Ánh nắng xuyên qua cửa sổ phòng ngủ chiếu vào mặt Elizabeth, đánh thức cô dậy lúc 6h8phút sáng. Cô luôn mở rèm khi ngủ. Thói quen bắt nguồn từ việc lớn lên trong trang trại. Nằm trên giường, cô có thể nhìn xuyên qua cửa sổ ngôi nhà gỗ xuống con đường trong vườn và nhìn ra đến cổng trước. Phía sau nó là con đường làng dài khoảng một dặm chạy thẳng từ trang trại. Elizabeth có thể nhìn thấy mẹ cô trở về sau những chuyến phiêu lưu của bà, đi bộ trên đường ít nhất hai mươi phút trước khi tới nhà. Cô có thể nhận ra kiểu nhún nhảy đó từ cách xa hàng dặm. Khoảng thời gian hai mươi phút đó tưởng như vô tận đối với Elizabeth. Con đường có cách để dồn đắp sự hồi hộp trong cô, gần như trêu ngươi cô vậy.
Và cuối cùng cô cũng nghe thấy âm thanh quen thuộc đó, tiếng cổng trước cót két. Những chiếc bản lề gỉ sét như một ban nhạc chào mừng tâm hồn tự do của mẹ cô. Đối với Elizabeth, chiếc cổng là thứ cô vừa yêu vừa ghét. Cũng như đoạn đường rất dài kia, nó như đùa cợt cô vậy, và có những ngày nghe tiếng kẹt cửa, cô chạy ngay ra xem ai tới, để rồi trái tim chùng xuống khi thấy đó chỉ là người đưa thư.
Elizabeth luôn khiến bạn bè chung phòng tại trường đại học và người yêu khó chịu vì cứ nhất quyết để rèm mở. Cô không biết tại sao mình lại khăng khăng như vậy; chắc chắn không phải để tỏ ra như cô vẫn đang chờ đợi. Nhưng giờ đây khi đã trưởng thành, chiếc rèm để mở là cái đồng hồ báo thức; như vậy cô biết ánh sáng sẽ không cho cô quay lại giấc ngủ sâu. Ngay cả trong giấc ngủ cô cũng có cảm giác đề phòng, và chủ động. Cô lên giường để nghỉ ngơi, không phải để mơ.
Cô há miệng ngáp dài trong căn phòng tràn ngập ánh sáng, các mạch máu trên đầu chạy rần rật. Cô cần cà phê, nhanh. Ngoài cửa sổ tiếng chim hót vang vọng trong sự tĩnh lặng của đồng quê. Xa xa đâu đó có tiếng một con bò đáp lại. Bất chấp vẻ đẹp của buổi sáng nơi thôn dã, Elizabeth không chờ đợi gì ở ngày thứ Hai này. Cô đã cố gắng dàn xếp lại cuộc họp với các chuyên gia phát triển khách sạn, một nhiệm vụ khó khăn vì sau khi báo chí xôn xao về chiếc tổ tình yêu mới trên đỉnh núi thì người từ khắp thế giới đã bay đến đây háo hức chia sẻ ý tưởng thiết kế. Điều này làm Elizabeth khó chịu; đây là lãnh địa của cô. Nhưng đó không phải vấn đề duy nhất của Elizabeth.
Luke được ông ngoại mời đến trang trại chơi cả ngày. Elizabeth có phần vui mừng trước việc này. Điều làm cô lo lắng là ông mong ngóng một cậu bé sáu tuổi nữa có tên là Ivan. Sáng nay cô sẽ phải nói chuyện này với Luke, vì cô hoảng sợ nghĩ tới chuyện sẽ xảy ra khi Luke nhắc về người bạn tưởng tượng với cha cô.
