặt trời lên, nó quyết định sẽ đi dạo.
Nó đi thong thả một quãng đường dài. Đầu tiên nó nghĩ đến Effie và ông nội, rồi sau đó nó để mình nghĩ về Kostos.
Thật hợp, ở một khía cạnh nào đó, khi đi dạo và ngắm nhìn tất cả những phế tích này. Ở đây, trên hòn đảo này, nơi nó đã dâng hiến trái tim và thấy trái tim mình tan vỡ, khắp nơi đều là phế tích, dù không phải tất cả đều là quá vãng.
Phế tích tượng trưng cho những gì đã mất, ấy thế mà chúng thật đẹp đẽ - yên bình, lịch sử, trí tuệ. Không bi thảm hay đáng tiếc. Lena cũng cố giữ những phế tích của mình như vậy, và nó đã thành công trong một chừng mực nào đó. Sao lại không tôn vinh cái ta đã có thay vì mất thời gian tiếc than vì nó đã qua rồi? Niềm vui cũng có thể tồn tại nơi những điều đã tận.
Vậy mà, nó lấy làm lạ vì ở đây nó vẫn còn nghĩ đến anh nhiều đến thế, vì nó nhiều lần những tưởng đã thấy anh. Ở một góc đường, khi nhìn ra cửa sổ, lúc ngồi bên bàn trong một quán cà phê. Không phải một bóng ma hay ký ức về Kostos, mà là Kostos như anh lúc này.
“Lạ quá. Giờ tớ cứ nghĩ tớ thấy anh ấy,” sau đấy, cũng trong ngày hôm đó nó tâm sự với Bee khi chúng đang vẽ người trên các bãi biển Paradise và Pori.
“Cậu nghĩ sao khi cậu thấy thật?” Bee hỏi.
Lena nghĩ về câu hỏi này trong lúc tắm trước giờ ăn tối.
Sau chuyện diễn ra tại khách sạn ở Providence, Lena biết mình đã thay đổi. Nó biết nó đã hủy hoại chút tàn dư giữa nó và Kostos. Chúa ơi, giờ anh nghĩ sao về nó đây?
Nó không phải là người như anh tưởng. Nó không phải là người như nó tưởng. Nó đã phô bày một sự xấu xí anh không hình dung được là có thể tồn tại. Nhưng cũng thật nhẹ lòng, ở một khía cạnh nào đó. Nếu đó là một phần của con người nó, anh nên biết. Anh không nên bị phỉnh phờ. Và còn có cả một phần ngang ngạnh, trẻ con trong nó muốn trở nên xấu xí đôi khi.
Nó băn khoăn về anh. Anh đã bao giờ thực lòng yêu nó chưa? Nó có thật lòng yêu anh không? Rõ ràng là có cái gì đó đẹp đẽ khi khao khát và ước mong. Chuyện tình của hai người vẫn còn trọn vẹn vì họ đã không thể có.
Nhưng anh có yêu được sự bất toàn của nó không? Anh có chấp nhận cái sự thật là nó không phải lúc nào cũng đẹp đẽ? Anh có thể cho phép sự bất toàn nơi chính anh không? Anh có chịu thôi không gắng để người ta yêu nữa vì nó không?
Hai người đã có tình yêu tưởng tượng ấy. Tình yêu đó vừa đau đớn vừa đẹp đẽ. Nhưng giờ nó băn khoăn liệu có ai trong hai đứa nó có bụng dạ nào cho một tình yêu có thực không.
Ngày hôm sau chúng thử tìm ở cảng Athinios, nơi phà đến. Chúng dán thông báo và đi từ cửa hiệu này sang cửa hiệu kia rồi nhà hàng này tới nhà hàng khác. Bà Valia giờ đã dạy chúng hỏi câu “Ông/bà có thấy Cái quần này không?” bằng tiếng Hy Lạp. Chúng thậm chí còn học nói câu đó bằng tiếng Pháp và tiếng Đức.
Được một khoảnh khắc khấp khởi khi một người múc kem nói, “Ồ, tôi có thấy nó.” Nhưng khi cả bốn đứa nó xúm quanh ông rồi thì chúng mới nhận ra là ông muốn nói ông đã thấy mấy cái thông báo này rồi.
“Bọn mình vẫn chưa hết hy vọng, đúng không?” Tibby hỏi. Nó không giấu được nỗi lo của mình.
