Tôi trở lại ngôi nhà ảm đạm của cha nuôi vào lúc nửa đêm, sau khi rời đám bạn bè ồn ã. Nếu như không hẹn với ông khi chiều, trong tiệc liên hoan mừng mười năm giải phóng ở hội trường huyện ủy, hẳn giờ này tôi đang cùng vui với các bạn ở đoàn nghệ thuật Đam San. Tôi ngao ngán ngồi trước cổng nhà nhớ lại vẻ mặt đượm buồn, u tối của ông khi chiều mà chạnh lòng nhận ra bấy nay tôi có lỗi với ông, nhất là với mẹ nuôi và chị Rơ Lan H'Tữk. Tôi biết giữa lúc mọi người đang vui thì ông buồn. Ông cần có bạn và cần sự thông cảm. Gần hai chục năm nay, sau ngày lễ kết nghĩa cha con với ông, vì tôi có chung tên với anh Thương, con trai ông, theo phong tục, tôi được gia đình coi như người trong nhà. Anh Rơ Lan Thương là kỹ sư lâm nghiệp học ở miền Bắc, sau ngày giải phóng về lại quê hương công tác. Nhưng từ ngày anh bị bọn fulrô bắn lén, tôi không muốn về nhà gặp ông. Thậm chí đôi lúc nghĩ tới cha nuôi của mình, tôi cảm thấy nổi cục ở nơi họng. Nhưng còn mẹ và chị tôi, hai con người suốt đời tận tụy vì chồng con và em mình ấy, đã mất mát quá nhiều, bây giờ lại phải gánh chịu thêm một sự mất mát nữa ư? Tôi thật sự muốn xa lánh để khỏi gặp mặt ông già, nhưng tôi không thể không về vì trong ngôi nhà này còn có mẹ và chị nuôi của tôi. Tôi luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ một phần cái chết của anh tôi là do chính ông già góp phần tạo nên. Người ta đã không nhìn nhận đúng anh tôi, họ còn cho rằng anh là người chỉ dựa vào cái lý lịch đầy công tích của cha và sự trong sạch của mẹ, của chị, để lẩn trốn sự phân công công tác của cơ quan, chống lại tổ chức. Rằng Rơ Lan Thương được nhiều ưu tiên quá, nên có tư tưởng tự do, không gắn bó với tập thể. Rằng Rơ Lan Thương suốt đời chỉ có đi học, bây giờ về, cần phải có thời gian rèn luyện phấn đấu, cần phải xuống cơ sở, bám thực tế. Rơ Lan Thương đã bỏ ít nhất ba năm không ngó ngàng gì được tới sách vở. Và anh câm lặng thêm hai năm nữa, chăm bẵm theo dõi giống cây trong vườn ươm của mình trên một khoảng đồi trọc ít ai cho rằng nơi ấy có loại cây gì sống nổi, để đến lúc, anh kiên quyết xin về cơ quan, trình bày công trình nghiên cứu và thực nghiệm của mình. Trong bản nhận xét của ủy ban ban nhân dân huyện K, nơi anh được cử xuống "cắm", người ta ghi: "Ít hòa mình vào quần chúng, khó hiểu. Đôi lúc tỏ ra kiêu ngạo. Chưa có sức bật trong phấn đấu, chưa cầu tiến. Tuy nhiên hoàn thành công việc được giao...". Anh tôi cầm tờ nhận xét ấy cùng với bản đề cương chi tiết công trình khoa học của mình về giống cây "phủ xanh đồi trọc" trình với cơ quan. Thủ trưởng cơ quan vốn là bạn chiến đấu cũ của cha chúng tôi. Ông ta đã dựa trên cơ sở của bản nhận xét và những lời cha tôi dặn trước về việc giúp cho Rơ Lan Thương trở thành đảng viên, chứ không ngó đến bản đề cương khoa học. Câu đầu tiên ông ta lạnh lùng bảo với anh tôi là: Cậu cần rèn luyện phấn đấu thêm, vì tình nghĩa với cha cậu mà tôi phải có trách nhiệm. Rằng ông ta sẽ bố trí công tác khác, phù hợp với hoàn cảnh của anh tôi. Cần thiết anh tôi phải làm việc kề cận với ông ta, chẳng hạn như trợ lý giám đốc, theo dõi chuyên môn hoặc việc gì đó đại loại như vậy. Rằng anh tôi dứt khoát phải trở thành đảng viên trước khi trở thành nhà khoa học. Và ông còn hé ra một ý định sẽ không để anh tôi phải dưới quyền tay trưởng phòng, vốn đã nhiều lần đụng độ nhau một cách không cần thiết. Rơ Lan Thương tái mặt quay về nhà. Hôm ấy tình cờ tôi cũng mới đi công tác về, liền ghé thăm anh. Anh tôi đã cầm chai đi mua rượu, một việc tôi chưa thấy bao giờ. Anh uống liền một lúc hai li, sau đó kể hết sự tình với tôi. Tôi khuyên anh bình tĩnh. Nhưng anh đã cầm li rượu ném choang vào tường, chửi tục và bảo tôi: "Em nói với cha được, mà em đã không nói. Có nằm trên sạp mới biết sạp có rệp em ạ". "Sao anh lại trách em?"- Tôi nói- "Không nên kéo căng sự việc khi chưa cần căng thế, Rơ Lan Thương ạ".- "Mày ưng rùi xuống thêm năm năm nữa à? Để người ta phá hết rừng, không lo phủ xanh đồi trọc mà cứ lo giữ thái độ ôn hòa à? Năm năm ở dưới huyện, dưới xã mà người ta còn muốn rèn luyện, phấn đấu thêm, thử thách thêm? Mình nghiên cứu khoa học chứ không phải lo giữ gìn thái độ. Đã thế tao xin về quê với mẹ!". Tôi biết tính anh nên ngồi im. Anh vốn ít nói, nhưng luôn cực đoan giữ vững ý thích của mình. Những ngày lễ tết, có dịp họp mặt đông đủ gia đình, lần nào tôi cũng chỉ thấy cha tôi luôn coi anh em chúng tôi như những đứa con sắp hư hỏng, sắp làm điều gì đấy gây ảnh hưởng đến truyền thống gia đình. Rơ Lan Thương có lần đã nói thẳng với cha tôi là ông nên về nghỉ hưu, rằng chính ông đang thực hiện những công việc thiếu khoa học, gây tác hại bởi cái nhiệt tình quá mức cần thiết. Tôi có cảm giác cha tôi như người bị hụt hẫng. Ông không kìm chế nổi cơn nóng giận, đã quát mắng anh tôi như là một đứa con phụ bạc, không phải chỉ với cha, mà là với cả cách mạng. Quả tình lâu nay tôi cũng đã từng được chứng kiến, chưa có ai dám phản đối cha tôi một điều gì. Ở huyện, ông luôn được cán bộ dưới quyền dạ vâng răm rắp. Lên tỉnh, ông được chiêm ngưỡng như một con người có nhiều năng lực và lúc nào cũng tràn trề nhiệt huyết. Người ta kể về ông với giọng kính nể và tự hào. Thậm chí người ta còn tô thêm cho ông những đức tính như trong huyền thoại. Cha tôi quen được nghe người ta "ca" về mình, khẽ thôi, từ phía sau, đủ cho ông cảm nhận. Cũng vì bản tính ông khiêm tốn. Ông sẵn sàng chăm chú nghe một cụ già ở buôn làng hoặc một cháu bé ngoài cổng trường, khi có chuyện gì cần thiết. Nhưng rồi sau đó, ông rất nhanh quên đi để làm việc. Ấy thế mà anh Rơ Lan Thương của tôi lại dám lật ngược hoàn toàn, lại dám bảo ông đem cái nhiệt tình cách mạng cộng với sự thiếu khoa học của mình gây nên cản trở cho sự phát triển chung của quê hương. Ai gây dựng cơ sở, xây dựng chiến khu đánh Pháp, đuổi Mỹ để có ngày thống nhất? Đánh giặc khó trăm lần mà còn thắng, bây giờ động cái là lo sợ à? Vậy mà chính con ông lại chỉ thẳng vào ông mà nói. Ông không thể tin được nhưng rõ ràng nó đã nói với ông như vậy. Ông cũng đã từng qua trường Đảng của tỉnh. Đôi lần được trên điều ra tận Trung ương tập huấn. Theo ông, làm cách mạng là phải quên mình, không có chuyện đòi hỏi. Về hưu cũng là đòi hỏi. Trong cuộc đấu tranh cách mạng ai thắng ai giữa hai con đường, mỗi chiến sĩ phải tự khẳng định mình bằng cách lặn lội với phong trào. Ông vốn là người không ưa nói suông. Cả cuộc đời hoạt động ngót bốn mươi năm của ông, ông đã phải học từng chữ, từng việc, đâu phải chuyện tự dưng mà kẻ địch đã treo giá cái đầu ông hàng chục cây vàng? Vậy mà chỉ mới có mấy năm sau giải phóng, thằng con ông, niềm tin yêu của ông lại khuyên bảo ông nên nghỉ! Tôi biết, tất cả những điều ông nghĩ và ông nói đều không phải chỉ vì bản thân ông. Tôi là người ở giữa, cái vị thế ngẫu nhiên, như là cái gạch nối ấy đã giúp tôi tạo lập được không khí ôn hòa cần thiết giữa hai người. Tôi không đồng tình với cha nuôi, nhưng lại có sự thông cảm nhất định với ông. Cũng như