Chương 18 Đó là một ngày cuối thu, hàng cây sồi nhuộm sắc đỏ đậm như màu gạch lên quả đồi bao quanh khu nghĩa trang.
Hàng chi cử và anh đào đã rụng hết lá, con đường lớn không bóng người buồn bã và lạnh lẽo tới mức khó tìm thấy được nơi nào khác giống nơi đây. Ngày thường rất ít người tới nghĩa trang, tôi chỉ bắt gặp lác đác mấy ông già bà lão. Như thường lệ, sau một lúc lạc đường, tôi lần được đến ngôi mộ của bố.
Có một vị khách đã đến trước.
Cô ấy ngồi trên xe lăn.
Ngực tôi nóng bừng, tôi có cảm giác sức nóng ấy đang từ từ rơi xuống bao tử.
Chiếc áo choàng lông trắng và đôi bốt cao cổ màu đen. Mái tóc màu hổ phách thả ngang lưng.
Không thể nhầm được. Mặc dù năm năm nhưng ký ức của tôi vẫn chuẩn xác.
Tôi tiến đến gần, đặng cất tiếng thì nhận ra có điều bất ổn. Chưa kịp xác nhận, cô ấy đã quay lại, mỉm cười nhìn tôi.
Bên trong áo choàng lông, cô mặc áo len cổ lọ cũng màu trắng. Và trên ngực là chiếc dây chuyền. Viên thấu kính ngũ giác. Bảo bối của Karin…
“Chào em,” cô nói. Là giọng của Karin và khuôn mặt của Karin.
“Chị là…”
“Chị là Suzune. Morikawa Suzune.”
Nhìn kỹ, chị Suzune không cao lớn bằng Karin. Có cảm giác đây là Karin thu nhỏ lại một cỡ. Khuôn mặt cũng ngây thơ hơn hẳn Karin.
“Trong lúc chị ngủ, mọi thứ đều phát triển rất chậm. Cả trưởng thành lẫn lão hóa.” Chị giải thích như vậy. Đúng là trông chị ấy giống sinh viên đại học hai mươi tuổi hơn là một phụ nữ ở tuổi ba mươi sáu. “Em chẳng thay đổi gì nhỉ. Chị xem ảnh của em ở nhà chị.”
“Nhưng em đã mươi lăm tuổi rồi. Cứ mãi trẻ con thế thì…”
“Nếu em ở bên kia,” chị nói. Bên kia có lẽ ngụ ý thế giới của giấc mơ. Nhưng cách nói của chị nghe như đang ám chỉ một thị trấn nhỏ nào đó ở châu Âu. “Thì điều đó cũng không có ý nghĩa lắm đâu.”
“Thật vậy sao?”
“Ừ.”
Tôi cắm lên mộ bố bó hoa long đởm vừa mang đến. Chắp hai tay, tôi thông báo với bố cuộc gặp gỡ kỳ diệu vừa xảy ra. Sau khi thông báo xong, chúng tôi đi về phía ngôi nhà lớn được xây bằng bê tông ở phía Bắc nghĩa trang.
Tôi vừa đẩy xe lăn vừa hỏi, “Khi nào vậy?”
“Khoảng hai tháng rồi.” Chị trả lời bằng giọng quen thuộc của Karin. Dù biết đó là Suzune, tim tôi vẫn tự ý đập theo nhịp nhanh hơn bình thường.
“Bố của em,” chị nói. “Bố của em đã đưa chị quay về đây.”
“Bố em?”
Suzune khẽ gật đầu. Tắm mình trong ánh nắng mềm mại buổi chiều thu, mái tóc dài của chị ánh lên lấp lánh. Cả gò má của Suzune cũng ánh lên láng mịn như tờ giấy Kent cao cấp.
“Chị gặp bố em trong giấc mơ phải không?”
“Phải. Trong giấc mơ.”
“Karin thì sao ạ?” Tôi hỏi. Ngay từ đầu tôi đã biết câu trả lời, dù vậy tôi không ngăn được mình thốt ra câu hỏi.
“Em chị,” chị nói. “Vẫn đang tiếp tục ngủ.”
Thấy chị nhìn sang với ánh mắt lo lắng, tôi gật đầu. “Em ổn.”
“Có lẽ em chị vẫn đang ở một nơi nào khác. Chuyện Karin cũng ngủ giống như chị, mãi sau khi tỉnh dậy chị mới biết.”
Chị nở nụ cười gượng gạo với vẻ bất an. Đến lúc đó tôi mới nhận ra chị có răng khểnh. Nếu không chỉnh có khi Karin cũng có hàm răng giống thế.
Chúng tôi đến một chỗ giống như cột trụ của ngôi nhà. Năm cây cột trụ đỡ một khối khổng lồ làm từ bê tông. Khối kiến trúc trông như một con thuyền ấy rộng bằng khoảng dãy nhà mới của trường tiểu học của tôi hồi nhỏ.
Chúng tôi tìm chỗ không bị nắng chiếu và ngồi xuống ghế đá đặt ở đó. Suzune bám vào tay tôi, từ từ đứng dậy, rồi ngồi xuống chiếc ghế đá có chỗ ngồi được sơn màu trắng. Tôi cũng ngồi xuống bên cạnh.
“Cơ thể chị vẫn chưa quen,” chị nói. “Hình như chị ngủ hơi nhiều quá.”
“Đúng vậy,” tôi nói. “Giấc ngủ của chị dài quá.”
Chị vừa ngước nhìn khối bê tông trên đầu vừa nói. “Cái gì vậy nhỉ? Trông như con thuyền hướng về phía các vì sao ấy.”
“Đúng đấy. Trông giống thật.”
Chị nhìn chăm chăm vào mặt tôi một lát như để thăm dò thái độ, sau đó tiếp tục câu chuyện, “Bố của em đã đến và nói với chị, rằng ‘Đã đến lúc phải về rồi đấy’”.
“Nghe giống lời bố mẹ gọi đứa con đang chơi ngoài công viên về nhà lúc chiều tà nhỉ?”
“Đúng vậy. Nhưng thực tế cũng như thế. Vì chị vẫn là đứa trẻ lên mười quên về nhà mà.”
Suzune hướng ánh mắt xa xăm lên bầu trời như đang tiếc nhớ thế giới mà chị đã bỏ lại phía sau.
“Nơi ấy thoải mái lắm. Ở đó chị gặp rất nhiều người, được nghe rất nhiều câu chuyện. Chị lắng nghe và nhớ được lời của họ. Và rồi chị biết được sự hình thành của thế giới.”
“Sự hình thành của thế giới ấy ạ?”
“Ừ.”
Tôi im lặng chờ đợi câu tiếp theo của chị nhưng dường như Suzune không định kể gì nữa. Có vẻ thấy lạnh, chị rụt cổ và đưa tay lên má.
“Chờ em một chút nhé.” Nói rồi tôi đứng dậy và chạy đến máy bán hàng tự động ở gần đó. Tôi mua cà phê nóng và xúp ngô rồi quay lại ghế đá, đưa cà phê nóng cho Suzune rồi ngồi xuống bên cạnh chị.
“Xúp ngô?” Chị hỏi.
“Vâng. Em thích cái này lắm. Thế nên em rất thích đến mùa lạnh, vì mùa hè họ không bán loại này.”
“Như trẻ con ấy nhỉ,” Suzune nói.Giọng điệu giống Karin nên trong một phút tôi thấy vui hơn hẳn, nhưng ngay sau đó lại buồn thỉu đi.
Suzune ủ lon cà phê trong hai bàn tay và áp nó vào bụng. “Ấm quá,” chị nói, hai gò má láng mịn hơi phồng lên như một đứa trẻ. Tôi thấy băn khoăn về sự đa dạng kỳ lạ trong tuổi tác của người phụ nữ này. Rốt cuộc chị bao nhiêu tuổi đây?