“Không đâu.” Bee trấn an nó.
“Bọn mình sẽ tìm thấy nó. Nó muốn bọn mình tìm thấy nó mà,” Carmen nói.
Tibby cảm thấy là chẳng đứa nào trong bọn dám nghĩ chuyện đó theo cách nào khác cả. Hay ít ra, chúng vẫn chưa dám nói vậy.
Khi chúng từ Athinios về tới nhà, bà của Lena đang chờ ngay sau cánh cửa. Bà gần như đã túm lấy Lena ngay khi thấy nó.
“Kostos đang ở đây!” bà nói. Mấy ngón tay bà bấm hơi mạnh vào vai Lena.
“Sao ạ?”
“Nó đang ở đây. Nó tìm cháu đấy.”
Bọn bạn túm tụm lại quanh nó.
“Anh ấy tìm cháu ấy ạ?” nó lặp lại.
“Ồ, cậu ơi,” Tibby nói.
“Thấy không, anh ấy đang ở đây mà,” Bee nói.
“Nó nói nó sắp rời đảo và muốn thấy cháu trước khi đi.”
Tim Lena bắt đầu nổi cơn thịnh nộ theo kiểu quen thuộc. “Anh ấy đi đâu rồi ạ?”
“Nó bảo nó sẽ chờ cháu trong rừng.” Bà nhún vai. “Bà chẳng biết gì cả, nhưng nó lên đó.” Bà chỉ tay về một hướng.
Lena biết là đâu rồi. “Cảm ơn bà.” Nó dừng lời, cố nhặt nhạnh lại những cảm xúc của mình.
“Cháu có đi không đấy?” Bà Valia trông như sắp đi giùm nó tới nơi rồi nếu Lena không chịu nhanh chân lên.
“Dạ, cháu sẽ đi.”
Với những lời cảnh cáo và khích lệ của bạn bè, Lena thong thả đi lên đồi. Thật lạ. Nó cứ ngỡ với Kostos thì lòng nó đã tìm thấy một chốn thanh thản nào đó rồi. Sao tim nó lại đang đập nhanh thế này?
Sao anh lại muốn gặp nó? Còn gì để nói nữa? Nó đã nói rõ ràng hết mức rồi. Thực tình nó lấy làm lạ là vẫn chưa khiến anh phải bỏ đi mãi mãi.
Trong tất cả những gì đã nói, nó có thể rút lại điều gì không? Nó có muốn không? Có phải vì vậy mà tim nó đập nhanh không?
Nó cứ đi lên mãi cho đến khi vách núi trải ra bằng phẳng. Nó mừng khi thấy nơi đây lại xanh mướt. Năm nay mưa nhiều.
Phải, một số điều nó đã nói đêm đó là nói dối. Có lẽ nó sẽ đính chính lại một vài điều nếu được, nhưng trong chúng vẫn chứa đựng ít nhiều sự thật, và nó cần phải nói ra. Nó mừng là đã nói, để mong sao có thể đi tiếp cuộc đời mình.
Tim nó lâng lâng lúc nhìn thấy tấm lưng anh khi anh đứng trong cụm rừng của hai người. Có một số cảm xúc mà đơn giản là ta không thể lấp đi được, dù chúng có đáng bị vùi lấp đến thế nào. Anh quay lại và thấy nó khi nó đến gần.
Sao anh trông vui như vậy khi thấy nó? Sao nó lại vui như vậy khi thấy anh?
“Mình luôn trở lại đây, nhỉ?” nó nói.
Anh gật. Anh trông đã khá hơn. Nói cho đúng ra, không phải là về vẻ đẹp trai. Anh trông thẳng thắn hơn, trọn vẹn hơn, mạnh mẽ hơn. Lần trước anh đã có cái vẻ hổ thẹn, đầy hy vọng, ở Providence ấy, nhưng giờ anh không còn trông như vậy nữa.
Anh xắn quần lên rồi họ ngồi cạnh nhau ở mép nước. Nước lạnh đến độ Lena phải thét lên, và anh cười.
Anh nhúng nước hai bàn chân và rồi anh cúi xuống rửa tay. Nó vẫn để yên hai bàn tay trong lòng. Nó nhìn những gốc cỏ lởm chởm ngăn cách hai người.
“Anh đã không vui,” anh nói. Nó tin anh, dù giờ anh không hề có vẻ không vui.