Ông Brendan đã sáu mươi nhăm tuổi, cao lớn, trầm lặng và ủ ê. Tuổi tác không làm ông vui vẻ hơn; thay vào đó nó mang đến sự cay đắng, oán giận và bối rối. Ông là người hẹp hòi, không sẵn lòng cởi mở hay thay đổi. Nếu sống theo cách đó giúp ông hạnh phúc, thì ít nhất Elizabeth cũng cố gắng thông cảm cho bản tính khó chịu của ông, nhưng theo cô thấy thì cách nhìn nhận của ông đã chống lại ông và khiến cuộc sống của ông càng thêm khốn khổ. Ông lạnh lùng, ít khi mở miệng trừ khi nói về lũ bò hay cây cối, chẳng bao giờ cười, và bất cứ khi nào cho rằng có ai đó đáng để ông mở lời, thì ông lại lên lớp người ta. Ông cũng không cần người ta trả lời. Ông không nói để đối thoại. Ông nói để khẳng định. Ông rất ít khi ở bên Luke vì ông không không có thời gian cho những chuyện thần tiên vớ vẩn, những trò chơi ngốc nghếch vô nghĩa của trẻ con. Điểm duy nhất mà Elizabeth có thể nhận thấy ông thích ở Luke là cậu là một cuốn vở trắng, sẵn sàng tiếp nhận thông tin và chưa có đủ kiến thức để tranh luận hoặc phê phán. Cha cô không có chỗ cho truyện cổ tích và thần tiên. Cô cho rằng đó là điểm chung duy nhất giữa cô và cha.
Cô ngáp rồi duỗi người, vẫn không thể mở mắt ra trước ánh sáng chói chang, cô quờ quạng quanh chiếc tủ đầu giường tìm cái đồng hồ báo thức. Mặc dù sáng nào cũng dậy vào một giờ cố định nhưng cô không bao giờ quên đặt đồng hồ báo thức. Tay cô đập vào một cái gì đó cứng, lạnh và nó rơi bộp xuống sàn. Trái tim ngái ngủ của cô đập thót lên sợ hãi.
Ngó qua thành giường, cô nhìn thấy chiếc cời lửa bằng sắt đang nằm trên tấm thảm trắng. Thứ “vũ khí” này nhắc cô phải gọi Rentokil đến diệt chuột. Suốt mấy ngày cuối tuần cô đã cảm thấy sự hiện diện của chúng trong nhà, cô đã tưởng tượng ra chúng đang ở trong phòng ngủ của mình, đến nỗi mấy đêm nay cô không sao ngủ được, mặc dù với cô mất ngủ không phải chuyện lạ.
Sau khi đã tắm rửa mặc quần áo chỉnh tề và đánh thức Luke dậy, cô xuống cầu thang vào bếp. Vài phút sau, với ly cà phê trong tay, cô quay số gọi Rentokil. Luke mắt nhắm mắt mở bước vào bếp, mái tóc bạch kim bù xù, áo phông màu da cam thò một nửa ra ngoài chiếc quần soóc đỏ. Bộ quần áo được bổ sung đôi tất cọc cạch và đôi giày thể thao phát sáng theo bước chân cậu.
“Ivan đâu ạ?” Cậu chệnh choạng hỏi, nhìn quanh bếp như thể trước đây chưa bao giờ tới phòng này. Sáng nào cậu cũng như thế; phải mất ít nhất một tiếng đồng hồ để hoàn toàn tỉnh ngủ mặc dù cậu đã ra khỏi giường và mặc quần áo chỉnh tề. Những buổi sáng mùa đông u ám thì còn lâu hơn. Elizabeth cho rằng có lẽ phải đến tận lúc ngồi học ở trường khi trời đã sáng bảnh ra, thằng bé mới nhận ra mình đang làm gì.
“Ivan đâu ạ?” Cậu hỏi lại.
Elizabeth đưa ngón trỏ lên môi, rồi đưa mắt ra hiệu cho cậu yên lặng, vì cô đang nghe người phụ nữ của công ty Rentokil nói. Cậu biết không được ngắt lời khi cô đang nói chuyện điện thoại. “Vâng, tôi cũng mới phát hiện ra từ cuối tuần này thôi. Đúng ra là từ trưa thứ Sáu, nên tôi không biết…”
“IVAN!” Luke gọi to, và bắt đầu tìm dưới bàn ăn, sau rèm, sau cửa. Elizabeth nhướng mày. Lại cái trò ầm ĩ này nữa.