Nếu nói về số tuổi từ khi sinh ra, Suzune đã ba mươi sáu tuổi. Còn hình dáng của cô gái trước mặt tôi bây giờ trông như vừa đón sinh nhật tuổi hai mươi. Thế nhưng hồi lên mười, chị chìm vào giấc ngủ và lang thang suốt hai mươi sáu năm trong thế giới của giấc mơ. Có lẽ không tồn tại cái gọi là “tuổi chính xác” ở người phụ nữ này.
Vẫn áp lon cà phê ủ trong hai tay vào bụng, nửa thân trên của Suzune từ từ rung lên. Trên ngực chị, sợi dây thấu kính ngũ giác cũng rung theo cùng một nhịp điệu. Nhận ra ánh mắt của tôi, Suzune nghiêng đầu như muốn hỏi, “Gì thế?” Nếu là Karin, chắc chắn cô sẽ hỏi “Cậu nhìn cái gì bên trong? Hay là cái bên ngoài?” Mặc dù giống nhau như chị em sinh đôi, quả nhiên họ vẫn là hai người khác biệt.
“Sợi dây chuyền thấu kính ngũ giác.”
Nghe tôi nói, chị nhìn xuống ngực mình và “à” lên một tiếng, “Vì chị nghe nói Karin lúc nào cũng đeo nó. Chị nghĩ là nếu đeo vào thì em sẽ nhận ra chị.”
“Không có thì em cũng biết mà.”
Lẽ nào Suzune không nhận ra mình có khuôn mặt giống với Karin. Thấy lạ, tôi bất giác bật cười.
“Có gì kỳ quặc sao?” Suzune hỏi.
“Không ạ, không có gì.” Tôi hỏi, và để đánh trống lảng. tôi giật nắp lon súp ngô. Tiếng động dội lại từ bức tường bê tông to hơn tôi nghĩ. Tôi đưa lon lên miệng, xì xụp uống húp ngô đã hơi nguội. Suzune thôi nhìn tôi để chuyển ánh mắt sang phía khung cảnh trông giống như một bài tập vẽ phối cảnh.
“Ông già ấy,” lát sau Suzune nói. “Đang bắt chuyện với ngôi mộ.”
Lần theo ánh mắt chị, tôi cũng nhìn thấy ông già, “À, lần nào em cũng gặp ông ấy.”
Đó là một ông già nhỏ người. Lúc nào ông cũng đi xe đạp đến, trải chiếc chiếu rơm mang theo xuống trước bia mộ và ngồi rất lâu..
“Chắc là mộ của người vợ.”
“Chắc chắn là thế,” Suzune nhìn chăm chăm vào ông già với ánh mắt êm đềm. “Nếu vậy thì vợ của ông ấy chắc chắn là ở nơi ấy.”
Tôi nhìn vào mặt Suzune. “Nơi ấy là thế giới của giấc mơ?”
“Ừ,” Suzune nói. “Ở đất nước kỷ niệm. Nơi đó, suy cho cùng là nơi đặt những kỷ niệm.”
Suzune nói rồi quay lại nhìn chằm chằm vào tôi.
Thấy tôi chớp mất tỏ vẻ không hiểu, chị thay đổi cách diễn đạt. “Mọi người đều nói rằng, ‘Người ấy đang sống trong trái tim tôi’ phải không?”
“Vâng, có nói vậy.”
“Đó là bởi vì bằng cách nào đó họ cảm nhận được về thế giới ấy.” Suzune nói và vén mái tóc đang rũ xuống má. “Kỷ niệm, ký ức, những thứ đó vẫn còn sót lại rất nhiều phải không?”
“Vâng, vẫn còn lại.”
Trong đầu tôi đột nhiên hiện lên hình ảnh quen thuộc hằng ngày… Bố khom lưng xì xụp bát mì udon.
“Chị nghĩ đó là nơi được tạo ra nhờ những ký ức.”
Một câu chuyện kỳ lạ. Nhưng nó cũng có sức thuyết phục kỳ diệu khiến ta dễ dàng tin tưởng. Là cảm xúc mà nhờ nó ta sẽ không bao giờ quên đi người ta yêu thương. Là trái tim mà ở đó ta mãi trân trọng những kỷ niệm về người đã khuất. Giống như ông già kia, vẫn trò chuyện không ngừng nghỉ với một người chắc chắn là không ở đây… Với tất cả những lý do ấy, tôi cảm giác rằng tôi có thể hiểu được.
“Thế nhưng tại sao lại có thế giới ấy?”
“Chà,” chị nghiêng đầu. “Cái đó thì chị cũng không biết. Nó là một nơi rất giống với giấc mơ, vậy nên rốt cuộc chẳng phải chính trái tim mọi người đã tạo ra nó hay sao?”
Suzune dang hai cánh tay, ngước lên bầu trời và nói, “Ước gì mình được thấy một giấc mơ thế này.” Chị mỉm cười rạng rỡ, “Trong giấc mơ ấy mọi người đều đang kết nối với nhau. Chúng ta, rồi những người trước đây đã từng sống trên con phố này, tất cả. Em không nghĩ đó là một giấc mơ tuyệt đẹp sao?”
Chúng ta không chia lìa mà đang gắn kết với nhau. Ai cũng sẽ là chất xúc tác cho hai người nào đó và cuộc đời này tràn đầy những phản ứng hóa học.
Phải chăng mọi điều là như vậy?
Yêu một ai đó, dù có mất người ấy đi chăng nữa thì ta cũng sẽ không bao giờ quên được nỗi buồn và hình bóng cũ. Nỗi buồn càng sâu thì các ký ức càng khắc mạnh vào trái tim ta và động lại như mới.
Nếu vậy thì ta không thể quên họ. Quên việc họ vẫn hiện diện. Quên việc yêu, được yêu và trao cho nhau nụ cười. Chắc chắn tất cả đều có ý nghĩa.
“Em đã hiểu tại sao chúng ta lại bị cuốn vào kỷ niệm tha thiết đến thế rồi chứ?”
Tôi gật đầu.
Tại sao chúng ta cứ hướng về quá khứ?
Có lần Karin đã bảo tôi rằng, đó là bản năng của con người. Con người là sinh vật không thể không ngoái lại phía sau. Cảm xúc “nhớ nhung” cũng đồng nghĩa với việc kiếm tìm “thời gian” xưa cũ. Yêu mọi khoảnh khắc, quý trọng cuộc đời, những ý nghĩ đó tạo nên “giấc mơ”, và giấc mơ ấy là thế giới mà những người ta yêu đang sống.
“Rất nhiều người đã truyền đạt quan điểm này cho chị. Dĩ nhiên trong đó có cả bố em.” Đến đây Suzune cắn chặt môi dưới. Chiếc răng khểnh trắng trông rất dễ thương. Nhận ra ánh mắt của tôi, ngay lập tức chị giấu hàm răng vào phía trong cặp môi. Và rồi chị ghé mặt lại gần, nói như thì thầm. “Bố em có gừi lời nhắn lại đấy.”
“Lời nhắn?”
“Ừ. Chị nghĩ vì bố em đã chân thành nhờ chị chuyển lời này đến em nên chị mới ở đây như thế này. Sức mạnh trong ý nghĩ của bố em đã đánh thức chị dậy.”
Suzune nhìn trân trối vào mắt tôi. Qua ánh mắt mạnh mẽ đó, có vẻ chị định chuyển đến tôi cả những tình cảm không thể diễn đạt thành lời. “Ông bảo rằng ông rất yêu em.”
Hốt nhiên, ống mũi tôi đau nhói. Tôi nghiến mạnh quai hàm, cố kìm nén cảm xúc đang chuẩn bị trào ra.
“Ta rất lo lắng vì đã để lại con trai ta một mình. Anh em không có, mẹ thì đã mất sớm. Ta cũng đã cố gắng nhưng chỉ dốc sức được đến đây.”