“Em đã tệ với anh quá,” nó nói.
Anh lại nhúng hai tay vào nước và vẩy khô. “Anh có một chuyện muốn kể với em,” anh nói, nhìn thẳng nó.
“Dạ,” nó nói ngập ngừng. Nó có cái cảm tưởng mình sắp sửa sắm một vai trong câu chuyện này.
“Em có còn nhớ đã hỏi anh có nghĩ em sẽ lao vào vòng tay anh không khi thấy anh?”
Nó nhăn mặt. Lúc ấy nó đã nói điều đó một cách tàn nhẫn. Nó đã muốn làm anh đau lòng.
“Ừ, đó là cái anh đã nghĩ,” anh nói không do dự. “Khi bay đến gặp em, anh đã gói ghém quần áo để ở lại trong hai tháng. Anh đã tính trước đến chuyện gọi cho bà và bà sẽ đóng thùng chỗ đồ còn lại gửi cho anh. Vì anh đã nghĩ em sẽ ùa vào vòng tay anh và mình sẽ bên nhau mãi mãi.”
Dù đau lòng khi nghe điều này đến mấy, nó cũng khâm phục sự thành thật của anh.
“Anh đã gọi cho lãnh sự Hy Lạp. Anh đã bắt đầu làm việc cho bộ phận làm visa cho sinh viên. Anh được thuận đơn xin chuyển đến ba trường đại học gần chỗ em.”
Dù khâm phục sự thành thật ấy thì nó cũng ước gì anh dừng ngay đi.
“Anh đã mang theo một chiếc nhẫn.”
Lena cắn mạnh bên trong má đến nỗi nó nếm thấy máu. Sao anh lại có thể nói với nó những điều này? Anh nói ra những điều này đau đớn thế nào thì nó nghe cũng thấy đau như vậy. Nó chẳng nghĩ ra phải nói lại thế nào.
“Anh không nghĩ mình sẽ cưới nhau. Trong vài năm đầu thì chưa. Nhưng anh muốn trao cho em cái gì đó để em thấy là anh sẽ không bao giờ xa em nữa.”
Nó như vừa bị nện một cú vào đầu. Những giọt nước mắt bất ngờ. Nó cảm thấy mình dịu đi vì anh; thấy được là cơ thể nó đang thay đổi.
Anh vốn cứng rắn. Anh đã phải cắn răng mới thú nhận được thế này. Nó có thể cảm thấy là anh sẽ không dừng chừng nào chưa nói xong.
“Anh làm một lúc hai việc, gần một trăm giờ mỗi tuần suốt hai năm qua, và anh đã dồn gần như tất cả những gì anh kiếm được vào chiếc nhẫn. Thật tốt khi có việc gì để làm cho khuây khỏa và cũng để nghĩ là anh có thể bù đắp lại cho em.”
Bọn bạn Lena chọc nó vì cái lối nó ậm ừ khi cảm thấy chuyện không vui của chúng. Giờ nó đang nghe thấy mình tạo ra cái âm thanh đó.
“Em có biết anh đã làm gì với nó không?”
Anh nhìn nó đăm đăm đến mức nó nhận ra anh chờ nó trả lời. Nó lắc đầu.
“Anh đã ném nó xuống Caldera.”
Nó tròn mắt.
“Em có biết rồi sau đó anh đã làm gì không?” Sự liều lĩnh khi anh kể câu chuyện này dường như đã thâu tóm cả sự liều lĩnh của những gì anh đã làm.
Nó lại lắc đầu.
“Anh lẻn vào nhà vợ cũ lấy cắp chiếc nhẫn anh đã tặng cô ta và anh cũng đã quẳng nó xuống biển.”
Lena chỉ nhìn anh trân trân.
“Nó chẳng có nghĩa gì so với chiếc nhẫn dành cho em, nhưng nó cho anh cái cảm giác một sự kết thúc.”
Nó gật.
“Nhưng rồi Mariana gọi cảnh sát, và thế là anh nhận tội và ngồi tù một đêm ở Fira.” Anh kể một cách rất thản nhiên.
“Ôi không,” Lena nói.
Anh gật. Anh quả là trông hài lòng về mình.
“Anh đã được chụp ảnh căn cước đấy,” anh nói, gần như hớn hở.