“Không, tôi chưa nhìn thấy…”
“IVANNNN!”
“… con nào cả nhưng tôi cảm thấy chắc chắn là chúng có ở đây.” Elizabeth ngừng lời, và đưa mắt tìm Luke để cố gắng nhắc cậu lần nữa.
“IVAN, CậU Ở ĐâU THẾ?” Luke gọi.
“Phân chuột à? Không, không có phân,” Elizabeth nói, bắt đầu thấy bực.
Luke ngừng hét và dỏng tai lên nghe. “CÁI GÌ CƠ? TỚ KHÔNG NGHE RÕ Cậu NÓI GÌ.”
“Không, tôi không có cái bẫy chuột nào cả. Chị nghe này, tôi rất bận, tôi không có thời gian cho hai mươi câu hỏi đâu. Chị có thể cử ai đó đến tự kiểm tra không?” Elizabeth ngắt lời.
Luke đột ngột chạy khỏi bếp và phóng ra hành lang. Cô nghe tiếng cậu đập cửa phòng khách. “Cậu LÀM GÌ Ở TRONG ĐÓ THẾ IVAN?” Cậu kéo tay nắm cửa.
Cuối cùng cuộc đối thoại của Elizabeth cũng kết thúc và cô đập máy xuống. Luke đang hét hết cỡ qua cánh cửa phòng khách. Máu trong người cô sôi lên.
“LUKE! VÀO ĐâY NGAY!”
Tiếng đập cửa phòng khách lập tức ngừng lại. Cậu chậm chạp lê vào bếp.
“KHÔNG LÊ CHâN NHƯ THẾ!” Cô quát.
Cậu nhấc chân lên và cái đèn ở đế giày lại phát sáng mỗi bước cậu đi. Cậu đứng trước mặt cô, nói khẽ và ngây thơ hết mức với cái giọng thanh thanh của mình. “Sao đêm qua bác lại nhốt Ivan trong phòng khách?”
Im lặng.
Cô phải chấm dứt chuyện này ngay bây giờ. Cô quyết định chọn thời điểm này để ngồi xuống và nói chuyện với Luke để rồi sau đó thằng bé sẽ phải tôn trọng những mong muốn của cô. Cô sẽ giúp nó hiểu thực tế và chấm dứt nói về những người bạn vô hình.
“Ivan muốn biết tại sao bác lại mang cái cời lửa vào phòng ngủ?” Cậu nói thêm, cảm thấy tự tin hơn một chút khi thấy cô không quát nữa.
Elizabeth nổi khùng. “Con không được nói về cái cậu Ivan này nữa, có nghe thấy không hả?”
Khuôn mặt Luke trắng bệch.
“CÓ NGHE THấY KHÔNG HẢ?” Cô hét. Cô không để thằng bé có cơ hội trả lời. “Con cũng biết rõ như bác là không có cái thứ nào giống như cậu Ivan đó. Cậu ta không chơi đuổi bắt, không ăn pizza, không có trong phòng khách và không phải bạn con, vì cậu ta không tồn tại.”
Mặt Luke méo xệch như sắp khóc.
Elizabeth nói tiếp, “Hôm nay con sẽ đến chỗ ông và nếu ông nói với bác là con nhắc đến Ivan, thì con sẽ gặp rắc rối to đấy. Con có hiểu không?”
Luke bắt đầu khóc khe khẽ.
“Con có hiểu không hả?” Cô nhắc lại.
Thằng bé chậm chạp gật đầu trong khi nước mắt chảy xuống má.
Máu trong người Elizabeth không còn sôi lên sùng sục nữa, cổ họng cô bắt đầu đau vì quát to. “Giờ thì ngồi xuống bàn đi và bác sẽ mang ngũ cốc ra cho con,” cô nói nhẹ nhàng. Cô lấy hộp Coco Pops. Thường thì cô không cho thằng bé ăn bữa sáng bằng đồ ngọt như thế này nhưng cô cũng đã không nói chuyện với thằng bé về Ivan theo cách đã định. Cô biết cô không giữ được bình tĩnh. Cô ngồi ở bàn nhìn thằng bé đổ Coco Pops vào bát ngũ cốc, thấy tay nó run run khi cầm hộp sữa nặng. Sữa đổ ra ngoài. Cô kìm mình không quát nó một lần nữa dù tối qua cô đã lau bàn cho đến lúc sáng bóng lên. Có điều gì đó trong câu nói của Luke khiến cô cấn cá nhưng cô không nhớ được đó là gì. Cô tì cằm lên tay, quan sát thằng bé ăn.