Tôi vẫn cắn răng, gật đầu.
“Ông bảo vì sinh con khi tuổi đã cao nên nâng niu quá cẩn thận, khiến con trai trở thành một người không trông cậy được. Vì lẽ đó mà ông lo lắng khi chẳng chuẩn bị tinh thần mà đột nhiên ra đi thế này.”
“… Bố em bao bọc con cái quá phải không?” Tôi nói như thì thầm bằng cổ họng cứng đờ. “Còn Yuji với Momoka mà. Em đâu có sao…”
“Cha mẹ thường như vậy, phải không?”
“Đúng.”
Suzune nhìn chăm chăm vào tôi với khuôn mặt ngây thơ, nhưng ánh mắt thấp thoáng thứ cảm xúc như người mẹ nhìn con. “Bố mẹ thường hay thiên vị con cái, nhưng quả thật Satoshi là một đứa rất tốt. Bố em nói vậy.”
“Từ xưa đã thế rồi.”
Dù tôi có mang điểm kém về nhà, bố vẫn đón nhận hệt như đó là dấu hiệu hứa hẹn thiên tài tiềm ẩn trong tôi.
“Lúc nào bố cũng đánh giá em cao quá mức.”
“Em không thấy hạnh phúc vì có một người cha như vậy sao?”
Có chứ. Chắc chắn rồi. Thế nên tôi là một đứa trẻ hạnh phúc. Dù tôi lập dị, không giỏi giao tiếp xã hội, không có gì đặc biệt gọi là ưu điểm thì tôi vẫn là một kẻ hạnh phúc. Vì bên cạnh tôi có người công nhận một tôi như thế.
Tôi nhớ lại buổi tối cuối cùng ở cùng bố. Đó là ba ngày trước khi bố tôi chạy sang “thế giới bên kia.”
Và quả nhiên là đêm ấy tôi lại cùng bố ăn món mì udon nấu nhừ ở chung cư.
Tôi không nhớ rõ vì sao chúng tôi nói chuyện này, nhưng giờ ngẫm lại, có lẽ bố đã có linh cảm về vận mệnh của mình.
“Ta xin lỗi,” bấy giờ bố nói.
“Gì cơ ạ?” Tôi hỏi.
“Về hiện trạng của anh bây giờ. Về hiện trạng một thanh niên tử tế tuổi ngoài ba mươi và người bố ngoài tám mươi gặp mặt nhau vào tối cuối tuần, cùng xì xụp món udon.”
“Có gì đâu ạ,” tôi trả lời. “Con có cơ hội thư giãn, mà mì udon cũng ngon. Như thế này là được rồi đấy chứ ạ.”
Thật ra thì đây cũng chẳng phải là cuộc sống mà tôi mong muốn. Là đứa con trai duy nhất mà tôi chẳng thể thực hiện giấc mơ của bố mẹ. Chưa bao giờ tôi hỏi giấc mơ đó là gì, chỉ chắc chắn một điều rằng, bố mẹ không mong đợi hình ảnh hiện tại của tôi.
Bố nói, “Anh dễ thương lắm, dễ thương không chịu được. Chưa bao giờ ta nghĩ việc có con lại làm ta xáo động nhường này. Vì quá hạnh phúc nên có lẽ ta đã quên mất trình tự đúng của nó. Ta chẳng giơ tay ra đánh, cũng chẳng mắng nhiếc nặng lời. Chắc chắn ta cũng không thể làm được điều đó.” Bố khẽ lắc đầu. “Giờ nghĩ đến tim ta vẫn đau. Hình ảnh anh vừa lắc cái mông phồng lên vì bỉm vừa chạy quanh phòng. Chuyện như vừa hôm qua. Ta thấy hạnh phúc đến chết đi được. Ta nghĩ thế này chẳng phải mình đã sung sướng quá mức được hưởng rồi hay sao? Một người đàn ông như thế làm sao giáo dục con cái cho được. Tất cả mọi điều anh làm ta đều thấy tuyệt vời. Anh là đứa trẻ đẹp nhất thế giới, là cậu bé thông minh nhất thế giới và có tâm hồn dễ mến nhất thế giới.”
“Thế nhưng,” tôi nói. “Nhờ điều đó mà con mới hạnh phúc. Con biết ơn bố lắm. Con nghĩ nếu con bị nói này nói kia như những nhà khác thì quá khổ.”
“Nhưng chưa biết chừng ta đã bóp chết cái gọi là khả năng của anh.”
Như vậy nghĩa là sao?
“Hồi đó những lời ta nói với anh cũng không nhiều lắm.”
Ừm, đến giờ tôi vẫn còn nhớ. Những lời bố nói là những lời răng dạy vô cùng đơn giản. Dù không ăn được những đồ ngon cũng không sao. Không cần thiết phải ăn vận đắt tiền. Luôn phải sạch sẽ. Hãy làm những việc làm người khác hạnh phúc. Luôn phải nhã nhặn.
Chắc chắn những người lớn hồi xưa đều nói giống hệt nhau. Tôi lớn lên theo cách đó, và giả sử nếu tôi có con hẳn là tôi cũng sẽ dạy chúng những lời như vậy.
“Thời đại bây giờ, đặt trong thế giới ích kỷ, những lời đó sai bét phải không? Đôi khi ta cũng băn khoăn. Rằng liệu thế này có được không?”
“Đâu có sai ạ.”
Nhờ nghe theo những lời dạy của bố mà tôi sống một cách an lành. Tôi thấy thoải mái. Ít nhất là cách sống này hợp với tôi. So với những người đàn ông khác thì cuộc sống của tôi quá đỗi đơn giản, nhưng đây là phong cách của tôi. Tôi không có duyên với những chuyến du lịch cuối tuần hoành tráng, không sở hữu những thiên tình sử với phụ nữ đẹp, nhưng tôi cũng chẳng thấy ước ao. Vì vậy mà tôi biết ơn bố. Tôi thấy mình may mắn vì được làm con của bố. Chẳng phải lúc nào bố cũng công nhận tôi hay sao? Chẳng phải dù tôi là đứa con chẳng làm đuộc điều gì khiến bố mẹ tự hào thì bố vẫn tiếp tục bảo rằng “Con đã cố gắng đấy, cừ lắm” hay sao? Dù tôi có là đứa con vô tích sự thì bố vẫn ở bên tôi tới tận bây giờ với tình yêu thương vô bờ bến. Chỉ cần như thế là quá đủ. Còn điều gì cần hơn thế nữa?
“Vậy nên,” tôi khẳng định. “Bố không cần phải nghĩ ngợi thế đâu. Như thế này là được rồi. Với con như thế này là rất ổn.”
Thấy tôi buông lời chắc nịch như thế, bố nở nụ cười thấp thoáng chút buồn rồi lặng im ngồi nhìn tôi.
“Hẳn là như vậy,” tôi nói. “Vì là con của bố nên em mới hạnh phúc.”
Suzune cười dịu dàng, khẽ gật đầu, “Bố em còn nói thế này nữa.”
“Sao ạ?”
“Nhất định ta sẽ đưa công chúa Ibara trở về.”
Chị ghé sát mặt và nhìn vào mắt tôi. Quả nhiên là đồng tử của chị cũng mang màu như màu lông chim, “Bố em hứa nhất định ông sẽ tìm ra và mang công chúa trở về bên em.”
“Vậy, bố em…”
Suzune gật đầu rồi hỏi “Em có chờ không? Có thể sẽ mất nhiều thời gian lắm đấy.”
“Em sẽ chờ,” tôi trả lời. “Nói sao nhỉ, em rất giỏi đợi chờ. Em đã đợi năm năm, đến giờ cũng không có gì đau khổ cho lắm.”
“Cho dù em sẽ phải đợi tiếp năm năm nữa?”