tôi nhất trí với Rơ Lan Thương, nhưng lại muốn tìm cách để anh hiểu được thiện ý của cha mình. Cả hai điều ấy đối với tôi lâu nay đã thành quen thuộc, và tôi tự nhận trách nhiệm. Nhìn mẹ và chị tôi hoảng hốt, lo sợ sự đổ vỡ của gia đình trong khi cả hai người đều không hiểu rõ ngọn nguồn khiến tôi nhiều lần ứa nước mắt. Tôi tìm cách giải thích cho mẹ và chị bằng những câu chuyện vui. Tôi cũng muốn anh tôi hiểu cha tôi hơn bằng cách kể những chuyện chiến đấu gian khổ trong thời gian đánh Mỹ. Rơ Lan Thương chăm chú nghe và còn gợi chuyện cho tôi kể. Tôi cũng kể về công trình khoa học của Rơ Lan Thương cho cha tôi thông cảm, nhưng quả thật, ông chỉ nghe lấy lệ rồi ngáp dài! Ông bảo khoa học là công trình của tập thể, không có tập thể không có công trình khoa học! Cũng như anh hùng, mỗi cá nhân anh hùng đều do tập thể xây dựng mà nên. Tôi tìm cách tránh phải sa vào tình trạng tranh luận với ông. Tôi nhớ mãi cái đêm hai cha con tôi uống chung can([1])rượu cần kết nghĩa, có già làng và bà con buôn A Ma Kơ Lưk trên chiến khu, cả anh em cơ quan huyện uỷ chứng giám. Tôi nhớ cái không khí uy nghiêm đầy khích lệ khi tôi giương ná, lẫy cò. Mũi tên cắm trúng vòng tròn trên chái hiên nhà trong tiếng hò reo của anh em bà con. Và chính tôi sau đó đã cầm cây củi Kơ-răk đang cháy đỏ rực, tự gí vào ngực mình để biểu hiện tinh thần dũng cảm cần thiết theo phong tục. Bàn tay thô ráp của cha nuôi tôi quặp lấy cổ tôi, bế xốc tôi lên. Rồi ông xoay người tôi lại, ôm ghì ngang lưng. Dòng máu đỏ chảy tràn trước ngực tôi in sang ngực ông giữa tiếng tung hô đầy phấn khích của mọi người. Thế là tôi được coi là người con của dân tộc Gia Rai. Tôi gia nhập cộng đồng không phải chỉ bằng lời thề suông trên khóe miệng. Bạn thân của tôi khi ấy là anh Rơ Chăm Rót, đội trưởng đội công tác Chư Mố. Bây giờ anh đã là bí thư huyện ủy, thay cha tôi. Dạo đó Rơ Chăm Rót chưa phải là người am hiểu nhiều công việc như bây giờ. Nhưng anh đã tỏ rõ là một cán bộ có tài khiến nhiều người thèm muốn. Rơ Chăm Rót thích tôi vì trong những chuyến công tác lẻ, tôi không có cái nhút nhát mà đôi lần anh gặp ở một số anh em khác. Thêm nữa, anh đặc biệt quý tôi vì tôi đã học hết lớp mười. Anh không thể tưởng tượng được vì sao người ta lại có nhiều điều để dạy suốt mười năm cho một con người, trước khi vào đời như vậy. Và anh luôn hỏi tôi trong những năm đi học, có khi nào gặp điều mà mình đã biết rồi chưa? Tôi trả lời anh, thậm chí sau khi hết lớp mười, người ta còn cần phải học thêm chương trình năm bảy năm nữa, đó là các trường Đại học. Rằng tôi rất thích theo học y khoa. Cái sự ngạc nhiên chân thành của Rơ Chăm Rót đã khiến tôi yêu quý anh hơn. Anh hiểu biết chiến tranh như hiểu biết chính những gì anh nghĩ và anh làm. Chỉ cần một động tác nhỏ biểu hiện sự rụt rè hoặc lo lắng trong khó khăn là anh nhận ra ngay. Những bài học đầu tiên về chiến tranh tôi học được ở nơi anh. Và tôi đã dạy anh những chữ cái đầu tiên, cách ghép vần đầu tiên. Chúng tôi bù trừ cho nhau, và vì vậy, chúng tôi gắn bó với nhau, qua được những tháng ngày gian khổ. Cha nuôi tôi đã kiếm được sách giáo khoa cho anh. Tôi đã chỉ vẽ cho anh học hết chương trình lớp hai, chỉ trong sáu tháng- một đợt công tác. Tôi sẽ kể về anh trong một dịp khác, nếu như câu chuyện này không đẩy tôi tới chỗ sa đà. Tôi biết lúc này Rơ Chăm Rót đang vui vẻ với bà con ở ngoài thị trấn. Cũng có thể anh đang giải quyết một việc gì đó cho ngày mai. Hồi còn chiến tranh, cha nuôi tôi cũng coi Rơ Chăm Rót như con. Ông là người dẫn anh từ trong ấp ra. Sau giải phóng Rơ Chăm Rót là huyện ủy viên và anh đã tự học hết lớp bảy. Cha nuôi tôi cho anh đi học tiếp văn hóa, sau đó, anh vào học trường Đại học Kinh tế tại chức. Rồi về làm bí thư huyện đoàn. Một thời gian sau Rơ Chăm Rót được điều đi bồi dưỡng tiếp sáu tháng ngành quản lý cán bộ. Anh về huyện, được quyết định nhận chức thay cha tôi. Sự tiến bộ của anh khiến nhiều người ngỡ ngàng. Cái "áo chức vụ" nào anh mặc vào cũng nhanh chật- người ta nói thế. Rồi đây anh còn tiến xa- nhiều người phán đoán. Và anh rất nhanh làm quen với công việc của mình.
Tuy nhiên, sau cái chết bất thường của anh tôi, cha tôi là người nhận ra mình nhiều hơn cả. Không ai nói điều ấy, nhưng tôi biết. Tôi nhớ cái hôm sau khi chôn cất Rơ Lan Thương xong, tôi ngồi thu gối giữa mẹ và chị nuôi dưới chân tượng nhà mồ, bức tượng gỗ chít do ông già Voai mới đẽo. Đó là một người già ngồi ôm đầu nhìn vào ngực mình. Không ai nói ra nhưng ai cũng hiểu ý già Voai muốn diễn tả điều gì.
Tôi nuốt nước mắt ứ nghẹn nghe người mẹ và người chị đau khổ của mình khóc anh. Rồi tôi đã không kìm chế nổi mình khi thấy cha tôi cầm con dao găm tự chích vào đùi, vào ngực cho máu chảy khắp cơ thể, để biểu hiện tình thương yêu. Tôi nhào tới giật con dao khỏi tay ông, ném vào bụi, quắc mắt nhìn ông, rồi gần như điên dại, tôi quát ông bằng tiếng Gia Rai: "Ỷ bí hem ố! Đuối lái sang!" (Ông không hay ho gì đâu! Về nhà đi!). Sự hỗn láo bất ngờ của tôi khiến mẹ và chị tôi cùng ngã gục, ngất xỉu. Người ta đổ nước mát lên đầu mẹ và chị tôi, một lúc sau thì tỉnh. Còn cha tôi thất thểu quay về nhà. Ngôi nhà mồ buổi chiều ủ dột đến não nề và tôi cảm thấy như đang ngồi trước Rơ Lan Thương. Tôi thấy rõ anh đang từ từ bò dậy khỏi vũng máu, lách người qua lỗ thông hơi trên ngôi mộ tới cầm tay mẹ và chị tôi. Tôi nhìn đâu cũng thấy anh. Tôi thảng thốt rú lên giữa tiếng khóc gọi em của chị Rơ H' Tữk và gọi con của mẹ tôi. Rồi tôi thấy mẹ và chị tôi vừa lấy cơm canh, gọi anh về ăn bữa tối giữa tiếng gió rít trên đồng cỏ. Tôi nghe rõ tiếng hú trên miệng các ống nứa, trên nóc nhà mồ và những chùm đinh Prơơng(1) treo lủng lẳng trên ngọn các cây nêu dưới ánh lửa mập mờ. Tôi bừng tỉnh nhận ra không nên cứ ngồi đây ôm gối mà chỉ nghĩ tới cái chết của anh mình. Tôi cảm thấy tôi đang cầm một con rựa lảo đảo đi trong đồng cỏ và luôn miệng hỏi kẻ nào đã nhấn cò giết anh Rơ Lan Thương? Tôi gào lên và cùng lúc giật mình nhận thấy anh tôi nắm tay tôi dùng dằng bên bức tượng nhà mồ. Bức tượng bỗng đổ nhào và tôi gạt tay anh, chồm tới đỡ bức tượng. Tôi lại nhận ra cha tôi đứng đó. Tôi ôm ghì lấy ông. Tôi không thể bỏ ông cũng như không thể rời bỏ mẹ và chị tôi. Tôi kéo anh lại chỗ người cha đau khổ và thấy rõ ràng, ông đặt hai bàn tay lên vai hai chúng tôi giống như hôm Rơ Lan Thương mới về quê, ba cha con tôi đã chụp ảnh kỷ niệm. Rồi tôi lại thấy bức tượng từ từ được dựng dậy. Bóng mẹ và chị tôi cào đất và tôi quờ tay, nắm bàn tay mẹ đang rờ rẫm những thứ của cải chia phần cho người chết, bên cạnh cái ghè đã đục thủng đáy. Tôi nắm bàn tay mềm oặt của chị tôi đang bốc cơm bỏ vào lỗ thông xuống quan tài cho anh tôi, với hy vọng anh sẽ được ăn bữa tối ngon lành. Tôi bàng hoàng tỉnh khi thấy nơi cuối cùng của đồng cỏ, mặt trời đỏ ối chừng như vừa nhô ra, rồi lại từ từ lặn xuống khiến cả vùng đồi hực đỏ. Bóng mẹ và chị tôi, cả bức tượng bên nhà mồ anh tôi cũng hực đỏ.
Và sau đó là bóng đêm thực sự.