Nó nhai từ từ. Buồn bã. Im lặng giữa mỗi miếng. Cuối cùng, sau vài phút, thằng bé lên tiếng. “Chìa khóa phòng khách đâu hả bác?” Nó hỏi, tránh không nhìn vào mắt cô.
“Luke, không được nói lúc đang nhai như thế,” cô nói nhỏ. Cô rút chìa khóa phòng khách ra khỏi túi, bước tới cánh cửa ra vào trên hành lang và xoay chìa trong ổ khóa. “Nào, bây giờ thì Ivan tha hồ tự do rời khỏi nhà nhé,” cô đùa, và ngay lập tức hối hận vì câu nói đó.
“Chưa đâu ạ,” Luke buồn bã nói vọng từ bàn ăn. “Cậu ấy không thể tự mở cửa được.”
Im lặng.
“Cậu ấy không thể?” Elizabeth nhắc lại.
Luke lắc đầu như thể cậu vừa nói điều bình thường nhất trên thế gian. Đó là điều kỳ cục nhất Elizabeth từng nghe. Một cậu bạn tưởng tượng kiểu gì mà lại không thể đi xuyên qua tường và cửa? Thôi được, cô đã không mở cửa, cô đã khóa nó lại và như thế cũng ngớ ngẩn chẳng kém. Cô quay lại bếp để lấy đồ đi làm. Luke đã ăn xong ngũ cốc, đặt bát vào máy rửa bát, rửa tay, lau khô và bước về phía cửa phòng khách. Cậu xoay nắm đấm, đẩy cửa mở, tránh sang một bên, cười ngoác miệng với không khí, đặt một ngón tay lên môi, tay kia chỉ về phía Elizabeth rồi khúc khích cười một mình. Elizabeth nhìn thằng bé đầy sợ hãi. Cô đi dọc hành lang và đứng cạnh Luke ở cửa. Cô nhìn vào phòng khách.
Trống rỗng.
Người phụ nữ ở hãng Rentokil đã nói bình thường thì chuột không vào nhà trong tháng Sáu và khi Elizabeth nhìn khắp phòng khách đầy hoài nghi, cô tự hỏi vậy thì không biết tất cả những tiếng động chết tiệt đó từ đâu ra.
Tiếng Luke cười cắt ngang dòng suy nghĩ của cô. Liếc mắt sang phía bên kia hành lang, cô thấy cậu đang ngồi ở bàn, đung đưa chân vui vẻ và làm mặt hề với không khí. Đối diện với cậu là một chiếc ghế được dọn thêm và bát Coco Pops mới đổ ra.
“Cậu này, bác cậu khó tính nhỉ,” tôi thì thầm với Luke ở bàn, cố gắng múc một muỗng đầy Coco Pops khi cô không để ý. Tôi thường không phải thì thầm khi ở gần các ông bố bà mẹ nhưng vì cô đã nghe thấy tiếng tôi vài lần trong mấy ngày vừa rồi nên tôi không định liều nữa.
Luke cười khúc khích gật đầu.
“Lúc nào bác cậu cũng thế à?”
Cậu lại gật.
“Thế bác ấy không bao giờ chơi trò chơi hay ôm hôn cậu à?” Tôi vừa hỏi vừa quan sát Elizabeth tỉ mẩn lau từng ly từng tí cái bệ bếp vốn đã sáng bóng, dịch chuyển thứ này qua trái nửa phân, thứ kia qua phải nửa phân.
Luke nghĩ ngợi một lúc rồi nhún vai. “Không nhiều.”
“Nhưng thế thì chán chết đi được! Cậu không thấy khó chịu à?”