“Vâng. Không phải em có niềm tin vững chắc nhưng mà… có lẽ… Vả lại, không hẳn là em chờ đợi trong mơ hồ phải không? Bố đã hứa với em rồi mà. Bố là một người biết giữ lời hứa.”
“Cũng phải,” Suzune nhoẻn miệng cười. “Có lẽ trái tim của người cha luôn nghĩ về con sẽ làm được bất cứ điều gì phải không?”
Chúng tôi đi bộ trên con đường lớn có hàng cây anh đào. Không gian tĩnh lặng. Hai chúng tôi hệt như hai người duy nhất trên biển mặt trăng.
“Lời nhắn cuối cùng của bố em là thế này.” Suzune nói. “Ta rất hạnh phúc. Ta có người vợ yêu và con trai, có được niềm hạnh phúc tràn trề. Và rồi ông nói thế này. Ta muốn con nói với con trai ta một câu mà ta không dám nói chỉ vì ăn nói kém cỏi… Ta yêu lắm. Từ trái tim ta yêu anh lắm. Ta yêu lắm… Ông nhắc đi nhắc lại ba lần như thế.”
Suzune khẽ khàng khoác cánh tay mình vào tay tôi. Chị giả vờ như không nhận ra những giọt nước mắt của tôi.
“Nếu con gặp con trai ta,” chị nói. “Thì lúc đó… lúc đó hãy cho ta gửi lời hỏi thăm đến nó. Đó là lời nhắn cuối cùng.”
“Vâng,” tôi nói. “Vâng. Con đã nhận được lời nhắn của bố. Cảm ơn bố. Con thực sự cảm ơn. Cảm ơn bố…”
Câu chuyện vẫn còn tiếp diễn. Đây là câu chuyện của tôi và cũng là câu chuyện của những người đã tạo ra phản ứng hóa học mà trong đó tôi là chất xúc tác.
Cho dù tôi có lìa xa thế giới này thì câu chuyện vẫn sẽ không kết thúc. Tất cả sẽ tiếp diễn nhờ mối tương tác với các phản ứng hóa học… yêu thương, ghen tuông và rồi lại yêu thương.
Bốn tháng sau khi Suzune tỉnh lại, cha mẹ chị bắt đầu trở về sống cùng nhau. Họ bảo giờ chẳng cần đăng ký kết hôn nữa nên cả hai vẫn tiếp tục lấy họ khác nhau. Suzune cũng sống cùng bố mẹ khoảng một năm, nhưng chẳng bao lâu sau, như bào tử leo lắt ngoài gió, chị đi đến một đất nước khác.
Trước khi chị đi chúng tôi có hẹn gặp vài lần. Có lần chúng tôi cùng đi ăn buffet bánh ngọt. Giống như Karin, Suzune cũng ăn hết veo mười loại bánh ngọt. Giả sử Linus vẫn còn làm ở quán đó, có lẽ khi nhìn thấy Suzune cậu ấy lại nhớ về chị gái mình. Nhưng Linus đã rời khỏi đây được ba năm rồi. Cậu ra đi đột ngột nên chẳng ai biết cậu đi đâu. Cũng có người bảo rằng cậu đã về nước. Nếu vậy thì có khi cậu đã cắt đứt sự rung động với chị gái mình rồi cũng nên. Tôi chợt nhớ lại câu nói “Xa cách lâu ngày sẽ dặp tắt tình yêu” của Mỉabeau mà Linus trích dẫn.
Thế nhưng Linus này, tình yêu của anh vẫn chưa có vẻ gì là xa cách cả. Tại sao lại thế nhỉ?
Suzune thường viết thư cho tôi từ nơi chị ở. Khi thì từ Myanmar, ki thì từ Pakistan, tức là cứ mỗi lần thư đến lại có dấu bưu điện khác nhau. Chị trôi dần về phía Tây theo cơn gió mậu dịch. Bưc thư cuối cùng tôi nhận được đến từ Ai Len, tức là chị cũng đi khá xa. Mỗi lần nhận được thư chị tôi lại nhớ đến chị gái của Natsume. Tôi thường nghĩ rằng đến một lúc nào đó cả hai người lại gặp nhau cũng nên. Trên con phố ở Santiago vùng Nam Mỹ chẳng hạn.
“Gửi Satoshi yêu thương,” chị luôn mở đầu như vậy. Tôi rất xấu hổ nhưng đến giờ thì tôi cũng quen. “Em gái chị đã trở về chưa? Hay em vẫn một mình?” là câu chắc chắn chị sẽ hỏi. Trong những bức thư đầu mùa đông không bao giờ thiếu được câu, “Lại đến màu xúp ngô rồi nhỉ! Năm nay em đã ăn chưa?”
Hai năm sau khi Suzune rời Nhật, tôi mở rộng tầng hai cửa hàng. Tôi dùng số tiền bán chung cư của bố, nới rộng bếp và làm lại phòng tắm, phòng vệ sinh. Tôi còn dưng thêm một phòng nữa và dọn sang đấy ngủ, phòng có kê một chiếc giường rộng, để trống một chỗ bên cạnh dành sẵn cho Karin.
Tôi định dùng phòng cũ làm phòng trẻ sau này nên đã thay giấy dán tường sang màu xanh dương. Hễ rảnh là tôi đến cửa hàng tạp hóa sắm dần đĩa, cốc để Karin có thể sử dụng bất cứ lúc nào.
Một năm sau khi sửa nhà, tôi mua một chiếc bàn cổ để đặt trong bếp. Trước giờ tôi vẫn ngồi ăn bên chiếc bàn gấp tròn nhỏ. Tôi đem bức ảnh bên hồ lấy từ chung cư của bố về, lồng vào khung ảnh thủy tinh và đặt trên chiếc bàn mới.
Trên mặt bàn gỗ sồi đơn sơ già cỗi, tôi và Karin hồi mười bốn tuổi đang cười đùa vui vẻ. Ngày nào tôi cũng bắt chuyện với Karin trong ảnh. Đại khái là những câu chuyện tầm phào thường nhật chẳng đâu vào đâu.
Vừa uống lại trà 313 (kết hợp giữa hồng trà Ceylon, quả tầm xuân và sả) hay lọa 421 (kết hợp giữa tinh chất cúc La Mã, oải hương và hoa hồng) và vẫn phồng mang trợn má ăn bánh Chocolate Danish, tôi vừa báo cáo với cô bé mười bốn tuổi cười kho dụng cụ nẹp răng những chuyện chẳng hạn như “Hôm nay có người khách mua những một trăm cây diệp tài hồng cơ đấy,” hay “Vợ chồng nhà cá sóc lại vừa sinh con.”
Tôi từng định đến gặp Karin đang ngủ thay vì nhìn ảnh nhưng rồi tôi lại đổi ý. Vì tôi sợ điều kìm nén trong lòng bấy nay sẽ lập tức vỡ òa.
Cửa hàng vẫn thế. Việc kinh doanh của tôi chẳng thẻ hóa thành thiên đường của sở thích, mặc dầu vậy, dường như vẫn chưa đến ngày tuyệt chủng của nhữn người yêu thích thủy sinh. Nhờ hệ thống bán hàng qua mạng hoạt động khá khẩm, tôi cũng rủng rỉnh hơn hồi xưa đôi chút. Tôi dùng một phần số tiền bán chung cư để trả nợ, mỗi khi đến hạn phải trả tiền cuối tháng, bao tử tôi không còn bị đau như trước nữa.