Tôi dìu mẹ và chị tôi về tới nhà thì thấy cha tôi đang ngồi trên sàn cửa, tay cầm cây lao. Tôi thấy ông bỗng vùng dậy uốn mình, vươn tới trước, phóng mạnh. Cây lao bay vào bóng đêm và sau đó là tiếng éc của một con heo xấu số. Mấy người xúm tới soi đuốc, thấy con heo bị mũi lao găm xuyên qua nách. Ông già cười hừng hực rồi ngã nhào. Tôi đỡ cha tôi dậy, dìu ông vào nhà. Ông nhoài tới vít cần rượu và sau đó oặt cổ ôm ghì lấy tôi. Tôi để mặc ông, một lát sau ông kéo tay tôi, đặt lên ngực. Tôi biết cha tôi muốn nói gì. Trong giây lát, tiếng hát của mẹ tôi khiến cha con tôi cùng choàng tỉnh. Cha tôi buông tôi ra, đưa tay ôm ghè rượu rồi vít cần cho tôi. Tôi ngồi thu gối âm thầm hút rượu. Người ta khuân tới nhà tôi không biết bao nhiêu ghè rượu. Và tôi cảm thấy như tiếng rì rầm trong lửa, trong khói, tiếng ho, tiếng hát cũng đâu như trong mập mờ của lửa khói, rất xa vọng lại. Đêm tối và tiếng hú man dã của rừng già phía bên kia đồng cỏ, nơi ấy là tiếng gọi thiêng liêng, không phải chỉ đối với tôi, với mẹ và chị Rơ H' Tữk, mà cả với người cha nuôi của tôi có một cuộc đời thật dữ dội, gắn liền với nó. Cả với buôn làng tôi, không ai không sống giữa núi rừng. Tôi không còn đủ sức hát lên những lời ngợi ca rừng núi của những bài hát xưa cũ mà tôi thuộc, giống như nó đã có sẵn trong tim mình. Cũng bởi suốt cả ngày nay tôi đã hát, đã khóc cùng với mẹ và chị. Giờ đây ngồi hút rượu cần, không hiểu sao tôi lại cảm thấy mình tỉnh táo kỳ lạ, tưởng như sau ít nhất ba đêm thức trắng, tôi có thêm sức mạnh để tự kìm chế mình, và lắng nghe tiếng hát khàn khàn, tiếng khóc của cha tôi. Tôi đã nhiều lần được nghe ông hát kể về cuộc đời mình. Nhưng đêm ấy, tôi cảm thấy ông thoát khỏi chính ông, để tìm về cội nguồn của dòng họ. Ông ngửa cổ ôm ghè rượu rồi lại cúi gục vào thành ghè. Cần rượu được vít cong chợt bật tung lên một dòng nước trắng. Dân làng quây quanh những ghè rượu lặng im nghe ông hát. Tôi nhận thấy bóng dáng của cha tôi lúc nhỏ lầm lũi ngoài rừng đào củ, mong tìm cho bà nội tôi một bữa cháo cuối cùng. Cậu bé thui thủi cầm con rựa vào rừng dọn dẹp nơi nhà mồ hoang dã, bưng lên những lá cây quết cháo cúng cha ngày bỏ mả. Tôi nghe được nơi sâu thẳm của rừng già ẩm ướt, bóng bà mẹ của cậu bé ngã trong lá mục. Tiếng mối xông rào rào lên thân thể bà. Cậu bé còm cõi dùng cây le vạt nhọn đào đất lấp lên mẹ mình và ngay sau buổi chiều kinh hoàng đó, cậu phải quay về với chức phận của thằng nô lệ. Cái nợ nối đời không ai có thể trả đã khiến cha tôi phải làm tôi tớ để trừ dần những chiêng ché, trâu bò. Con đường mòn heo hút ngày ngày cậu bé cặm cụi xuống dốc gùi nước và gùi sắn, gùi lúa. Và nơi góc bếp, con chó, con mèo cùng tranh chỗ nằm với cậu giữa mùi tro tàn, mùi khét lẹt của lông mèo lông chó bị cháy. Ấy vậy mà rồi thời gian cũng làm cho cậu bé lớn lên, trở thành một chàng trai có vóc dáng ngang tàng. Thân phận làm tôi tớ đã khiến cậu biết tự nén lòng mỗi khi giận. Cậu ôm giữ nỗi buồn đau, cắn môi trước những con người quyền uy trong làng đối xử với cậu như đối xử với con chó ghẻ. Cậu cặm cụi vung rìu chặt cây, chém cành, làm nên những vùng rẫy lớn, tuốt lúa bật máu tay đem về cho người ta ăn, người ta sai bảo cậu. Nhưng rồi một ngày kia, chính cậu nhận ra mình có sức vóc hơn người, khi người vợ của chủ nhà còn rất trẻ, thỉnh thoảng trêu giỡn cậu. Người con gái ấy đã đem lòng thương chàng trai tôi tớ. Một bữa bỗng dưng nàng ôm bụng gào thét dưới bờ suối. Tên chủ nhà bế vợ lên tay, nhưng người vợ giãy ra khỏi tay hắn. Hắn nhiều tuổi gấp ba nàng vì chính nàng là vợ thứ ba của hắn. Hai người vợ trước là hai bà chị của nàng đã chết vì sinh đẻ và vì cây đổ. Bây giờ đến lượt nàng phải làm vợ hắn theo tục nối dây. Tên chủ làng bắt cha tôi phải dìu vợ hắn lên nhà. Cha tôi run rẩy cúi xuống và bỗng nhận thấy nơi ngực mình con tim nhảy múa loạn xạ. Bỗng có ai đá từ phía sau lưng khiến ông dúi người. Bàn tay người vợ trẻ tên chủ làng bíu lấy cổ chàng tôi tớ. Và thế là sức mạnh từ đâu trong khắp cơ thể dồn xuống nơi cánh tay, chàng trai mạnh bạo xốc nàng và chạy lên dốc, đặt nàng trên sàn cửa. Người con gái dịu cơn đau, nói nhỏ vào tai ông: "Mình ưng bắt anh làm chồng quá, anh Kơ Sor Kơ Mík ạ". Cha tôi bàng hoàng vì sung sướng và vì run sợ, quỳ thụp trước cô gái và nhận được ánh mắt của cô. Tên chủ nhà cùng lũ tôi tớ vừa kéo lên tới nơi thì thấy hai người còn đang dìu nhau vào trong nhà. Hắn có đủ tinh ranh để nhận ra lý do lâu nay người vợ trẻ của hắn thất thường đổi thay tính nết. Và hắn còn nhận thấy tình ý của vợ mình với tên tôi tớ trong những buổi chiều tên tôi tớ xuống suối gùi nước. Vợ hắn ngồi trên thân cây đổ trước cổng làng, thõng chân thổi đinh-yơng(1) . Hắn vạch khe liếp nhìn ra, nhận thấy thằng tôi tớ Kơ Sor Kơ M ík dám dừng lại nhìn vợ hắn và cười, thậm chí còn nói điều gì đó. Hình như hai đứa thường có hẹn hò nhau? Chuyện xảy ra nhiều lần, khi thì Kơ Sor Kơ Mík đi rừng, đem về cho bà chủ trẻ cái gì đó gói trong lá. Khi thì chính vợ hắn dúi cho tên tôi tớ một con chuột nướng hay một miếng thịt nai khô, khiến hắn điên đầu. Rồi một hôm, vì không chịu được cảnh ấy diễn qua trước mắt mình, hắn thẳng tay đuổi tên tôi tớ ra ở ngoài chòi rẫy trông heo rừng. Người vợ trẻ của hắn buồn thiu đến nỗi bỏ cả cơm chiều, đêm đêm nằm bên bếp lửa thổi đinh-yơng. Rồi người con gái ấy ngồi thẫn thờ tưởng nhớ tiếng hát. Nhưng tiếng gió rít trên vòm rừng già và tiếng những loài chim đêm kêu thắc thỏm khiến nàng càng không kìm nổi mình. Đống lửa khi phù phù bùng lên, khi phụt tắt tưởng như bao nhiêu bóng đen đặc quánh ập xuống ngôi nhà dài hun hút của hắn. Hắn mò dậy lần tìm cây đinh-yơng dụt mạnh vào trong đống than đang hừng đỏ.
- Mày ưng theo thằng Kơ Sor Kơ Mík thì theo đi!
Cô gái cắn môi ứa nước mắt nghĩ tới hai bà chị xấu số của mình. Và cùng lúc nghe rõ tiếng cựa quậy của những đứa cháu đang ngủ bên bếp lửa, phía bên kia phên nứa. Cô ngước nhìn chồng và hốt hoảng nhận thấy đôi mắt hắn đỏ sọc đang chòng chọc nhìn cô.
- Không!- Cô nói nhỏ.
- Mày thổi đinh-yơng nói lời than thở với ai?
- Tui thổi cho tui nghe mà.
- Mày không biết có chồng mày ngủ đây à?
- Sao không nhớ?- Cô run rẩy hỏi lại.
- Mày ra chòi rẫy mà thổi cho nó nghe đi!
Cô gái lại ngước nhìn chồng. Thằng chồng già vùng dậy và cô trườn khỏi tay hắn. Một ánh chớp lóe trên đầu cô. Cô nhận ra hắn đã điên rồi! Những tàn lửa do cây củi hắn quơ được đập xuống vai cô, tung ra khắp sàn nhà. Tiếp đó cô nghe rõ tiếng con dao rút khỏi vách kêu "roạt". Cô văng người chạy ra khỏi cửa. Cây rựa cắm ngập vào cột nhà rung lên bần bật. Hắn cũng vùng dậy nhảy qua bếp lửa khi cô gái đã đẩy được then cài, lao ra ngoài. Đêm trăng sáng nhoáng nhoàng trên đầu, dưới chân. Cô chạy như chưa bao giờ chạy thế. Tiếng hồng hộc thở của tên chồng già cùng tiếng con rựa vung vèo vèo phía sau càng làm cô không còn biết nên làm gì ngoài chạy. Thằng chồng già đã áp sát cô. Cô ngã. Và hắn ngã nhào, đè lên cô. Cô vùng nhanh dậy và hắn cũng vùng ngay dậy đuổi theo. Cô xé rừng chạy. Thằng chồng già cũng xé rừng đuổi. Bỗng cô vọt qua một thân cây đổ. Tiếng con rựa "phập" vào thân cây. Có tiếng thằng chồng già ối lên rồi hắn đổ xuống. Tiếng hắn rên rỉ khi cô dừng lại:
- Rơ Lan H' Miar! Không phải tui ưng đuổi chém mày đâu.
Cô gái đứng tựa vào thân cây thở và vẫn nghe tiếng thằng chồng già:
- Tui chém vào tay tui rồi, Rơ Lan H' Miar!
Cô gái nhận ra con rựa văng sang bên này thân cây khi thằng chồng già vung lên, định chém cô. Nhưng con rựa móc vào sợi dây rừng đã lạng ra, chém vào tay hắn.
- Rơ Lan H' Miar! Mày không sợ làng phạt à? Mày bỏ phong tục nối dây à?
Rơ Lan H' Miar cảm thấy đầu cô đang từ từ nở to ra, hai tai như hai tai voi nặng trịch. Cô đưa tay lên ôm đầu và bỗng nhận ra cái tai mình vừa bị chém đứt, còn thetoòng teng, máu tràn một bên má. Cô rú lên tiếng rú chính cô cũng không biết nó vang xa tới mức nào. Thằng chồng già đang bò qua thân cây đổ, nhặt con rựa lên, bước tới gần cô. Cô lại rú lên dữ tợn rồi cắm đầu chạy. Thằng chồng già rít lên đuổi theo. Nhưng rủi cho hắn, con rựa lại bật ra khi hắn vừa vùng lên. Hắn vấp vào một rễ cây, ngã nhào. Một cành cây khác đâm vào ngực hắn khiến hắn không đủ sức vùng ngay dậy. Rơ Lan H' Miar đã rất nhanh nhận ra khoảnh khắc ấy. Cô nhào lại, chụp nhanh con rựa, đè lên người hắn.
- Mày giết tui à, Rơ Lan H' Miar?
Rơ Lan H' Miar vừa vung con rựa thì nhận rõ bóng hai người chị mình cùng lúc túm tay cô. Con rựa rơi xuống đất và tiếng cả hai người cùng khóc lóc.
- Đừng giết chồng các chị và cha của các cháu, Rơ Lan H' Miar ạ.
Thằng chồng già đã đang đè lên cô. Tiếng hắn rít lên:
- Tui giết mày đây, Rơ Lan H' Miar!
- Giết đi! Giết đi!
- Tui không ưng nhìn thấy mày thành vợ thằng Kơ Sor Kơ Mík, Rơ Lan H' Miar ạ.
- Giết tui đi! Giết đi!
- Nhưng tui muốn hỏi thiệt mày...
Hắn nghiến răng giật dây khố ra khỏi mình làm dây trói vòng quanh người Rơ Lan H' Miar.
- Mày có nhớ tui là chồng mày không?