“Edith nói là trên đời cũng có một số người không hay ôm hôn cậu hoặc chơi với cậu nhưng vẫn rất yêu cậu. Chỉ là họ không biết cách nói ra thôi,” cậu cũng thì thầm lại.
Elizabeth nhìn cậu lo lắng.
“Edith là ai thế?”
“Chị vú của mình.”
“Chị ấy đâu?”
“Đang đi nghỉ rồi.”
“Thế ai sẽ trông cậu khi chị ý đi nghỉ?”
“Cậu,” Luke cười
“Thế thì giao kèo nhé,” tôi nói, nắm bàn tay lại. Luke tóm lấy tay tôi. “Chúng mình làm thế này nhé,” tôi giải thích, rồi lắc lư đầu và cả người giống như đang lên cơn co giật. Luke phá lên cười và làm theo tôi. Chúng tôi càng cười to hơn khi Elizabeth dừng lau dọn để nhìn chằm chằm. Mắt cô mở to.
“Cậu hỏi nhiều quá đấy,” Luke thì thầm
“Cậu trả lời nhiều quá đấy,” tôi cãi lại, và hai chúng tôi lại cười.
Chiếc BMW của Elizabeth lắc lư chạy dọc con đường mấp mô dẫn tới trang trại của cha cô. Cô giận dữ siết chặt vô lăng khi những đám bụi từ mặt đường bay lên rồi bám lấy hai bên thành xe mới rửa. Cô không thể hiểu nổi làm sao mình có thể sống ở cái trang trại này suốt mười tám năm. Không có thứ gì giữ được sạch sẽ. Những bông hoa vân anh dại nhảy múa trong làn gió nhẹ, vẫy chào họ từ bên đường. Chúng xếp thành hàng trên con đường dài hàng dặm như đèn dẫn đường, cọ vào cửa xe, tì mặt vào tấm kính để xem ai đang ở bên trong. Luke hạ cửa sổ xe xuống để cho những bông hoa hôn vào tay nhồn nhột.
Cô cầu cho không có chiếc xe nào đi tới vì con đường chỉ vừa đủ cho cô đi, chẳng có chỗ mà tránh xe ngược chiều. Muốn nhường đường thì chỉ có cách lùi nửa dặm quay về điểm xuất phát. Nhiều khi có cảm tưởng đây là con đường dài nhất thế giới. Cô có thể nhìn thấy đích vậy mà cứ luôn phải lùi lại trước khi có thể tới nơi.
Hai bước tiến và một bước lùi.
Như khi còn nhỏ, cô nhìn thấy mẹ từ cách xa cả dặm nhưng bắt buộc phải chờ đợi hai mươi phút từ lúc mẹ cô nhún nhảy trên đường cho tới khi Elizabeth nghe thấy tiếng cửa cọt kẹt quen thuộc.
Nhưng tạ ơn Chúa, vì họ xuất phát chậm nên bây giờ không có chiếc xe ngược chiều nào. Lời nói của Elizabeth rõ ràng như nước đổ lá khoai vì Luke nhất định không chịu ra khỏi nhà cho tới khi Ivan ăn xong chỗ ngũ cốc. Sau đó nó còn khăng khăng bắt cô phải nhấc ghế trước lên để Ivan trèo vào ngồi phía sau.
Cô liếc nhanh về phía Luke. Nó ngồi ở ghế trước, đã thắt dây an toàn, tay thò ra ngoài cửa sổ, ngân nga bài hát mà nó đã hát đi hát lại cả kỳ nghỉ cuối tuần vừa rồi. Trông nó có vẻ vui. Cô hy vọng trò đóng kịch của thằng bé sẽ không kéo dài lâu nữa, ít nhất là không phải khi nó đang ở nhà ông ngoại.