Okuda vào làm thay Natsume được sáu năm thì mất sức lao động nên buộc phải nghỉ việc. Vì ăn quá nhiều đồ béo vị bơ lạc mà cân nặng của cậu ta khi ấy lên đến 120 kilôgam. Trong thời gian nghỉ dưỡng, cậu ta tiếp tục ôn thi và sau năm lần thử sức đã đỗ vào trường đại học mơ ước. Khi tốt nghiệp, Okuda đã ngoài ba mươi tuổi, nhưng về trọng lượng cơ thể, cậu ta đã thành công trong việc giảm xuống dưới mức một trăm cân. Sau lễ tốt nghiệp, chúng tôi có đi ăn cùng nhau, đến lúc đó cậu ta vẫn còn nghiêng đầu thắc mắc, “Chắc là chị nhân viên hồi ấy không phải Morikawa Suzune đâu nhỉ…” Tôi dự định khi Karin trở lại sẽ để hai người đó gặp nhau nhằm gây ngạc nhiên cho Okuda, tuy nhiên trước khi sự thực được công khai thì một thời gian dài đã trôi qua.
Không biết từ khi nào, ông giáo sư trường đại học nghiên cứu về tiêu thảo dài lá hẹp đã không còn đến cửa hàng nữa. Khách hàng quen và nhân viên cũng thay đổi theo thời gian. Tôi có cảm giác như chỉ mình tôi vẫn quanh quẩn một chỗ, đơn thuần lặng ngắm dòng người đi ngang qua. Hằng ngày tôi vẫn đóng gói thủy sinh, buổi trưa ăn pasta hoặc Chocolate Danish và chạy 400 mét ở sân vận động gần nhà vào những buổi chiều rảnh rỗi.
Một hôm, biết bộ phim Tarantella ra DVD, tôi quyết định mua về xem.
Đó là một bộ phim rất lạ. Không có cốt truyện đúng nghĩa, chỉ là câu chuyện tình yêu của một đôi trai gái được miêu tả một cách đồng đều. Tarantella hình như là một vũ khúc nhịp nhanh, trong đó có cảnh diễn viên nam chính (anh chàng này cũng xuất thân người mẫu, đáng ghét là hắn ta lại đóng vai người yêu của Karin) đã nói với Karin thế này, “Nếu bị nhện độc cắn, anh sẽ nhảy Tarantella. Đó là cách chữa trị duy nhất.” Hai người yêu nhau quên cả ngủ (đoạn này tôi thấy hơi buồn cười) để trò chuyện thâu đêm suốt sáng. Họ trao nhau những lời nói với giai điệu 6baa êm ái như bản nhạc sáu điệu trong vòng tám phút. Cảnh phim có yếu tố gợi dực nhưng được tiết chế tối đa trên phim, không sử dụng những biểu hiện trực diện, chỉ đến mức cử động đầu ngón tay hay kiễng đầu ngón chân, còn lại để người xem tự tưởng tượng. Điều này làm tôi thấy phần nào nhẹ nhõm.
Karin trong phim đẹp đến mức khó tin, chỉ nhìn thấy thôi tôi đã ngập tràn hạnh phúc. Sau một hồi xem đi xem lại, tôi gần như thuộc lòng cả lời thoại. Và thế là có lúc tôi thử hóa thân thành người yêu của cô, đọc lời thoại với màn hình vô tuyến.
“Anh này, anh không thấy thề thốt lời yêu vĩnh cửu là quá dễ dàng hay sao?” Cô nói.
“Sao lại thế?” Tôi gặng hỏi.
“Vì dù nói là vĩnh cửu nhưng cũng chỉ có năm mươi năm thôi mà, phải không?”
“À, đúng là thế.”
“Sự vĩnh cửu dễ dàng quá phải không?”
“Lẽ nào như vậy được?”
“Nếu con người sống ít nhất là một trăm tuổi thì em cũng muốn được nghe những lời thề ấy.”
“Chúng ta nên thề những câu như thế nào đây?”
“Em không cần từ ngữ nào hết,” Karin nói. “Hãy cho em những nụ hôn của năm mươi năm.”
Người hôn cô đương nhiên là người đàn ông trong phim. Nhưng cả tôi cũng phần nào được thưởng thức cảm giác. Nói gì thì nói, tôi cũng là người đầu tiên và người cuối cùng hôn cô.
Công việc của Natsume dần phát triển. Cửa hàng hương liệu do công ty nhập khẩu của cậu trực tiếp quản lý được khai trương trong một bách hóa lớn trên một con phố lớn và làm ăn rất phát đạt. Tên của của hàng vẫn là “S”. Cậu bận rộn bay khắp thế giới nhưng thi thoảng vẫn ghé thăm cửa hàng tôi. Có lần tôi vô tình hỏi, “Về tên ‘S’ của công ty Natsume ấy…”
“À, cái tên đó anh thấy lạ phải không?”
“Đúng là lạ. Vậy…”
“Em đặt cái tên đó nhờ gợi ý từ một đặc trưng trên cơ thể Misaki.”
“Quả nhiên là vậy.”
“Quả nhiên?”
“À không, ừm, chữ S trong chữ ‘small’ vì cô ấy nhỏ hả?”
Không hiểu sao tôi thấy khó mà nói ra việc mình để ý những nốt ruồi ở sau gáy Misaki.
“Không phải đâu. Đó là bởi vì ở sau gáy của cô ấy có ba nốt ruồi xếp dọc.”
“Ừ.”
Quả nhiên là như vậy.
“Thế nên em bèn nhớ đến chòm sao Orion với ba ngôi sao nhỏ mà ai cũng biết đấy, chữ S là chữ cái đầu của ‘Sword of Orion’ anh ạ.”
Tôi bảo “à,” rồi thêm “Thế hả?” Ra là vậy. Ra là có ba ngôi sao như thế. Cậu ấy bảo “ai cũng biết đấy” thì chắc nó nổi tiếng lắm.
Tôi nghe văng vẳng giọng Yuji, “Cậu có biết không? Trên đời này những điều chúng ta không biết nhiều gấp một triệu lần những điều chúng ta biết.”
Có vẻ như vậy thật.
Nói tóm lại, ngày tháng của tôi trôi qua như thế. Tôi không quá đau khổ nhưng cũng không hạnh phúc đến mức cười sảng khoái. Nếu đặt những tháng ngày niên thiếu mà ba con người và một con vật trải qua bên nhau ở ngăn trên cùng, đặt cái ngày mà bố mẹ tôi lìa xa thế giới này ở ngăn dưới cùng thì tôi luôn ở đâu đó giữa hai khoảng ấy.
Ngày tôi tạm biệt Karin lần thứ hai có chút phức tạp. Niềm vui và nỗi buồn bị nhét chung vào một tổ, mỗi lần nhớ lại đêm hôm ấy, trong tôi chỉ cảm thấy một cơn đau tim dồn dập không rõ hình thù.
Ba năm sua ngày Karin chìm vào giấc ngủ, Yuji và Momoka sinh em bé. Họ vẫn sống trong phòng 202 ở khu nhà cũ và đều không có ý định chuyển chỗ ở dù sắp sinh con. Sau khi biết tin Momoka mang thai, hai người họ đã đăng ký kết hôn nhưng không làm lễ cưới, bảo là lãng phí tiền bạc. Tại Forest, nhân viên cửa hàng tôi, nhân viên cửa hàng của Momoka và ba người chúng tôi mở một buổi tiệc nhỏ thay cho tiệc cưới. Momoka không còn cha mẹ nên đó cũng là khỏi đầu của một “gia đình” mà cô ấy hằng mơ ước.
Cô con gái của họ vô cùng dễ thương, Yuji đặt tên cho cô bé là “Karin”. Momoka cũng nói rằng chẳng nghĩ ra được cái tên nào hay hơn.
“Tớ đã được Karin cứu mạng hai lần. Việc tớ lấy tên cậu ấy đặt cho một sinh linh mới sắp chào đời chẳng phải là điều đương nhiên sao? Với lại,” Yuji nói và nhắm một mắt. “Nếu con gái chúng tớ trở thành một thiếu nữ cao ráo như Karin thì thật là tuyệt.”