Rơ Lan H' Miar không trả lời nữa. Cô nhận thấy mặt trăng đang nhòe đi trên khoảng trống và đầu cô lại đang nở to ra. Thằng chồng già của Rơ Lan H' Miar đang nhai lá cây đắp vào vết thương nơi cánh tay. Hắn bỗng giật mình nhận ra có một bóng người vừa loáng cái phía sau một thân cây. Cùng lúc ấy cây lao phóng tới, xuyên ngang lưng hắn.
10000Chàng trai tôi tớ bế cô gái lên tay, đi khỏi vùng rừng u ám. Bước chân chàng bước qua nhiều núi, nhiều sông, để về với vùng thung lũng, nơi tụ họp của những dòng sông lớn, tạo nên những cánh rừng đầy hoa trái và những Rơ-đron rok mượt mà. Nơi ấy là những đồng cỏ và những vùng sình lầy, nơi có dòng họ Kơ Sor của cha tôi. Đó là những ngày sống hạnh phúc nhất của hai con người khốn khổ.
Chàng trai Kơ Sor Kơ Mík- cha tôi và cô gái Rơ Lan H' Miar- mẹ tôi về được với buôn làng mình, sinh được chị Rơ Lan H' Tữk và Rơ Lan Thương. Suốt gần hai chục năm qua, tôi thầm cám ơn cuộc đời đã cho tôi làm con nuôi một người cha nghị lực và người mẹ không chịu sống cúi đầu chiều theo số mệnh. Tôi không nghĩ cha nuôi và mẹ nuôi của tôi lúc ấy sớm giác ngộ, bởi trong khi cha tôi hát, dân làng nhiều người hát theo, nhưng cũng có nhiều người buông cần rượu đứng dậy. Đó là những người tỏ thái độ không ưng nghe chuyện ngược với phong tục. Nhưng lời hát nhọc nhằn của cha tôi vẫn cứ tự nó truyền lan khắp cơ thể từng người. Tôi đã nắm tay mấy ông bà già kéo lại. Người ta không phải vì nể tôi đã lưỡng lự ngồi xuống, rồi lại cùng hát theo. Chúng ta có sống với dân làng mới hiểu được dân làng. Cha tôi cầm cái cần rượu rút mạnh ra khỏi miệng ghè, lảo đảo đứng lên hát và kể lể. Tôi không còn nhận ra ông vì chưa bao giờ ông hiện lên như chính con người ông đến thế. Và cũng bởi lâu nay cha tôi không phải sống cho riêng nỗi niềm của mình. Ông gọi tên Rơ Lan Thương và gọi tên tôi mếu máo. Bao nhiêu con mắt như vừa sống lại khoảng thời gian tăm tối, bây giờ cũng dõi theo ông. Những mái đầu đủ các lứa tuổi cùng ngửng lên, quên hẳn những ghè rượu đã tạo nên cái không khí trang nghiêm kỳ lạ. Ánh lửa mập mờ đang dần lịm tắt, nhường cho giọng hát của cha tôi sáng lên cả những xó xỉnh bụi bặm nhất của mỗi cuộc đời. Tôi bắt gặp những khóe mắt sáng nhòe nước cùng những cái miệng bỗng cùng lúc há hốc thảm thương gọi tên anh tôi. Anh tôi gắn bó với dân làng đâu phải đã nhiều. Nhưng dân làng không có thói quen tính sự gắn bó giữa những con người với nhau chỉ bằng thước đo của thời gian. Nhiều người biết anh sớm hơn chính anh biết mình, ngay từ khi anh cất tiếng khóc chào đời. Người ta đã uống rượu mừng lễ đặt tên cho anh nơi gần bếp lửa. Tiếng khóc của anh tôi cất lên đầu tiên nơi góc rừng già, khi mẹ tôi oằn mình giữa cơn đau đã khiến cho ít nhất còn vài người ngồi đây, hôm nay, khi ấy, cũng đang ngồi chờ trên nhà bất chợt ồ lên sung sướng. Người ta hớn hở vít cần rượu sau lời mời cuống quýt của cha tôi: "Thế là làng ta lại có thêm một cây lao"- Một người đoán con trai nói. Và một người khác đoán là con gái, tiếp: "Ơ Kơ Sor Kơ Mík, mày đã lo làm khung dệt vải cho nó chưa?". Chính lúc ấy tiếng khóc từ ngoài rừng vọng vào càng to. Chắc mẹ tôi đang dùng lát nứa cắt rốn cho con mình. Tự tay mẹ bới đất chôn nhau và gói anh tôi trong tấm đồ hoa ẵm lên nhà. Bỗng trời sấm chớp đổ mưa. Rồi trời chợt tạnh và trăng sao ngằn ngặt. Đống lửa trong nhà bùng lên. Các cụ bà xúm xít quanh mẹ tôi hỏi han. Những cần rượu chỉ chờ có vậy, được vít cong và những lời hát vui được hát lên đầy nhiệt huyết. Già làng cầm tay cha tôi tới bên mẹ tôi đang ôm con, và gọi lên cái tên "Thương" như nó đã có sẵn từ lâu rồi. Tôi không biết ngày mẹ tôi sinh tôi và đặt tên cho tôi thế nào. Nhưng sự trùng hợp ngẫu nhiên ấy đã tạo nên cuộc sống mà những năm qua tôi có, cũng như bây giờ và suốt cả cuộc đời tôi sẽ gắn bó. Tôi bật cười mỗi lần tình cờ bắt gặp cha tôi không vừa lòng điều gì đó với Rơ Lan Thương. Ông lẩm bẩm trách cái bữa làm lễ thổi tai cho anh tôi sao mà trời mưa to thế! Ông già Rơ Chom Đim cao tuổi, người đã gọi tên Thương đầu tiên cúi sát xuống tai anh tôi, chúm miệng thổi phù phù và cầu nguyện các thần linh hãy cho anh tôi lớn lên nghe được nhiều điều lành, hiểu nhiều điều tốt, dù điều ấy có lắt léo đến đâu. Rồi bà con xúm đến chúc cho anh tôi trở thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú. Nhưng có lẽ đêm ấy gió mưa đã lấp đi hơi thổi của ông già cùng những lời cầu nguyện tốt đẹp của ông và dân làng. Cậu bé anh tôi cau mặt khóc thét khiến ông già giật mình lùi lại. Cành lá cữ treo trước cửa nhà rớt xuống mặt đất và một luồng gió cuốn ào qua sân làng. Những khuôn mặt đang mừng vui chợt xìu xuống lo ngại điềm báo không lành. Nhưng rồi cậu bé Rơ Lan Thương anh tôi vẫn èo ọt lớn lên trên lưng mẹ, trước ngực mẹ cùng với mưa nắng của núi rừng. Ông già Rơ Chom Đim một lần nữa đặt trước mặt anh tôi nào rìu rựa, tên ná, nào cuốc nhiếc, chinh chiêng và cả một tập giấy. Đó là một buổi sáng trời cao xanh ngoài sàn cửa, khi mẹ tôi ẵm anh tôi hát lên những lời ca chào ngày mới, và chị Rơ Lan H' Tữk lẽo đẽo bám theo gấu váy mẹ cúi xuống hôn chụt vào má anh tôi. Mẹ tôi ngồi xuống trước những đồ vật, chú bé anh tôi đã toài ra khỏi tay mẹ, vơ ngay một tờ giấy. Già Đim đắc chí cười, nói: "Thế là nó thành người xa buôn làng ta để đi học hành rồi con ạ". Chuyện ấy tưởng là chuyện vui, chuyện lành, bởi ở làng tôi có bao nhiêu con người ra đời, có bấy nhiêu cuộc bói điềm như thế. Và cũng không ít chú bé thấy những tờ giấy trắng phất phơ cũng toài người ra khỏi tay mẹ, cầm lên chơi. Ấy vậy mà rồi cha tôi đã làm đúng như điềm báo. Cuộc đi săn thú cuối cùng của ông có đủ thịt chia cho các bếp ăn uống thâu đêm suốt sáng. Và chính cái đêm cả làng say sưa ấy, ông ra đi làm cách mạng. Hơn mười năm sau làng chuyển xuống gần sông, sát vách một hòn núi nhọn, nhiều hang đá thì người ta thấy ông về. Ông về vào một đêm trăng. Dân làng thấy ông cưỡi con ngựa vàng đẫm mồ hôi trông thật oai nghiêm. Con ngựa xông thẳng vào sân làng và chỉ trong vài phút, cậu con trai hơn mười mùa rẫy tuổi của ông được cắp lên mình ngựa. Ông dùng một dây khố hoa quấn chặt con vào lưng mình và trùm kín bằng một tấm dồ trước bao nhiêu con mắt ngỡ ngàng của dân làng. Người ta không kịp hiểu sự việc diễn ra như thế nào, ngay cả mẹ và chị tôi cũng chỉ biết là cha tôi bắt anh tôi đi. Hai người chỉ biết khóc. Chính cha tôi đã đẩy vai mẹ tôi, khi bà bám lấy đoạn dây khố níu anh tôi lại. Còn cậu bé Rơ Lan Thương- anh tôi thì khóc ré lên. Con ngựa nhẩy chồm chồm ngoài sân rồi gác hai chân trước lên sàn cửa, hí vang. Chỉ trong giây lát nó đã phóng vọt ra khỏi sân làng. "Cha nó bắt nó đi không phải để giết nó đâu, con ạ"- Già Đim nói cho mẹ tôi biết- "Cũng may là làng đã làm lễ cà răng cho nó..."- Già tiếp. "Thế là dù nó đi đến đâu, ở đâu và làm gì, nó cũng không quên được con suối Ia Bol đã làm mát khi hòn đá mài răng làm đau đầu, đau óc nó. Nó không quên mày, quên tui đâu
Mẹ tôi cùng chị tôi không kìm được tiếng khóc và những lời trách cứ cha tôi. Dân làng cũng không ít người không trách ông về chuyện bắt Rơ Lan Thương đột ngột. Nhưng chỉ riêng già Đim là cười khà khà, bàn tay già nắm chặt ống điếu, phà khói khen ngợi cha tôi xứng đáng là người đàn ông Gia Rai, là người con của dòng họ Kơ Sor sinh ra trên đồng cỏ. Già cầm cây củi đang cháy đưa lên miệng ống điếu, bập thuốc cho thật đỏ và bảo với mọi người: "Rồi cha nó lại cho nó theo học cụ Nay Đer, người Gia Rai mình đang dạy học trên Kon Tum đấy mà". Tôi chợt nhận ra có bóng một ông già đang cầm ống điếu chỉ lên trời sao dầy đặc, nói nhỏ vào đôi vai gầy của mẹ tôi khi bà đang khóc tấm tức: "Con ạ, nó đang đi trên trời sao kia kìa. Thằng Rơ Lan Thương con mày đang ở trên ấy, gần Việt Minh lắm..."- Ông già cười ý vị khiến mẹ tôi ngửng lên. Bà hỏi ông già: "Việt Minh là gì? Nó ở đâu"- "Việt Minh là cách mạng chỗ thằng Kơ Sor Kơ Mík chồng mày đấy. Sao trời thì nhiều lắm, đếm đâu có được. Nhưng rồi mai mốt nó lại về cho coi". Mẹ tôi chợt nhận thấy phía chân trời xa một vệt sao sáng, có một ngôi sao lóe lên, chao thẳng xuống chóp núi, rồi tắt. Già Đim reo lên: "Nó đấy! Thằng Rơ Lan Thương, con mày đấy, H' Miar ạ". Và mẹ tôi đứng lên, nép sát vào ông già.