Cô có thể thấy cha cô đứng ở cổng, chờ đợi. Một khung cảnh quen thuộc. Một hành động quen thuộc. Chờ đợi là sở trường của cha cô. Ông mặc chiếc quần nhung kẻ mà Elizabeth có thể thề là ông đã mặc từ thời cô còn bé. Hai ống quần nhét vào đôi ủng xanh Wellington lấm lem bùn đất ông thường đi trong nhà. Chiếc áo xám bằng vải cotton được can những mảnh vải hình thoi xanh lục và da trời đã bạc màu, có một lỗ thủng ở chính giữa để lộ màu xanh của chiếc áo pôlô mặc bên trong. Chiếc mũ bằng vải tuýt đội chặt trên đầu, chiếc gậy bằng cành mận gai bên tay phải giúp ông đứng thẳng, bộ râu hoa râm viền trên mặt và cằm. Cặp lông mày hoa râm mọc rậm rịt, khi ông nheo mắt lại thì chúng dường như che hoàn toàn đôi mắt xám của ông. Chiếc mũi choán hết khuôn mặt, với hai lỗ mũi lớn đầy lông xám. Những nếp nhăn sâu hằn trên khuôn mặt, đôi tay to như hai cái xẻng, vai rộng như thung lũng Dunloe. Ông đã làm cho ngôi nhà gỗ phía sau dường như nhỏ lại.
Luke ngừng ngân nga trong miệng ngay khi nhìn thấy ông ngoại và rụt tay vào trong xe. Elizabeth dừng xe, tắt máy rồi nhảy ra ngoài. Cô đã nghĩ ra một kế. Luke vừa ra khỏi xe thì cô đã đóng cửa và khóa lại trước khi thằng bé có cơ hội kéo ghế dọn đường cho Ivan chui ra. Mặt Luke nhăn lại khi nó nhìn Elizabeth rồi quay lại phía chiếc xe.
Chiếc cổng phía bên ngoài ngôi nhà gỗ kêu cót két.
Bụng Elizabeth nôn nao.
“Buổi sáng,” một giọng trầm cất lên. Đây không phải lời chào. Đây là câu khẳng định.
Môi dưới của Luke run run và cậu tì cả mặt lẫn tay lên mặt kính ở ghế sau. Elizabeth hy vọng bây giờ thằng bé sẽ không quấy ầm lên.
“Con không chào ông ngoại à, Luke?” Elizabeth nghiêm nghị hỏi, hoàn toàn ý thức được rằng chính mình cũng chưa chào ông.
“Cháu chào ông ạ.” Giọng Luke run run. Khuôn mặt vẫn tì lên cửa kính.
Elizabeth định mở cửa xe để tránh thằng bé làm ầm lên nhưng rồi quyết định thôi. Nó cần phải vượt qua giai đoạn này.
“Thế còn đứa kia đâu?” Brendan hỏi lớn.
“Đứa kia nào ạ?” Cô cầm tay Luke cố kéo nó ra xa chiếc xe. Đôi mắt xanh của thằng bé nhìn cô khẩn khoản. Tim cô chùng xuống. Thằng bé biết rõ không nên gây chuyện ầm ỹ.
“Thằng bé con biết về các loại rau nước ngoài ấy.”
“Ivan,” Luke buồn bã nói, nước mắt ứa ra.
Elizabeth nhảy vào, “Ivan hôm nay không đến được, đúng không Luke? Có lẽ hôm khác bố ạ,” cô nói nhanh, trước khi câu chuyện có thể đi xa hơn, “Thôi, con phải đi làm không thì muộn mất. Luke, chơi ngoan với ông ngoại nhé!”
Luke nhìn cô do dự rồi gật đầu.
Elizabeth thấy ghét bản thân mình nhưng cô biết mình đã đúng khi kiểm soát lối cư xử kỳ cục này.
“Vậy cô đi đi.” Brendon huơ chiếc gậy bằng cành mận gai về phía cô như xua đuổi, rồi quay đi hướng về phía ngôi nhà gỗ. Tiếng động cuối cùng cô nghe thấy là tiếng chiếc cổng cót két trước khi cô sập cửa xe lại. Cô phải lùi xe hai lần nhường đường cho hai chiếc máy kéo. Qua gương chiếu hậu cô có thể thấy Luke và cha cô đứng ở vườn trước, cha cô che khuất hết cả thằng bé. Cô không thể rời khỏi ngôi nhà nhanh như cô muốn; như thể dòng xe cộ là đợt thủy triều cứ đẩy cô quay lại mãi.