Nó nghĩ về chuyện đó. Kostos vốn vẫn sống sao cho được mọi người yêu mến giờ lại bị chụp ảnh căn cước. Chuyện đó thật điên rồ. Chuyện đó thật buồn cười. Nhưng nó không thể không thấy ấn tượng vì anh. Nó đã tin rằng mình có cái khả năng hủy diệt. Nó đã đánh giá thấp khả năng hủy diệt của anh.
“Ông anh đã đón anh về. May quá, anh được thả mà không phải nộp phạt.”
“Ông nói sao?” Thật khó mà hình dung.
“À.” Mặt Kostos nghiêm trang lại. “Ông vờ như chuyện đó không xảy ra. Ông và anh chưa hề nhắc đến chuyện đó.”
Lena lại ậm ừ. Nó nhận ra sự thú nhận này là một phần trong sự ăn năn của Kostos. Đó cũng là sự ăn năn của nó nữa.
Mặt trời bắt đầu lặn. Ánh sáng hồng trên những chiếc lá ô liu bạc cũng dễ thương như bất cứ thứ gì nó nhớ được. Nó biết bà Valia sẽ dọn bữa tối sớm.
“Anh đang tính đi đâu đó thì phải,” nó nói.
“Anh sẽ đón chuyến phà sáng sớm nhất. Mai anh bay đi London.”
“Đi London?”
“Quay lại đại học Kinh tế. Họ đã giữ chỗ rồi.”
“Ồ. Dĩ nhiên.” Đó là sự khác biệt ở anh giờ đây, nó nhận ra. Anh không nản lòng. Anh cứng rắn hơn trước. Nỗi giận của anh với nó đã thiêu rụi những tội lỗi. Anh đã buộc mình phải quên nó đi.
Thật mạnh mẽ làm sao khi từ bỏ được những ước mong của mình. Giống như đang mặc cả để mua một tấm thảm vậy. Lợi thế duy nhất của ta là có thể bỏ đi.
“Anh có thể bắt đầu lại từ chỗ anh bỏ dở. Anh thậm chí còn kiếm được một phòng trong căn hộ cũ của anh rồi đấy.”
Cổ họng nó đau nhói. “Chúa ơi. Như thể đồng hồ quay ngược lại. Như thể trở lại cái mùa hè mình gặp nhau. Lúc đó là cuối tháng Tám và anh đang định đi London còn em thì đang định về nhà để đi học.”
Anh gật.
“Anh gần như có thể hình dung ra ngay mọi thứ diễn ra giữa khoảng thời gian đó,” nó nói.
Anh đang đăm chiêu quay sang nhìn nó. “Còn em lại không thể, đúng không?”
“Không, anh mới không thể.” Nó thấy cái vòng tròn mặt trời màu cam lựng trên mặt nước phẳng lặng. Nó nhúng hai bàn tay vào để làm loang những xoáy nước. Nó đưa hai bàn tay ướt, lạnh lên má ấm.
Anh đứng lên và nó cũng đứng lên. Anh chìa tay ra bắt. Tay nó vẫn còn ướt. “Anh nghĩ ta nên tạm biệt thôi,” anh nói.
Bên nhau, trò chuyện đã thoải mái hơn, khi mà giờ đây cả hai đều từ bỏ.
“Phải. Em cũng nghĩ thế.”
“Chúc em mọi điều may mắn, Lena. Anh mong em hạnh phúc.”
“Cám ơn. Em cũng mong anh hạnh phúc.”
“Được rồi, thế nhé.”
“Tạm biệt.”
Anh khẽ hắng giọng khi nó quay đi. Nó ngoái lại.
“Tối nay có trăng rằm đấy,” anh nói rồi đi đường khác.
Anh vừa đi khuất tầm mắt thì Lena đã cảm thấy cái cảm giác nhớ anh ngày xưa ấy rồi. Nó không khía vào lòng như một vết thương vừa mới. Đó là cơn nhức nhối của trận cúm gần kề.
Họ có thật là đã quên được nhau rồi không? nó tự hỏi. Hình như họ đã quên được chính mình thì đúng hơn.
Lena nín thinh suốt bữa ăn tối, nhìn những gương mặt thân yêu rám nắng của mấy đứa bạn, khoái chí vì mấy trò trêu đùa. Nó thích cái cách bà Valia cười khi Carmen chọc bà.