Tôi bỗng giật mình nhận ra trên bầu trời lúc này cũng có một ngôi sao đổi ngôi lóe lên rồi lao xuống phía núi xa. Anh tôi lại hiện lên trước mặt tôi và tôi cho rằng, người ta có quyền tin vào những điều mà trái tim mình đang phấp phỏng đợi chờ. Mẹ tôi không bao giờ quên được cái đêm trăng sao ấy, cũng như tôi bây giờ, dưới bầu trời sao, có bao giờ tôi quên được đêm trăng tưởng niệm này không?
Tôi sẽ ngồi đây tới bao giờ nếu không bất chợt nhận ra tiếng ho nặng nhọc của cha tôi từ trong bóng đêm, nơi cuối của khu vườn nhà. Tôi nghe ngóng và hình như cha tôi vừa đang kỳ cạch làm gì đó, vừa nói lẩm bẩm một mình. Rồi tôi thấy bóng ông chập chững bước lại phía tôi. Một thoáng gió lướt nhẹ trên những vòm lá. Từ đâu đó rất xa có tiếng hát và tiếng chinh chiêng vọng về. Đêm thị trấn nhòe nhoẹt ướt ánh trăng, sương giăng dày đặc khắp mọi nẻo. Thỉnh thoảng những vệt sương cuộn tròn lao từ trên nóc những vòm nhà cao và vòm cây xuống lòng đường. Ánh sáng tựa hồ từ trong những hõm tối lượn cong hắt ra. Và gió. Gió lặng đến sững sờ tạo ra những khoảng cách bình yên đột ngột. Rồi gió lại đột ngột xao lên hào hển sát lề đường. Tôi lảo đảo đứng dậy, tìm chiếc chìa khóa mở cổng. Chiếc chìa khóa chị Rơ Lan H' Tữk cho tôi hôm anh tôi mất. Chị lấy từ túi áo Rơ Lan Thương ra và bảo tôi cầm để khi nào về nhà khỏi phải gọi cổng. Tôi mạnh bạo tới bên cánh cổng sắt mở khóa. Tiếng dây xích va loảng xoảng. Cha tôi như chỉ chờ có tiếng va ấy là lao ra. Ông níu vai tôi nói với giọng của người đã ngà ngà say. Mùi rượu tỏa lan khắp cơ thể tôi. Tôi lách người vào hẳn trong cánh cổng. Cha tôi giật tay tôi lại:
- Mày về à con?
- Dạ , con về.
- Mày nghĩ về tao tầm bậy lắm con ạ. Mai mốt mày đi, rồi không bao giờ mày quay về đây nữa đâu!
Tôi nắm tay ông già, lắc mạnh:
- Ba không tự cho rằng chính ba cũng đang giận
con à?
- Mày hỏi tầm bậy, tầm bạ!
- Sao ba nghĩ vậy?
- Tui nói thiệt là mày đang thù cha mày đấy, con ạ.
Tôi giật phanh ngực áo, nắm tay ông, đặt bàn tay cứng và thô của ông lên vết sẹo ăn thề nơi ngực tôi năm nào. Ông bỗng kéo tôi vào lòng. Tôi lặng im một lúc. Ông già buông tôi hổn hển thở rồi đẩy tôi vào theo con đường trải sỏi. Tôi cảm thấy hơi thở của cha tôi không đều và ông lại ho. Có vật gì đấy chận cứng nơi họng tôi ứ nghẹn. Tôi tránh cái nhìn của ông lúc vừa bước lên thềm. Ông lóng ngóng bật công tắc điện. Tôi không nghĩ tôi là tất cả đối với sự tồn tại của ngôi nhà này. Nhưng sự có mặt của tôi góp vào cho mẹ và chị tôi niềm an ủi, niềm vui không thể thiếu. Cũng như cha tôi, ông sẽ coi tôi là nơi trút đổ những suy nghĩ của mình, nếu tôi là con ông. Và điều chắc chắn là dù sao tôi cũng không rời bỏ ông được. Tôi làm sao rời bỏ cha tôi, nhất là khi ông đã về nghỉ hưu như bấy nay chúng tôi mong muốn. Tôi nhẩm đếm từ một tới mười và cảm thấy mười năm qua đi như một thoáng chốc. Cuộc đời Rơ Lan Thương qua đi như một thoáng chốc, như là trong mơ. Nhiều lúc tôi cứ sững sờ tưởng mình vừa ăn cơm, uống nước, vừa làm cái gì đó với anh. Tôi biết cha tôi cũng có nhiều khoảnh khắc thảng thốt như vậy. Tôi đếm được cha tôi mẹ tôi cùng chị Rơ Lan H' Tữk đau khổ thường ngày nghĩ về tôi thế nào, giống như tôi thuộc những con đường mòn len lỏi trong rừng già, trên đồng cỏ, thuộc tiếng gió rít và mùi phân bò. Tôi chưa bao giờ có ý định xa rời hẳn ngôi nhà này, cũng như xa ba con người đau khổ hết lòng thương yêu tôi. Giờ đây mọi sự đã qua rồi. Ông già tôi lại ôm bụng ho. Tiếng ho rất nặng và tôi cảm thấy nhói đau trong ngực. Chính cơn ho kia một phần vì sự vắng mặt của tôi mấy tháng qua tạo nên. Tại sao tôi không về, mặc dù công tác bận, nhưng nếu tôi không nghĩ sai về ông, hẳn tôi cũng khắc phục được mà về với gia đình. Tôi bị cái mặc cảm con nuôi, lại là người khác tộc. Và cái chính là có những thời khắc tôi tự cho mình được quyền phán xét cha. Tôi không về, đó là một hình phạt mà tôi dành cho ông. Nhưng tôi không nghĩ được rằng, mẹ tôi, chị tôi không thể vì thế mà bị "phạt" lây như vậy. Tôi bật khóc. Tôi lặng lẽ xoay người lén lau nước mắt, cố hỏi cha tôi với giọng bình thường:
- Mẹ và chị con ngủ rồi hả ba?
- Ngủ gì?- Cha tôi nói với giọng buồn bã- Về làng rồi. Không chịu được ở đây, về làng rồi, con ạ.
- Sao vậy, ba?
- Bảo ưng làm lụng hơn ở đây chỉ ăn rồi lượm cỏ, nấu nướng, buồn trong người, buồn tay chân lắm!
- Vậy ba tính thế nào?
- Mày hỏi tui à, con? Mày không tính được, bắt cha mày tính chuyện ấy à?
Tôi nắm tay cha tôi kéo mạnh vào ngực mình. Cha tôi hiểu tôi muốn nói gì. Tôi không ngờ sự việc lại diễn ra nhanh thế. Vậy là mẹ và chị tôi đã khoác gùi về làng, bỏ lại sau lưng một cơ ngơi khang trang mà nhiều người thèm muốn. Vả lại, nơi đằng sau ấy lại còn cả ông già tôi với bao nhiêu tâm sự! Tôi khẽ rùng mình nhìn quanh, nhận ra mấy gian phòng mở thông nhau quá rộng. Cái rộng rãi đến mức lạnh ngắt tạo cho tôi cảm giác sờ sợ. Tôi thực sự lo ngại cho cha tôi. Thời gian trước ngày Rơ Lan Thương mất, trước ngày ông về hưu, cha tôi vẫn sống ở căn phòng sát đầu hồi của nơi làm việc. Ông quen sống tập thể, quen ăn bếp tập thể hơn ở nhà. Chính vì sự đơn giản của cha tôi đã đẩy ông tới cuộc sống đơn độc hôm nay. Những ngày vừa qua cha tôi sống thế nào trong khi quay ra, quay vào, nhà rộng, vườn rộng mà chỉ có mình với cái bóng mình? Những cây bơ, cây vú sữa sum sê kia có giúp gì được cho ông già tôi vui hơn không? Tôi nhớ hôm ông điện cho tôi và Rơ Lan Thương về coi ngôi nhà được huyện ủy phân. Chúng tôi khấp khởi mừng là thế nào cha mình cũng đưa chị và mẹ về cùng ở, tĩnh dưỡng tuổi già. Và đúng là cha tôi cũng nghĩ thế nên ông mới nhận. Ông xách ba lô về đặt trên nóc cái tủ gương cơ quan cho. Mẹ tôi và chị tôi cũng về. Hai người đeo hai cái gùi cùng những đồ đoàn lỉnh kỉnh, đặt nơi góc phòng. Hội phụ nữ huyện, hội phụ nữ thị trấn cử người tới thăm, động viên mẹ và chị tôi. Thậm chí các chị còn biếu mẹ và chị tôi mỗi người hai bộ áo váy mới. Ai cũng nghĩ rằng gia đình tôi sẽ rất hạnh phúc. Tôi và Rơ Lan Thương càng mừng hơn. Chúng tôi cho rằng, từ nay mẹ và chị tôi được sống những ngày nhàn nhã, đỡ tẻ nhạt...
- Bảo thủ quá, con ạ.- Cha tôi buồn bã nói- Mai mốt mày phải về buôn vận động lại mí và chị mày thôi.