Elizabeth còn nhớ lúc mười tám tuổi, cô đã vui mừng như thế nào khi thoát khỏi khung cảnh này. Lần đầu tiên trong đời, cô khăn gói rời khỏi ngôi nhà gỗ, dự định sẽ không quay lại trước Giáng sinh. Cô đến Đại học Cork sau khi chiến thắng cha nhưng đổi lại đã đánh mất toàn bộ sự tôn trọng ông từng dành cho cô. Thay vì chia sẻ niềm phấn khích với cô, ông lại nhất quyết không chịu gặp mặt từ biệt trong ngày trọng đại đó của cô. Khi ra đi vào buổi sáng tháng Tám đẹp trời đó, người duy nhất Elizabeth nhìn thấy đứng bên ngoài ngôi nhà gỗ là cô bé sáu tuổi Saoirse, mái tóc đỏ rối bù buộc vổng, nụ cười thiếu mấy cái răng nhưng tươi rói hết cỡ, tay cuống quýt vẫy chào tạm biệt, tràn ngập niềm tự hào dành cho người chị.
Thay vì sự nhẹ nhõm và phấn khích mà cô hằng mơ tưởng khi chiếc taxi cuối cùng cũng rời xa ngôi nhà, cắt đứt sợi dây nhau ràng buộc cô với nó, cô lại cảm thấy sợ hãi và lo lắng. Không phải vì những gì đang nằm ở phía trước, mà vì những thứ cô để lại phía sau. Cô không thể chăm sóc Saoirse mãi mãi, cô là một thiếu nữ cần được tự do, cần phải tìm thấy chỗ đứng của chính mình trong thế giới này. Cha cô cần phải tiếp nhận vai trò người cha chính đáng của ông, cái vị trí ông đã bỏ mặc nhiều năm và từ chối công nhận. Cô hy vọng rằng giờ đây khi chỉ có hai người họ thì cha cô sẽ nhận ra trách nhiệm của mình và chứng tỏ tất cả tình yêu thương đối với những gì ông đã bỏ bễ.
Nhưng nếu không như thế thì sao? Cô tiếp tục nhìn em gái qua tấm kính sau, cảm giác như mình sẽ không bao giờ nhìn thấy nó nữa, cuống quýt vẫy tay trong khi nước mắt tràn mi, thương cho cái sinh mệnh bé bỏng và nguồn năng lực tiềm tàng mà cô để lại phía sau. Từ xa cả dặm vẫn có thể nhìn thấy mớ tóc đỏ nhấp nhô nên hai chị em tiếp tục vẫy chào nhau. Cô em gái bé nhỏ của cô sẽ làm gì đây khi niềm vui chào từ biệt cô kết thúc và nhận ra thực tế là nó chỉ còn lại một mình với người đàn ông không bao giờ nói chuyện, không bao giờ giúp đỡ và không bao giờ yêu thương. Ngay lúc đó, Elizabeth suýt nữa đã bảo người lái xe dừng lại, nhưng vội nhắc mình phải mạnh mẽ. Cô cần phải sống.
Rồi một ngày nào đó em sẽ hành động như chị, Saoirse bé bỏng, đôi mắt cô nói thầm với cái bóng dáng nhỏ nhoi khi chiếc xe chạy xa dần. Hãy hứa với chị em cũng sẽ hành động tương tự. Bay khỏi nơi đó.
Nước mắt giàn giụa, Elizabeth dõi mắt theo ngôi nhà gỗ càng lúc càng nhỏ lại trong chiếc gương chiếu hậu cho tới lúc nó biến mất khi cô tới cuối con đường dài một dặm. Bỗng nhiên vai cô giãn ra và cô nhận ra mình đã nín thở suốt quãng thời gian đó.
“Đúng vậy, Ivan,” cô nói, nhìn qua gương chiếu hậu vào băng ghế sau trống rỗng, “Tôi đoán vậy là cậu sẽ đi làm cùng tôi.” Rồi cô làm một hành động kỳ quặc.
Cô cười khúc khích như trẻ con.
Hết chương 6. Chương tiếp theo sẽ được cập nhật trong thời gian nhanh nhất.