Nó vừa về đến nhà thì chúng đã muốn biết hết những gì đã diễn ra với Kostos, vậy là nó kể cho chúng nghe. Nhưng nó vẫn chưa nghĩ ra được phải nói với chúng là mình cảm thấy ra sao về chuyện xảy ra.
Nó bò vào giường sớm. Nó nghe loáng thoáng tiếng cười của Bee, Carmen và bà Valia dưới nhà. Nó nghe Tibby nói với một loạt điện thoại viên quốc tế, cố liên lạc cho được với Brian bằng điện thoại di động.
Đầu Lena đầy be đến mức nó tưởng nó sẽ phải trằn trọc hàng giờ, nhưng trái lại, nó gần như thiếp đi ngay. Thế rồi nó giật mình choàng tỉnh. Nó cảm thấy đã có một giấc mơ, nhưng giấc mơ tan đi nhanh quá nó không bắt được dù chỉ một sợi tơ.
Nó nghe tiếng Carmen thở đều bên cạnh. Cái vẻ đặc biệt trên mặt Carmen khi ngủ nhắc nó nhớ đến cả trăm đêm khác, cả trăm đêm ngủ lại nhà nhau suốt nhiều năm. Ở đây, ở Hy Lạp này, điều đó làm nó hạnh phúc. Thế giới vẫn thường được tạo thành từ những cú nhảy vọt và khởi đầu, nhưng đêm nay nó lại tròn trịa và liên tục.
Nó nhìn ra cửa sổ và thấy vầng trăng rằm kiêu hãnh treo trên Caldera, dường như thích thú cái bóng phản chiếu vẹn toàn của mình bên dưới. Nó hiểu Kostos muốn nói gì.
Nó ngắm trăng thêm một lúc nữa, và chợt thực sự hiểu điều Kostos muốn nói.
Nó rón rén bò ra khỏi giường để không đánh thức Carmen. Nó tròng cái quần jean và áo phông màu xanh lá bạc màu vào. Nó chải tóc, rón rén mấy ngón chân mềm ra khỏi phòng.
Ai biết mấy giờ rồi không? Ai biết liệu anh có ở đó không hay khi nào thì anh ở đó? Nhưng hai bàn chân to của nó có niềm tin của chúng khi tự kéo Lena lên đồi.
Anh đang ở đó. Có lẽ anh đã ở đó nhiều giờ rồi; nó không làm sao biết được. Anh đứng lên đón nó, vui mừng, không ngạc nhiên. Anh cần nhìn mặt nó trong tích tắc để biết là mình được ôm nó.
Nó khóc trong vòng tay anh. Đó không hề là nước mắt buồn, chỉ là những giọt nước mắt cần tuôn trào. Nó khóc cả vào áo sơ mi của anh. Nó khóc cho Cái quần của nó. Anh ôm nó chặt hết sức mình mà không nghiền nát nó.
Nó đã muốn tim mình vẫn cứ nhỏ bé mà chất chứa, nhưng không thể. Ồ, đúng thế.
Những chiếc lá đều tăm tắp nhấp nháy dưới trăng. Vũng nước đang dập dềnh, tiếng ồn của nước. Có cảm giác thật tuyệt vời khi được ở ngay đây. Đây là vòng tay có cảm giác không giống vòng tay nào.
“Em có nghĩ có lúc nào đó em tha thứ cho anh không?” anh hỏi nó. Không có yêu cầu trong giọng anh. Nó cảm thấy như thể dù nó trả lời có hay không thì anh cũng sẽ không lơi vòng tay.
“Có thể,” nó nói yếu ớt. “Em nghĩ có lẽ vậy.”
“Em có yêu ai khác không?” anh hỏi. Điều đó quan trọng với anh, rõ rồi, nhưng anh để nó chỉ thoáng qua thôi.
“Em đã thử,” nó nói. “Em không biết mình có thể không.” Nó nói vào ngực anh.
Nó có thể cảm thấy anh gật trên đầu nó. Nó cũng cảm thấy sự nhẹ lòng của anh khi người anh tìm cách xích lại gần nó hơn.
“Anh biết mình thì không thể,” anh nói.
Nó tựa vào ngực anh mà gật đầu. Họ cứ đứng yên như vậy một lát. Nó nhận ra mặt trời đang hé sáng ở viền xa nhất ngoài biển. Đã muộn hơn nó tưởng. Hay sớm hơn.
Anh từ từ dứt mình khỏi nó, đầy tiếc nuối.