Tôi nhận thấy cha tôi đã hoàn toàn bình tâm và ông linh hoạt hẳn. Tôi bước vào căn phòng của mẹ và chị. Căn phòng hơi dài, kê hai chiếc giường một hai bên. Ở giữa nền đá hoa có một đống tro tàn và hai gộc củi. Dưới ánh điện lờ mờ, căn phòng bốc lên mùi ẩm mốc. Tôi thoắt nhận thấy trần nhà ám khói loang lổ và dưới chân tường, những mẩu lá chuối khô quắt, chắc mẹ và chị tôi dùng để quấn thuốc hút cùng mấy quả bầu khô lăn lóc. Những quả bầu dùng để đựng nước thường ngày tôi vẫn thấy trên các sàn nhà ngoài buôn làng, sao hôm nay nó nằm ở đây, gợi lên một cái gì đấy thật không chút bình thường. Thế là mẹ và chị tôi đã ra đi và giờ đây, hẳn nơi sàn cửa, những quả bầu được về đúng vị trí của chúng. Tôi hình dung thấy mẹ và chị đang quấn dồ ngủ bên bếp lửa yên lành. Và trên giàn bếp, mẹt thóc vàng ươm đang được hong khô cùng mấy xâu thịt tái mét. Nơi sát vách phên nhà, những cái nồi đồng tỏa ra một vẻ no đủ âm thầm đầy quyến rũ cùng mấy cọng rau bí vương vãi cạnh những chiếc gùi căng phồng những đồ dùng của một gia đình. Ở làng mới định cư, nơi mẹ và chị tôi đang cùng bà con buôn làng làm ăn sinh sống, nhìn từ bề ngoài vào có cái vẻ khang trang thật hấp dẫn. Những căn nhà sàn gọn ghẽ và những khoảnh vườn rau tươi tốt. Những chú heo bò đã có chuồng cùng những bầy gà không còn lang thang khắp bản bới dãi lung tung. Trong mỗi căn nhà, sự đổi thay tuy chưa nhiều nhưng cũng đã nhận ra nó đang có sự cựa quậy chuyển mình. Những bộ chinh chiêng được bọc trong những bao đan bằng mây treo trên vách. Những ché rượu không còn phơi ra cả dãy quanh nhà mà được xếp ở nơi kín đáo. Những tập quán cũ vẫn còn, nhưng được tiến hành với nghi thức mới. Tôi thích lễ hội ngày mùa, làng tôi rước "Mẹ Lúa" bằng xe bò về cùng ngày hội đâm trâu mừng thắng lợi. Tôi đứng trên sàn cửa ngắm nhìn những cây gưng-ga(1) vút cong mang hình những bông lúa khổng lồ, rập rình cùng tiếng hô reo của bà con khi các chàng trai để trần, đóng cái kơ-tel (khố) của ngày hội múa khiên đánh trống. Những nhịp chinh chiêng chuyển bước nhảy cho những con người yêu thích tự do. Mẹ và chị tôi không rời bỏ được buôn làng, không rời bỏ được những ngày vui và những ngày vất vả trên ruộng đồng có phải là do bảo thủ lạc hậu không? Hay chính cái điều mà cha tôi vừa nói chỉ là ý muốn của ông, của tôi, và điều ấy lại thật là lạc hậu! Tôi đã ít nhất có một lần mừng rỡ nhận thấy bóng chị tôi cùng mẹ tôi ríu rít quanh cái máy tuốt lúa giậm chân. Chị tôi uốn mình đạp lên bàn đạp và hai người cùng đưa những bó lúa lên, lúa rụng rào rào. Rõ ràng chị và mẹ tôi rời bỏ nơi này không phải chỉ vì nhu cầu hưởng niềm vui thích của những ngày hội hè, mà còn mong được cùng bà con làm lụng. Tôi nhận ra tôi sẽ không thể thực hiện yêu cầu của cha đối với mẹ và chị mình. Vận động mẹ và chị tôi về ngôi nhà này ở không phải làm cho gia đình tôi trở nên yên ổn hơn. Cha tôi bây giờ đã khác trước, ông không thể muốn nói gì, làm gì đối với mẹ và chị tôi cũng được nữa. Và điều ấy khiến tôi vừa buồn nhưng cũng lại vừa yên lòng. Những mong muốn hôm nhận nhà mới của cha tôi, cả tôi và Rơ Lan Thương, bây giờ mẹ và chị tôi đã trả lời. Cái đúng, cái sai không phải tự nó đến, cũng không phải con người cứ mong mà nó hiện lên. Chỉ có làm và chỉ có hoạt động mới biểu hiện được cái đúng, cái sai của tư tưởng. Và cũng chỉ có như vậy ta mới nhận ra mọi nhẽ và sửa đổi. Cha tôi kéo tay tôi ra phòng ngoài, ấn vai tôi ngồi xuống ghế trước chai rượu thuốc và hai cái li nhựa. Ngày còn công tác ông chỉ uống rượu cần lúc liên hoan hội hè, mà chỉ uống làm phép cho vừa lòng anh em bà con. Bây giờ ông trở lại uống rượu nấu. Rượu cần có lẽ không đủ cho ông thay đổi trạng thái lúc nào cũng cô độc, khiến ông thảng thốt như người hụt hẫng. Ông loay hoay cắm bếp điện và lấy miếng thịt nai khô ra nướng. Tôi hình dung thấy bóng cha tôi mỗi buổi chiều lụi cụi nấu nướng mà lòng chợt se thắt. Tôi ngoái nhìn qua khuôn cửa sổ rộng, khu vườn nhà tôi bây giờ cỏ đang lấn át những cây cà phê mới lên ngang tầm thắt lưng. Tôi không tin cha tôi là người có thể làm vườn thành thạo. Và thậm chí ông không hề thích thú công việc làm vườn. Ông là người ham thích hoạt động. Tôi có cảm giác làm vườn và ở một mình thế này đối với ông lại là một cực hình. Có lẽ cha tôi đang mất dần đi những niềm vui mà ông hằng vui thích, và ông đang tính cách để thoát khỏi ngôi nhà ảm đạm này. Khi chiều, nơi giữa cuộc mít tinh trọng thể, khi Rơ Chăm Rót giới thiệu cha tôi lên ngồi ghế chủ tịch đoàn, tôi tình cờ nghe được những lời nói về cha tôi của nhiều người. Những lời nói thiếu hẳn sự kính trọng. Người ta kể cho nhau nghe rằng ông hay đi lang thang trên đồng cỏ, với cây rựa trong tay, hy vọng tình cờ gặp ai đó, ông sẽ hỏi họ với đúng cái giọng của đồng chí bí thư, như trước đây ông vẫn thường hay hỏi. Ông thích thú gặp một toán cán bộ cùng đi đâu đó về, và ông hỏi công việc, rồi kiểm tra công việc như chính ông đang điều hành bộ máy hành chính của cái huyện này. Chỉ đến khi bỗng dưng ông thấy người ta tản ra hoặc thậm chí có ai đó nhắc khéo ông rằng, ông không còn trách nhiệm gì với họ nữa. Và thế là ông giật mình nhận ra mình đã về hưu. Nhưng về hưu rồi là hết à? Không thể nói như vậy, và ông lại gọi họ để giảng giải công việc họ đang làm. Tại sao lại dám coi thường ý kiến của ông? Ông vốn vẫn nghĩ rằng ông là bí thư huyện ủy, vậy công việc gì nội trong cái huyện này ông đều phải biết. Đến hội nghị giáo dục của huyện, ông có thể huấn thị cho các thầy cô giáo phải làm gì trong năm học tới. Đến công ty thủy lợi, ông cũng phải huấn thị và đó là thói quen làm việc của ông. Tôi thừa biết những người nói giễu ông, chỉ cách đây vài tháng, khi thấy bóng ông từ xa đã lo chuẩn bị những câu trả lời ngọt xớt. Và cha tôi đã hài lòng với họ. Người ta kính nể ông vì ông là bí thư huyện ủy. Tôi không tin những lời người ta vừa nói. Tôi biết cha tôi vẫn thường đi lại cơ quan và đã đôi lần ông nhắc nhở cán bộ cơ quan như trước đây ông vẫn hay nhắc nhở. Thế thì đã sao? Người ta có quá lời với ông không khi mà mỗi lần chiếc xe con của huyện ủy vụt qua trước cửa nhà? Người ta đã thấy bóng ông đứng thẫn thờ trong vườn nhìn ra. Thậm chí có lần ông đã không chịu nổi khi thấy cậu lái xe vốn không ưa gì tính ông, đã đánh xe sát cổng nhà, bóp còi inh ỏi. Cậu ta còn giả vờ vào nhà thăm chơi với cái vẻ đắc thắng, ranh mãnh của tuổi trẻ. Người ta còn nói rằng, những nhân viên của cơ quan huyện uỷ, mỗi lần gặp ông, tuy vẫn chào hỏi vồn vã, nhưng chính ông mang nặng quá nhiều mặc cảm, khiến họ khó xử. Người ta kháo rằng ông không tin mọi người còn kính trọng ông, theo cái nghĩa kính trọng một con người có nhiều công lao đóng góp với quê hương. Rằng ông chỉ cho rằng họ nể ông vì tuổi tác. Nếu đúng như vậy thì đã sao? Nhưng người đời vốn không ưa sự việc lại cứ diễn ra một cách bình thường. Người ta ưng giũ rối cho sự việc không còn trật tự. Việc cha tôi về hưu và Rơ Chăm Rót lên thay, lẽ ra phải cho đó là điều bình thường, là chuyện tất yếu. Nhưng ngay cả tôi nữa, đôi lúc nghĩ tới điều đó tôi cũng cứ còn bị cái cảm giác nuối tiếc, buồn buồn.
- Làng mình bây giờ làm ruộng hết rồi con ạ. Lúa tốt hung quá. Mí và chị mày ưng về cắt lúa hơn ở đây mà.
Tôi nhìn cha tôi cầm những miếng thịt nai mỏng lật lật trên bếp điện, khói bốc thơm lừng mà cảm thấy vui vui. Tôi nói:
- Ba về làng với mí và chị, có khi lại hay hơn ở đây.
- Thế bỏ nhà này cho ai?
- Lo gì, ba? Bảo chị H' Thoan về ở.
- Chị mày, mí mày không ở, còn lâu nó chịu về ở. Mà nó còn bắt chồng nữa chớ. Hôm qua hôm kia nó có ghé về đây. Khóc miết miết, ớn quá. Mà nó khóc gì chứ? Nó nói ngày còn sống anh Rơ Lan Thương mới chỉ hiểu nó một nửa.
- Thế ba nói sao?
- Nói gì? Nói chi cho mệt!
- Chị ấy cứ muốn người ta hiểu mình, còn mình thì không cần hiểu ai cả!- Tôi nói.- Thằng nhỏ ra sao, ba?
- Nó gửi mí mày và chị mày, lên đây một mình.