Có lẽ xác suất là một phần hai. Momoka khá cao nhưng Yuji thì ngay cả khi trưởng thành, dáng người cậu ấy vẫn ở mức mặc vừa trang phục thiếu niên. Thế nên tâm trạng lo lắng cho tương lai của con gái là điều rất dễ hiểu.
Tôi trở thành cha mẹ thứ ba của bé Karin. Bất cứ thứ gì cô bé thích tôi đều mua tặng nhằm bù đắp khoảng thời gian ít ỏi gặp nhau. Khi cô bé biết đi, tôi dẫn đến Forest chiêu đãi món kem hoa quả đặc biệt. Hình ảnh Karin đưa miếng kem tươi lên miệng với vẻ mặt căng thẳng như đang đối mặt với sứ mệnh trọng đại nhất cuộc đời, là khoảnh khắc khiến tim tôi xao xuyến. Lúc ấy tôi lại nghĩ, có lẽ bố cũng đã ngắm nhìn chúng tôi có cảm xúc như thế này.
Cũng có lúc tôi thấy sự trùng hợp của hai Karin trong lời nói và cử chỉ. Ăn xong kem, tôi luôn hỏi cô bé thế này, “Vị của giấc mơ thế nào?”
Ngay lập tức, giống nhau một cách kỳ lạ, Karin bé nhỏ trả lời với cái miệng còn ngắn lưỡi, “Ngọt lắm…”
Thú tiêu khiển này lại bị cả bố lẫn mẹ cô bé chỉ trích.
“Tớ không muốn cho con bé nhớ những thứ xa xả,” Yuji phàn nàn.
“Có gì to tát đâu,” tôi phản đối. “Là kem hoa quả thôi mà. Hồi trước bố tớ chẳng chiêu đãi bọn mình suốt còn gì?”
“Cơ mà, hồi đó thì khác.”
“Đúng là thời đại có thay đổi nhưng…”
“Không phải thế,” Yuji bảo. “Kem hoa quả hồi đó chỉ có 370 yen. Còn loại kem mà Satoshi cho Karin ăn bây giờ lên đến 1200 yen đấy. Cứ cho là lạm phát đi chăng nữa thì cũng quá cao cấp.”
Thấy tôi làm bộ mặt đáng thương của một ông bố nuôi bị giật mất niềm hạnh phúc, cuối cùng Yuji cũng bỏ qua.
“Thôi được rồi,” Yuji dịu lại. “Nhưng từ lần sau cậu chỉ được mua loại kem 500 yen bình thường thôi nhé.”
Dĩ nhiên là tôi lờ đi lời hứa đó. Tôi đúng là một ông bố dại dột điển hình mà.
Yuji trở thành một họa sĩ khá có tiếng. Tuy nhiên, không có nghĩa cuộc sống của cậu lập tức trở nên nhàn hạ. Sau khi sinh Karin, Momoka vẫn tiếp tục là nhân viên ở cửa hàng tạp hóa bán đồ nhập khẩu trong khu nhà ga như trước đây. Vậy nên tôi thường trông Karin, dẫn cô bé tới khu vui chơi giải trí hay công viên. Khu vui chơi giải trí ngày thường vắng bóng người nên hầu như lúc nào chúng tôi cũng một mình một vòng đu quay khổng lồ. Karin thích vòng đu quay lắm. Cô bé vô cùng hiếu kỳ và tham lam muốn biết mọi thứ trên đời.
“Sao lại thế?” là câu cửa miệng của con bé Karin. Hầu như lần nào cũng vậy, lên vòng đu quay là cô bé hỏi, “Sao mọi người bên dưới lại nhỏ thế ạ?”
“Vì bố con mình ở xa nên nhìn thấy bé lại.”
“Sao lại thế?”
“Bởi vì ở xa mà cứ to thế thì phiền lắm phải không?”
“Sao lại thế?”
“Con không thấy là lúc chia tay thì bất tiện lắm sao? Vừa vẫy tay chào vừa đi về phía xa, nếu nó chẳng bao giờ bé lại thì ta đâu có biết khi nào nên dừng vẫy tay, phải không?”
Sao lại thế?
Tình trạng này cứ tiếp diễn mãi. Tôi có niềm tin vững chắc rằng cô bé sẽ trở thành một đứa trẻ thông minh.
Khi con Trash đệ nhị qua đời, Karin vẫn chưa biết nói. Cô bé chỉ ngước lên nhìn chúng tôi và hỏi bằng ánh mắt to tròn, “Sao lại thế?”
Quả nhiên Yuji đã khóc. Cậu bỏ cặp kính ra, vừa to tròn nắm tay dịu mắt vừa khóc, rồi hỏi như để xác nhận. “Nhưng nỗi buồn này cũng có ý nghĩa mà, phải không?”
“Ừ, chắc chắn là vậy. Nỗi buồn càng sâu thì nhữngký ức của bọn mình về nó càng mạnh.”
“Tớ không quên nó đâu,” Yuji bảo.
“Tớ cũng không quên. Vì nhớ là điều duy nhất mà những người ở lại có thể làm.”
Lễ khai giảng tiểu học của Karin cũng có mặt tôi. Tôi mặc vest tử tế, ngồi vào hàng ghế phụ huynh và quan sát cô bé đang căng thẳng bước vào nhà thể chất.
Cùng năm ấy, chúng tôi nghe tin mẹ Yuji qua đời vì bệnh. Yuji không nói gì. Dù không để lộ đau buồn, nhưng tôi biết chắc chắn Yuji đã có những nhìn nhận riêng. Không hẳn là tất cả các sợi dây liên kết giữa người và người đều diễn ra suôn sẻ. Chúng ta đang sống giữa rất nhiều phản ứng hóa học và tác dụng tương tác, nhưng những thứ mới được sinh ra từ đó lại mang rất nhiều hình dạng, từ tuyệt vời nhất cho đến xấu xa nhất. Không hẳn tất cả đều kết thúc trong đại đoàn viên. Cũng có rất nhiều kết thúc mà kỳ vọng hóa thành vỡ mộng, chệch hướng và không thể lý giải nổi. Nhưng có lẽ, như vậy mới gọi là hiện thực.
Có lần, tôi hỏi Yuji, “Thực sự thì với Yuji, Karin là một người thế nào?”
Trên bờ hồ trong công viên, Momoka và bé Karin đang cho ngỗng ăn vỏ bánh mì. Yuji tháo cặp kính gọng đen thô kệch và gãi khóe mắt sồn sột, “Tớ thích cậu ấy.”
“Ừ.”
“Tớ đã yêu cậu ấy. Đó là điều cậu muốn hỏi phải không?”
“À, ừ, đúng rồi.”
“Tớ đã yêu cậu ấy suốt. Vì đâu có mấy ai xinh như cậu ấy phải không?”
“Đúng vậy.”
“Tớ đã ngạc nhiên lắm. Rằng sao mình lại có cảm giác này? Tầm tớ vào cấp hai ấy, thế giới đột nhiên thay đổi.”
“Ừ.”
“Nhưng, thế này gọi là tìn cảm một phía từ tớ đúng không? Vì tớ nghĩ là nó chỉ khiến Karin thêm phiền phức nên tớ đã im lặng.”
“Nhưng mà…”
“Dù sao Karin cũng vẫn còn là trẻ con. Tớ phát triển sớm hơn cậu áy. Bởi cũng chẳng còn cách nào khác. Những điều này đều có thời điểm cả đấy.”
“Ừ.”
“Hoặc là, nếu suy nghĩ theo thuyết định mệnh thì có lẽ người dành cho Karin không phải là tớ. Đến lúc Karin quyết định mở cửa sổ, thì xuất hiện ngay trước mặt lại là Satoshi. Cũng có khi dù ta mến thích nhiều thế nào, dù ta có ở gần đến bao nhiêu thì cũng chẳng nên công cán gì cả.”