Nó cảm thấy không khí lạnh ùa vào thay thế hết những chỗ nãy giờ anh đã ôm. Trước khi dứt đi, anh ôm lấy mặt nó và hôn nó, mạnh mẽ, vững vàng, đầy đam mê. Đó là một nụ hôn mới mẻ. Nụ hôn trưởng thành và dứt khoát. Nó tự động biết làm sao để hôn anh lại cũng cách ấy.
Điều cuối cùng anh nói với nó là cái gì đó bằng tiếng Hy Lạp. Anh nói nhấn mạnh, như thể nó sẽ biết anh muốn nói gì, nhưng dĩ nhiên là nó không biết.
Và suốt trên đường xuống đồi khi mặt trời lên, buông tuồng tỏa mình soi rọi màn đêm riêng tư của nó, nó cố ghi nhớ từ đó.
Đó là một chữ? Hai chữ? Một câu? Có năm âm tiết, nó nghĩ. Đúng không nhỉ? Nó cố nhớ từng âm tiết, nhắc đi nhắc lại như một câu thần chú suốt trên đường xuống đồi.
Việc đầu tiên nó làm khi vào trong nhà là dùng bút chì ghi từ đó ra một mẩu giấy kẻ trong bếp của bà.
Nó viết chữ đó ra theo những gì nghe được. Nó còn biết làm sao khác nữa? Nó không biết rõ bảng chữ cái Hy Lạp để mà cố viết cho đúng. Nó không rõ cách biểu đạt các nguyên âm.
Sao anh lại nói như thế? Như thể anh biết chính xác mình đang nói gì và như thể nó sẽ hiểu?
Ôi. Anh luôn để lại cho nó những rắc rối.
“Bà có biết cái này nghĩa là gì không ạ?” nó hỏi bà Valia khi bà đi xuống lầu, chìa mẩu giấy ra trước mũi bà nửa gang tay. Lena không hẳn là kín đáo như nó vẫn vậy.
Bà Valia nhiu nhiu cặp mắt vốn đã đầy nếp nhăn. “Nó phải là cái gì đây?” bà hỏi.
“Cháu không biết. Cháu hy vọng bà có thể cho cháu biết. Tiếng Hy Lạp đấy.”
Bà lúng túng. “Cháu gọi cái này là tiếng Hy Lạp hở?”
Lena thở dài sốt ruột. “Bà ơi, bà thử được không?”
Bà Valia phải khổ sở lắm mới tìm ra cặp kính. Bà nheo nheo mắt nhìn mẩu giấy thêm chút nữa. “Lena, cháu yêu, làm sao bà biết nó nghĩa là gì được?” cuối cùng bà nói.
Trong khi bọn bạn nó ra khỏi giường và thay đồ rồi chiếm trọn căn bếp, làm món trứng rán và mọi thứ ăn được trong phòng, Lena ngồi bên bàn giữa cảnh náo nhiệt mà chúi mũi vào cuốn từ điển Hy Lạp - Anh.
“Cậu đang làm gì vậy?” cuối cùng Tibby phải hỏi.
“Tớ sẽ cho cậu hay khi tớ biết,” nó nói.
Chúng mặc nào áo tắm nào váy đi biển rồi bỏ đồ vào túi cói và vậy là Lena theo chúng xuống bãi biển mà mặt vẫn còn cắm vào từ điển. Nó vấp phải hòn cuội và bị trầy da đầu gối như trẻ con. Đúng như một đứa trẻ con, nó thấy mình khóc được đến nơi.
“Có chuyện gì với cậu vậy?” Carmen hỏi.
“Cậu ấy sẽ cho bọn mình hay khi cậu ấy biết,” Tibby nói, giọng vẻ che chở.
Lena chú tâm đến nỗi bị cháy nắng ở lưng. Nó cứ cần mẫn ôm cuốn từ điển trong khi bọn bạn nó đi mua kem. Nó thử mọi cách đánh vần. Nó thử mọi tập hợp chữ cái cho đến khi cuối cùng, khi mặt trời lên đến đỉnh, nó nghĩ ra. Hay chí ít, nó tin là nó nghĩ ra rồi.
“ là điều Kostos đã nói. Có nghĩa là “Một ngày nào đó.”
Và vậy là nó đã hiểu ra.
Hết chương 22. Mời các bạn đón đọc chương 23!