Tôi xé thịt nai bày lên đĩa và rót rượu ra li, chủ động đưa cho cha tôi và đề nghị ông uống từ từ. Tôi nghe rõ hơi thở rè rè nơi lồng ngực rộng của cha tôi và cảm thấy tuổi già đang lấn át ông. Tôi không muốn cha tôi phải nhớ đến tuổi tác của mình. Nhưng thời gian đâu có khoan nhượng ai? Tôi nhắc lại một vài chuyện, pha thêm trò cho vui, những ngày cha tôi còn làm bí thư xuống buôn làng, và nhất là ông ưng lấy chính làng tôi làm thí điểm. Cái chuyện dãn cư dời một số gia đình sang bên kia suối I A Rơ Boong. Bây giờ ông đã nhận rõ vì chính ông cũng chẳng hay biết gì về phong tục tập quán. Cái tục dời nhà cũ sang khu đất mới mà khu ấy đã có một thời người ta cư trú. Đó là những rơngonl với những ngôi nhà mồ vô chủ khiến bà con phản đối. Ấy vậy mà dân làng đã buộc phải nghe theo. Đêm đêm những người già thường tới nhà tôi vào lúc ông ngủ say. Họ cúng Giàng cho ông. Họ đổ tội cho ông rằng chính ông đã làm các thần linh giận. Ông hoạt động suốt ngày nên khi ngủ, ông thường ngủ rất sâu. Có lần tôi nghe được trong lời cúng bái, người ta còn gọi ông là "hung thần"- coi ông cũng là một loại thần linh. Hơn thế, họ còn coi ông là một loại "ma"! Tôi biết, tôi nhắc lại lúc này ông không hề giận, vì đó là điều ông đang nghĩ lại một cách nghiêm chỉnh. Tôi còn nhắc lại chuyện ông cũng như dân làng thường ghét cái thói hay mua bán, đổi chác của một số cán bộ trên tỉnh về cơ sở. Tôi kể lại câu chuyện có một lần anh chàng trưởng ty hay trưởng ban nào đó về làng tôi, sau khi thăm hỏi bà con đã "đánh quả" bắp hạt bằng cách gợi lại tình cảm cũ với dân làng. Bà con phấn khởi quá, có người còn cao hứng bảo rằng, ngày đánh Mỹ, cán bộ chúng mày, ai ra chốt ở đường nhựa thì đều được ưu tiên, vì đó là phía trước. Bây giờ hòa bình rồi, ai từ trên tỉnh về xã cũng là đi phía trước, cũng cần được ưu tiên. Thế là chẳng ai tiếc gì cả. Người ta khuân đến cho anh chàng nọ mấy tải bắp liền một lúc. Hôm ấy, tình cờ cha tôi cũng về làng. Biết chuyện mới xảy ra, ông đã lệnh cho giữ số bắp ấy lại! Nghe xong cha tôi cười rất to và đưa li rượu lên môi, uống một hơi cạn. Tôi có cảm giác cha tôi rất khoái trá vì tôi hiểu được ông, nhắc lại thành tích của ông. Nhưng rồi ông bỗng ngồi thừ ra như vừa chợt nghĩ lại, nhớ ra mình bây giờ không còn phải lo những công việc tưởng như vặt vãnh ấy. Thời gian là cái gì đấy thật tàn nhẫn, thật khiêm nhường. Suốt mấy chục năm qua, cha tôi hoạt động quên cả tuổi già. Tôi dám chắc chỉ vài tháng trước đây, ông không hề chú ý tới những sợi tóc muối tiêu của mình đang lạnh toát chuyển nhanh sang màu trắng. Cha tôi cũng không nhận ra cái ranh giới giữa sức khỏe và tuổi tác. Cũng vì thế, ông không nhận thức đúng hoàn cảnh của mình, năng lực của mình. Tôi buồn bã nhớ lại những lần anh em tôi bị ông công kích. Ông cho rằng tuổi trẻ chúng tôi bây giờ ích kỷ hơn tuổi trẻ của ông. Rằng đến đâu cũng chỉ thấy nhậu nhẹt, trà lá vô bổ. Tuy nhiên, thực chất cả tôi và Rơ Lan Thương, hai thằng con yêu quý của ông chỉ là may mắn cũng còn biết giữ mình, đã không có chuyện sa đà. Ấy cũng vì có sự kìm giữ của ông. Nếu không, biết đâu đấy, chúng tôi cũng thành những trí thức ham vui chơi nhảy nhót? Tôi không hiểu cha tôi tại sao cứ hay biểu hiện cái tình cảm vừa lo lắng vừa răn đe chúng tôi như vậy, mặc dù Rơ Lan Thương đã có vợ, có con, và tôi cũng không còn bé bỏng gì. Rơ Lan Thương ít nói. Thậm chí anh chỉ nói điều gì cần thiết khi đã suy nghĩ kỹ. Hoặc đột nhiên có sự kích thích mạnh khiến anh phải bộc lộ chính kiến của mình. Phần nhiều những ước vọng của anh, anh đều tâm tình với tôi. Có lần anh chủ động tìm tôi xin tiền vì anh thiếu một vài thứ cần thiết cho việc thực nghiệm công trình. Chị Kơ Pă H' Thoan, người vợ mới cưới của anh làm mậu dịch viên đã phản đối việc làm của anh ngay sau hôm cưới. Chị cho rằng công việc của anh chẳng đem về được cho gia đình chút lợi lộc gì. Tôi ít thích chị H' Thoan. Tôi nhớ hôm hai người nhí nhảnh tới báo tôi ngày cưới, tôi đã cảm thấy ông anh tôi có cái gì đấy không được tự nhiên. Tôi cũng chỉ biết thương cho ông anh hiền lành tốt bụng của mình. Cha tôi vì bận họp thường vụ không về cơ quan anh dự lễ cưới. Nhưng mẹ và chị tôi đã gùi hai ghè rượu ngon lên thị xã, và hai người cũng chỉ ở lại một đêm. Tôi biết tính chị H' Thoan xưa nay vẫn ham thích những cuộc vui chơi nhảy múa, uống rượu cần. Chị không thích nhảy những điệu nhảy truyền thống. Chị thường thích nhảy theo nhạc Disco hay nhạc Jazz hơn. Chị nhảy đẹp và hát hay. Chị ưng được nghe những lời khen trực tiếp và tôi cho rằng đó không phải bản tính xấu. Nhưng chị tôi quá ý thức về mình, ngay cả trong sinh hoạt gia đình. Chị coi hai anh em tôi như là thứ người sống tách rời khỏi đời sống của xã hội. Cái quan niệm sống trong xã hội của chị là gì? Nếu không phải là chỉ biết lo vun vén cho bản thân, bon chen với đời sống để tìm cho mình cách hưởng thụ vừa hợp lý vừa yên ổn. Tôi không ưa nghe chị tôi nói trong bất cứ trường hợp nào. Tuy nhiên, về mặt nào đó chị tôi lại là người rất chu đáo. Chị sống hồn nhiên ngay sau khi có chuyện gì đó không vừa lòng. Tôi thích nghe chị hát, xem chị nhảy múa hơn là nghe chị nói. Những cuộc vui, chị bắt anh tôi ôm sát eo chị, và chị gục khuôn mặt tươi sáng của mình vào ngực anh, bíu hai cánh tay trần đen bóng chắc lẳn lên đôi vai rộng, chậm chạp của anh tôi. Ông anh tội nghiệp của tôi không biết nhảy, nhưng vẫn phải chiều chị. Anh khẽ đung đưa một cách khó nhọc tấm thân đờ đẫn của mình, và nhoẻn cười theo chị một cách ngớ ngẩn. Đó là hình ảnh ngày cưới của hai người và tôi cho rằng, thôi thế cũng là hạnh phúc. Hôm ấy không hiểu sao tôi bỏ dở chừng ra về. Tôi đi lang thang trên con đường mòn lấp lánh sỏi tới căn phòng bé nhỏ trong khu tập thể mà tòa báo của tỉnh dành cho để ở và làm việc. Nhưng tôi không mở nổi khóa, giống như kẻ chạy trốn nhưng rồi biết mình không trốn nổi. Và thế là tôi quay trở lại phòng cưới. Đã khuya lắm rồi, đường phố vắng tanh. Trên những vòm thông thỉnh thoảng có tiếng sương rơi, mùi dạ hương từ đâu đó chuyển sang găn gắt. Anh tôi đang ôm bụng nôn trước cửa còn bà chị dâu của tôi ngồi bên cười rũ rượi. Tôi tỏ thái độ khó chịu và dìu anh vào phòng. Nhưng chị đã chặn lại, bảo tôi không được phép coi thường chị. Từ nay chị là người coi sóc anh tôi. Tôi lảo đảo bước ra và có tay ai đó kéo tôi lại gần ghè rượu. Tôi bị ép uống liền hai can và sau đó bốc lên, chính tôi đã làm chủ cuộc vui cho tới sáng. Tôi say sưa hát những bài hát cổ mà tôi thuộc từ ngày còn đi công tác cơ sở bà con dạy cho. Tôi nhảy những điệu dân vũ thời xa xưa và cả bây giờ dân làng còn nhảy múa. Chắc hẳn đêm ấy tôi nhảy đẹp và hát khá hay, khiến nhiều người sau này vẫn còn tấm tắc khen. Tôi và bà chị dâu còn có cuộc tranh luận bên ghè rượu thật khôi hài. Chị cho rằng tôi muốn kéo con người trở lại thời hoang sử. Còn chị, chị muốn đẩy con người bay vút lên mặt trăng! Tất cả những lý lẽ ấy tôi đổ lỗi cho mấy ghè rượu, vì chính chúng đã tạo nên cái không khí cần thiết để diễn đạt tư tưởng của mình, tình cảm của mình, không hề e ngại. Tôi hát những bài ca, ca ngợi rượu cần, và con người đã sáng tạo nên chất men kỳ diệu của núi rừng, cố ý lấn át những lời to tát của bà chị. Rơ Lan Thương trong bộ complet và bà chị dâu mặc áo dài tha thướt. Tôi phản ứng bằng cách nhờ ai đó đóng cho cái khố hoa ngày hội, để trần và tôi nhảy nhót như một thằng hề. Tôi thích làm tất cả những gì ngược lại với chị, chỉ để trêu tức. Chị tôi biết rõ điều đó. Và tôi cũng đã nhận ra. Những bộ đồ không nói được gì cho tư tưởng của con người, có thể nó chỉ làm thỏa mãn chốc lát khi ta có những ham muốn hẹp hòi. Tôi ngồi ôm gối hát, mặc cho bà chị dâu mắng mỏ, bảo tôi có ý bôi bác cuộc vui. Tuy nhiên sau chót của cuộc vui, chị em tôi trở nên hoà thuận và cùng nhau hát múa. Chỉ có những làn điệu dân ca trong sáng mới thu hút hết được tâm tư và tình cảm con người. Chuyện ấy đã cách đây mấy năm, vậy mà bây giờ mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn cảm thấy ngượng vì chính tôi là người thua cuộc. Có lẽ vì tôi thương yêu anh tôi quá mà nhiều lúc tỏ ra khó chịu với bà chị dâu. Những ngày chủ nhật, anh chị thường bảo tôi về nhà ăn cơm. Chị mua