Tôi nghĩ là tôi đã chờ câu nói này. Đây là cơ hội để tôi có thể đưa ra lời tạ lỗi mà tôi đã không dám nói. Nếu là một gã đàn ông linh hoạt hơn một chút, có lẽ tôi đã làm điều này sớm hơn. Thế nhưng với tôi đây đã là hết mức có thể.
“Yuji…”
Cậu giơ tay như muốn ngăn tôi lại.
“Nếu như cậu cảm thấy dằn vặt vì tớ thì điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.” Bởi vì, Yuji tiếp tục. “Tình yêu là như vậy đúng không? Chẳng hạn môn chạy 400 mét ấy, nếu luyện tập hằng ngày thì cậu sẽ đạt được mục tiêu; hoặc hoa trồng trong bồn, nếu được tưới nước đầy đủ thì sẽ nở rộ. Nhưng tình yêu lại khác. Vì nó cần tác dụng tương tác, nên chỉ một người cố gắng thôi sẽ chẳng làm được gì cả. Có lẽ nó phải trải qua một quá trình phức tạp. Tình yêu luôn là một điều vô lý phải chăng là bởi tác dụng tương tác phức tạp ấy?”
Thấy tôi không nói được gì, Yuji toét miệng cười. Khuôn mặt cười không đeo kính của cậu trông rất giống điệu cười của cô con gái nhỏ.
“Bây giờ tớ vẫn thích Karin, nhưng tớ còn thích Momoka nhiều hơn. Đó mới gọi là tình yêu nhỉ? Lúc tớ nhận ra thì bọn tớ đã ở bên nhau rồi. Thậm chí bọn tớ còn có con. Tuyệt vời đấy chứ?”
“Ừ, tuyệt vời lắm.”
“Chà, thế nhưng,” Yuji nói, chiếu mắt kính vào phía ánh nắng. “Đôi khi nỗ lực cũng không phải là tồi.”
“Nếu cậu đang nói về tớ thì sai rồi. Tớ chẳng nỗ lực gì cả. Đây là tính cách ăn vào máu tớ rồi.”
“Ừ,” Yuji gật đầu. “Tớ nghĩ cậu sẽ nói vậy. Đó cũng lại là tình yêu đấy.”
“Phải, đây cũng là tình yêu mà.”
Con phố dần thay đổi hình dáng.
Tòa nhà ga được sửa sang khá nhiều, thay vào đó là một bách hóa nhà ga hoành tráng. Cứ mỗi lần ngắm vẻ ngoài lấp lánh đó, tôi lại thấy tòa nhà ga nhỏ nhắn ngày xưa sao mà lạ lắm. Chẳng còn cửa soát vé nơi Misaki lỡ ba chuyến tàu điện vì trò chuyện với tôi. Hôm ấy Misaki mặc chiếc váy liền màu kem. Tôi nhớ ra được chi tiết đó nhưng lại quên sạch chúng tôi đã nói với nhau những gì.
Điều tôi nhớ là mắt Misaki mang màu hạt dẻ hay màu be gì đó, nói chung là một màu sáng như thế. Khi đó tôi đã nghĩ là nó giống với màu mắt của Karin. Tôi đã rất vui. Ở bên Misaki tôi thấy vui lắm, bấy giờ tôi đã ước giá như đêm nay kéo dài mãi mãi.Tôi mới hai mươi chín tuổi, thế giới đang lấp lánh giống như màu mắt của Misaki. Về độ tuổi thì chúng tôi vẫn còn trẻ đến mức vô tư, xét ở nhiều nghĩa, chúng tôi vẫn còn là trẻ con. Thế giới dịu dàng như một chiếc nôi và phương diện tàn khốc, khắc nghiệt thì được che giấu một cách tài tình.
Một đêm đầy phép thuật. Cho đến giờ mỗi khi nghĩ về đêm hôm ấy, tim tôi lại hơi nhói đau.
Phải rồi, tôi quên kể một điều quan trọng.
Tin nhắn Karin để lại. Nó được giấu trong chương trình để thao tác bán hàng trực tuyến mà tôi đã nhắc đến lúc trước.
Cái này được gọi là trứng phục sinh thì phải. Không phải thứ cầu kỳ bắt mình chạy quanh tìm kiếm, nhưng cũng được đầu tư khá công phu. Đó là một chương trình hẹn giờ, vào đúng buổi trưa ngày sinh nhật tôi, nó đột nhiên hiện lên màn hình máy tính.
Thoạt trông thấy, tôi thực sự bất ngờ. Một kẻ gà mờ máy tính như tôi đã đinh ninh rằng cái máy bị hỏng.
Thoạt tiên màn hình tối đen lại, âm nhạc nổi lên. Vì quá lo lắng nên tôi không phát hiện ra ngay, sau khi nghe kỹ tôi mới nhận ra nó là bài Funiculi Funicula.
Tiếp đó, trong khung cảnh đen ngòm, hình người được vẽ bằng những chấm trắng hiện lên từ phía góc phải màn hình. Người đó vẫy tay hòa theo tiếng nhạc, vừa đi vừa nhất đùi lên cao. Tiếp theo sau là một người bằng chấm trắng nữa. Sau khi tất cả xuất hiện trên màn hình là ba con người và một con vật.
Ra là vậy. Cuối cùng đến tôi cũng nhận ra. Đây chắc hẳn là trò của Karin.
Ở giữa là (người chấm trắng mà tô đồ là) tôi, Karin đứng bên trái (tóc dài, mặc áo khoác), bên phải là Yuji (trông nhỏ hơn hẳn và hình như là đeo kính), bên cạnh đó là con Trash (trông giống sinh vật khó định hình ở hành tinh khác). Bỗng, đột ngột, Yuji bắt đầu hát Happy Birthday với giọng the thé kỳ lạ như hít phải khí heli. Bài hát có hòa âm đàng hoàng, Yuji chấm trắng giơ hai tay lên cao, gập cong lưng lại và hát nhiệt tình. Karin chấm trắng cầm cục bông trong tay từ bao giờ, cô phất lên và vẫy thật mạnh. Lát sau bài hát kết thúc, tôi nghe thấy tiếng “Happy Birthday, Satoshi!”, pháo giấy nổ giòn giã bắn chi chít màn hình. Con Trash chấm trắng nãy giờ chỉ cất giọng “Huýt!”
Karin vừa ôm Satoshi vừa nói, lời nói được viết trong khung hiện lên trên đầu cô. “Chúc mừng sinh nhật cậu, Satoshi. Cuối cùng cậu đã ba mươi tuổi rồi nhỉ? Tớ luôn cầu mong hạnh phúc đến với cậu. Hạnh phúc của tớ là thấy cậu và Yuji thực hiện được giấc mơ và sống hạnh phúc. Tớ tặng cậu nụ hôn đong đầy tình bạn để trong năm nay cậu sẽ ngập tràn hạnh phúc nhé. Chiuuuuuuuuuuuuu!!”
Và rồi Karin chấm trắng nhảy chồm lên với một lực mạnh đến mức suýt thì làm gãy xương sườn Satoshi chấm trắng và trao một nụ hôn nóng bỏng.
Lời thoại trên màn hình cuộn tròn, câu cuối cùng hiện lên. “P.S. Cậu phải cảm ơn mẹ cậu đàng hoàng đấy nhé. Hôm này là ngày mẹ cậu đã sinh ra cậu mà. Cậu còn nhớ chứ?”
“Dĩ nhiên rồi,” tôi thì thầm với màn hình. “Tớ vẫn còn nhớ. Cảm ơn cậu, Karin. Lần đầu tiên tớ nhận được món quà sinh nhật tuyệt vời thế này. Dù chỉ là nụ hôn tưởng tượng của cậu nhưng có vẻ như một năm tới đây của tớ sẽ rất hạnh phúc.”
Món quà đó hằng năm đều tới. Do đời máy cũ, tôi đã đổi máy tính dùng cho công việc mấy lần nhưng riêng phần mềm này thì tôi sao chép lại cẩn thận. Động tác và lời nói của các nhân vật mỗi lần đều thay đổi một chút nên tôi luôn mong mỏi đến ngày sinh nhật để xem năm nay sẽ là nhân vật hoạt hình nào. Đến tuổi này rồi mà vẫn còn mong chờ đến ngày sinh nhật, thật là hay ho quá đi!
Hôm nay, sau khi đóng cửa hàng, tôi lại xuống quán anh Nguyễn ăn tối. Ăn đêm thì đúng hơn. Một đêm rất lạnh. Hàng cây ven đường dốc xào xạc theo gió. Nghe cũng hơi giống tiếng sủa của con Trash.
Ngồi bên bàn ăn ở quán anh Nguyễn, tôi viết thư cho chị Suzune.
“Mùa đông Ai Len thế nào hả chị? Chắc là lạnh lắm phải không? Chị không bị cảm cúm đấy chứ?”
Khách chỉ còn mình tôi. Anh Nguyễn kéo tấm bảng “Đóng cửa” xuống, khi quay vào anh đi ngang qua tôi, vừa nhìn xuống tay tôi vừa hỏi, “Thư cho bạn gái ư?”
Tôi ngẩng mặt lên, khẽ lắc đầu, “Không phải đâu.”
Anh lau tay vào tạp dề, nhìn bức thư với ánh mắt như muốn hỏi “Thế cái này là…”
“Chị gái của người yêu em. Chị ấy có khuôn mặt giống với cô ấy, cùng một giọng nói và cùng một điệu cười. Thế nhưng không phải cô ấy.”
“Vậy sao,” Nguyễn gật đầu. “Vì anh nhớ có lần em nói người yêu em ở một nơi xa.”
“Vâng, đúng là vậy. Cô ấy ở xa lắm. Nhưng lúc nào em cũng nghĩ về cô ấy. Khoảng cách không phải là vấn đề.”
“Anh hiểu rồi,” Nguyễn nói với vẻ mặt rạng rỡ. “Gia đình anh… cả người cha già và anh em trai, tất cả mọi người đều đang sống ở quê hương xa xôi. Thế nhưng lúc nào anh cũng nghĩ về họ. Và chắc chắn họ cũng luôn nghĩ về anh. Vậy nên anh và gia đình luôn gắn kết với nhau.”
Anh khẽ đặt tay lên vai tôi như nói lời động viên, đoạn chầm chậm bước vào bên trong quán. Nhìn theo hút bóng anh, rồi tôi quay trở về với lá thư.
Mùa đông năm nay không hiểu sao lạnh khác thường. Thế nhưng, hình như năm nào em cũng nghĩ vậy thì phải. Điều này chắc liên quan đến tuổi tác hay sao ấy. Bởi vì hồi nhỏ, vào mùa đông còn ở bên Karin và Yuji, em không cảm thấy lạnh như bây giờ. Năm nay em cũng đã bốn mươi tuổi rồi. Sống một mình ở tuổi này có lẽ là nguyên nhân lớn nhất của mùa đông lạnh.
Gần đây em cứ hay nghĩ rằng, con người đúng là sinh vật yếu đuối. Nửa đêm đột nhiên tỉnh giấc, dù biết là không có, vậy mà em vẫn cất tiếng gọi Karin bên cạnh. Rằng “Tớ nhớ cậu lắm”. Em muốn tỏ ra mạnh mẽ, nhưng thực sự có những lúc em không thể làm được vì nỗi buồn quá lớn. Con người… hoặc ít nhất là em, không có đủ sức mạnh đến mức cân bằng được với sức mạnh nhìn thấu tương lai xa xôi. Vậy nên em muốn thốt ra những lời yếu đuối. Mỗi khi nghĩ đến sự cô độc đang tiếp diễn phía trước, em lại có cảm giác chẳng khác nào mình vừa nhìn vào một cánh đồng hoang vu bị bóng đêm bao phủ. Ánh sao thì vô cùng yếu ớt, nhỏ nhoi và chẳng thể trở thành chỗ dựa.
Mặc dầu vậy, điều khiến cho em quyết tâm phải làm một điều gì đó để vượt qua có lẽ là câu nói của chị Suzune hồi ấy. “Ước gì mình thấy một giấc mơ thế này.”
Sự thật là việc chúng ta sống tốt và luôn nhớ về những người đã không còn ở bên mình chính là thứ duy trì “giấc mơ” ấy. Điều đó đã vực em dậy. Nếu Karin cũng ở nơi đó thì em sẽ làm mọi thứ nên làm vì cô ấy. Thứ nên làm ở đây chính là “sống”. Mở mắt để ngắm nhìn mọi vật và lắng tai để nghe mọi âm thanh. Em tin nếu làm như vậy em sẽ góp một phần nhỏ vào thế giới ấy và biến nơi ấy thành một nơi có thực.
Chị lại viết thư cho em nữa nhé. Em rất mong thư từ chị Suzune. Và rồi một ngày kia lại gần nhau nhé. Dù không biết “một ngày kia” là “ngày nào”, nhưng hẹn gặp chị vào “một ngày kia”.
Satoshi
Ra khỏi cửa hàng, tôi dựng cổ chiếc áo choàng đang khoác trên người. Tiếng gót giày nện lộp cộp trên con đường nhựa làm âm vang khu dân cư đang ngủ yên. Tôi ngước lên bầu trời, đêm nay nhiều sao hơn tôi nghĩ. Trời đêm không tăm tối mà trông khá nhộn nhịp. Chợp nhớ sắp tới đêm Giáng sinh, tôi nghĩ một hồi xem sẽ tặng gì cho công chúa của chúng tôi. Gần đây cô bé mê mẩn đồ trang sức cho trẻ con. Say mê những thứ lấp lánh. Giả sử tôi và Yuji tặng viên thấu kính ngũ giác thì cô bé sẽ nói gì nhỉ? Cô bé có vui mừng không đây? Hay là…
Phải đến khi tiến lại khá gần cửa hàng, tôi mới nhận ra có bóng người ở đó. Tôi đứng chôn chân, nhìn chằm chằm vào cái bóng.
“Cậu là chủ cửa hàng phải không?” Cái bóng nói.
Giọng nói này… tôi biết.
“Phải.”
Nghe tôi trả lời vậy, cô bé phe phẩy tờ phô tô A4 trên tay. Nét chữ viết tay hiện dưới ánh sáng đèn đường.
“Tuyển người đồng hành suốt đời. Không phân biệt tuổi tác. Bất cứ ai, chỉ cần yêu thích thủy sinh. Chi tiết liên hệ chủ cửa hàng.”
Sao mà cầu kỳ thế này…
Tôi hỏi cô trong khi vẫn còn băn khoăn liệu mình có thể thốt nên lời.
“Cậu đến để xin phỏng vấn?” Quả nhiên giọng tôi hơi run.
“Đúng vậy.”
“Nhưng sao lại đến vào giờ này?”
“Tớ đến từ lâu rồi. Chính cậu là người bắt tớ phải đợi đến giờ này.”
“Vậy sao,” tôi nói. “Nhưng tớ cũng đã đợi cậu lâu lắm rồi.”
“Xin lỗi,” cô nói. “Xin lỗi, tớ đã bắt cậu phải chờ thế này.”
Không, không sao cả. Thực sự là không sao cả.
Tôi từ từ tiến lại gần, rụt rè dang rộng hai cánh tay. Và rồi tôi gọi cô với tâm trạng hệt như được trở về thời niên thiếu. “Karin?”
Cô gật đầu hạnh phúc đoạn dò dẫm từng bước về phía tôi, sau đó cô nhào tới ôm lấy tôi. Từ người cô tỏa ra mùi hương ngọt ngào, giọng vui tươi như đang hát, “Tớ đã về! Giờ tớ đã trở về rồi.”
Hết