khá nhiều thịt, xào nấu rôm rả. Còn anh em tôi chỉ biết nằm dài đọc sách. Chị rất thích được nghe ai đó bình luận về chị- nhất là bảo chị cứ như người Kinh. Thỉnh thoảng chị quát mắng anh tôi trước mặt tôi như mắng con nít. Chị làm lụng luôn tay và luôn miệng nói. Tôi không ngờ được mấy năm qua chị thay đổi nhanh thế. Chả biết ở cơ quan chị làm việc thế nào, mà về nhà, chuyện gì chị cũng có thể tham gia. Ở đời, có những con người cái gì cũng biết, nhưng lại chẳng biết cái gì cả! Chị bảo công trình nghiên cứu giống cây phủ xanh đồi trọc của anh tôi chẳng qua là do anh tôi lười lao động, lười đủ thứ mà bày ra những công việc nhảm nhí, quan trọng hóa nó lên! Rằng anh tôi như người ta thì ít nhất cũng phải làm tới chức phó giám đốc sở hoặc giám đốc một công ty nào đó. Rằng chỉ vì anh tôi huyễn hoặc về cái bằng kỹ sư của mình mà tách rời thực tiễn đời sống, để chị khổ. Ít có người con gái Gia Rai nào như chị. Mà chị tôi không hề để ý tới lời nói của mình. Đồng lương của hai anh em cộng lại rõ ràng không bằng một phần thu nhập của chị. Chị khẳng định anh em tôi thiếu chị, có khi phải đóng khố! Chị cứ hay quá lời và tôi hay chấp nhặt nên ít nhất một vài tháng cũng có dăm ba lần tôi tranh cãi với chị, giận dỗi chị. Chị coi tôi là một thằng em ngang bướng, không biết cách ứng xử. Đã có lần chị bảo tôi là đồ vô tích sự. Rằng nếu có "tích sự" thì phải kiếm cái nghề gì cho nó ra nghề mà làm ăn. Rằng có làm báo với hổ gì thì cũng phải lo tính toán cho cuộc đời tư của mình. Có việc lấy vợ mà không lo được, hỏi còn ba hoa cái nỗi gì. Rốt cuộc, những lần cãi cọ bằng hai thứ tiếng ấy chỉ để lại những ấn tượng chả hay ho gì. Cả hai đều sa vào tình trạng lợi dụng vốn ngôn ngữ không phải gốc của mình để nói thẳng và thậm chí, độc miệng hơn! Chị giễu tôi chán rồi kể cho tôi nghe một câu chuyện xảy ra ở công ty chị. Mới đầu tưởng chuyện ấy chẳng liên quan gì tới nghề làm báo của tôi. Nhưng sau cái chuyện ấy, tôi nhận ra là có. Ấy là cách đây vài tháng có ba anh chàng nhạc sĩ "rởm" tới "đánh quả" nghệ thuật rất tài tình. Ông giám đốc công ty chị mới đầu không có ý định gì to tát- nhất là văn nghệ với lại tuyên truyền! Những tay "nhạc sĩ có tên tuổi"- tức là có đôi ba bài hát được in ở báo nào đó, hát cả trên sóng Trung ương, đã tán rất thần tình. Chính chị được chứng kiến buổi tiếp xúc đầu tiên giữa Ban giám đốc và các "nhạc sĩ", vì chị phụ trách đội văn nghệ của công ty sắp đi hội diễn, nên được mời lên. Tay "cai đầu dài" có cái tên Tuấn Nhã ấy vừa cao, vừa to, tóc quăn, da đen, mặc complet, vừa oai vệ vừa có "dáng nghệ sĩ" luôn luôn xòe hai bàn tay to như tay quỷ ra bắt rất chặt tay mọi người. Sau cái bắt tay ấy, ai cũng cảm thấy rờn rợn. Nhưng nó cũng tạo nên sự hấp dẫn khác thường! Chị thừa nhận rằng, đến như chị cũng phải mê hắn vì hắn nói hay quá. Rằng công ty ta là "bà nội trợ của nhân dân". Rằng nền văn hóa văn nghệ của Đảng gồm ba lực lượng: Chủ lực- chỉ lực lượng sáng tác của các nghệ sĩ Trung ương. Địa phương- chỉ các anh chị em sáng tác chuyên nghiệp cấp tỉnh. Và đến thứ nữa là lực lượng du kích! Hắn vỗ ngực: Du kích như chúng tôi "đánh" nhỏ lẻ nhưng phục vụ kịp thời. Rằng chiến thuật du kích vừa ít tốn kém, lại có hiệu quả nhanh. Hắn không đặt vấn đề tiền nong! Tiền nong chỉ là thứ yếu! Nhưng hắn lại gợi ý khéo bằng cách kể về sự đón tiếp linh đình ở một vài nơi- tất nhiên là do xuất phát từ tình cảm! Hắn tuyên bố rằng, xây dựng đội văn nghệ nghiệp dư đối với hắn là sự nghiệp, là chuyện tâm huyết. Rất tâm huyết. Rồi xoáy thẳng vào mặt ông giám đốc háo danh: "Đồng chí để lại cho thế hệ sau cái gì? Cái gì cũng qua đi đồng chí ạ. Nhưng nghệ thuật thì còn mãi mãi! Biết đồng chí rất nhiệt tình với văn nghệ- Hắn lim dim mắt tán dương- Vậy chúng tôi xin một lòng ủng hộ. Trước mắt ta phải xây dựng được một đội văn nghệ với những tiết mục thật rôm rả, do chính chúng ta nói lên thành tích của chúng ta. Hãy để lại những băng nhạc có tính thời đại- hơi thở của thời đại- Hắn nhấn mạnh. Thịt cá, rau quả, vải vóc, các mặt hàng của công ty ta, đặt vào nó những nốt nhạc, nó sẽ ngân lên, chắp cánh cho tình cảm trong sáng của con người". Hắn chủ động cười một cách hồn nhiên và cả Ban giám đốc của chị cùng cười hồn nhiên! Rồi hắn đằng hắng, lấy giọng, xin hát ngay một bài hát theo hắn là rất lạ về một đề tài quen thuộc. Đó là bài "Tình ca xe bồn" hắn viết tặng cho Công ty vật tư Tổng hợp! Hắn ngửa cổ hát và bàn tay to của hắn gõ nhịp rộn rã xuống mặt bàn. Hắn ngưng hát và bảo, ngay bây giờ, trong đầu hắn đã và đang hình thành một tứ thơ với những giai điệu mới, những tình cảm mới, thật trong sáng- cái trong sáng chân thành của người nghệ sĩ về những con người mà hắn đang tiếp xúc... Ấy vậy mà ông giám đốc của chị cứ ngồi thuỗn ra như tượng nhà mồ. Rồi ông ta cao hứng gọi bia, gọi đủ thứ nhắm chi cho cuộc họp mặt thân tình ngoài những kế hoạch chi tiêu tiếp khách đã dự trù. Từ hôm đó giám đốc của chị cứ như hình với bóng "cung cấp tài liệu" cho các "nhạc sĩ"! Trong ba ngày đầu, ba "nhạc sĩ" xài ba két bia, kèm trăm trứng vịt lộn và "đẻ" được những sáu bài hát! Kể đến đây chị tôi bỗng cười rũ rượi và anh tôi tỏ ra khó chịu, còn tôi thì thích thú. Ít khi bà chị dâu của tôi hào hứng thế. Và ít khi tôi thấy chị tinh ranh, hóm hỉnh thế. Thì ra chẳng phải chị tôi chỉ chỉ trích anh em tôi, mà hôm ấy, chị diễn rất đạt vai các "nghệ sĩ". Tôi thích thú và nhận ra bà chị dâu không phải chỉ quan tâm đến những cái vặt vãnh của miếng cơm manh áo. Rõ ràng trong giọng của chị, cách diễn đạt của chị toát lên cái vẻ ghê tởm thực sự những kẻ lợi dụng nghệ thuật để lừa kẻ ngu dốt, háo danh. Chị còn vui vẻ hát bài hát "Tình em cô gái bán hàng" với cái giọng giễu cợt khiến tôi cười đau bụng: "Ơ ơ ờ ớ ơ... Em đi sớm về khuya ờ khuya... Núi rừng ờ rừng ơ mở cửa... Tình em ơ là tình em chan chứa... ớ ơ ờ ớ ơ... ế ê ề ê...".
Anh tôi không chịu nổi đã đứng bật dậy, vung tay, một cái li trên bàn rớt choang xuống đất, khiến chị im bặt. Tôi không hiểu chị nghĩ gì, nhưng chừng một phút sau, chị lại cười rũ rượi, rồi bảo tôi:
- Công ty chị tốn cỡ dăm ba trăm ngàn để có được năm băng nhạc. Có cả ca sĩ Trung ương hát nhé. Có cả Đài Tiếng nói Việt Nam phát nhé. Đó là những bài hát "cỡ cuốc gia" do các nhạc sĩ "du kích" sáng tác. Trong vòng nửa tháng, các "nhạc sĩ" cũng đút túi được đôi ba chục ngàn, chưa kể tiền ăn nhậu.
Rồi chị bình luận:
- Chú thấy không? Gà công nghiệp cũng không đẻ nổi ngày hai quả trứng. Lẽ ra phải đề nghị với tổ chức điều các "nhạc sĩ du kích" ấy về trại nuôi gà đẻ mẫu, cho gà nó biết đường mà sinh nở...
Quả tình tôi chưa bao giờ thích thú và có cảm tình với bà chị dâu chua ngoa của mình như hôm ấy. Tôi không biết cái cân ở quầy hàng chị có phải là cân không, hay đó chỉ là cái kim biết nhảy vào những con số theo ý thích người sử dụng nó, để rồi rốt cuộc, những con số ấy đã làm tăng thu nhập cho chị, đẩy chị tôi đến cái tính cách khác thường... Con người ta thật khó mà tự biết mình thế nào. Chị tôi làm như tôi và anh tôi ngốc nghếch đến mức, nếu không có chị, hẳn anh em tôi chỉ biết sáng cắp ô đi tối cắp về! Chị tôi không để ý rằng tôi đang sống độc thân, và vì vậy, thường ngày tôi phải giương hết cái "ăng-ten" lên thu lượm những điều mà đời sống tiêu cực đang ập tới, để rồi lóc nó ra, tìm kiếm niềm vui trong công việc. Ba anh chàng "nhạc sĩ" kia đã có lần tôi tình cờ gặp trong buổi họp cộng tác viên đài phát thanh của tỉnh. Tôi đã không chịu đựng được hết buổi họp vì phải nghe quá nhiều lời ca ngợi cuộc sống mới. Rằng trên mũi nhọn của cuộc sống ở các công nông trường vẫn đang nảy nở những nhân tố mới. Đó thực là những bông hoa tươi thắm trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa! Tôi bị ám ảnh và không hiểu sao, cứ hình dung thấy ba "nhạc sĩ" ấy biến thành ba con đười ươi, đang cầm tay các ngài giám đốc háo danh tụng ca mặt trời, nhưng kỳ thực, chúng chỉ tụng ca khi mặt trời chiếu sáng. "Kinh khủng!"- Một cộng tác viên cùng bước ra khỏi cửa câu lạc bộ, nói. "Ông là nhà báo, ông thấy có tởm không?".- "Tởm cái gì?"- Tôi giả vờ không để ý câu hỏi của anh ta, hỏi lại. "Tởm bọn ruồi bu, nhặng vo ve ấy?". "Biết làm thế nào được"- Tôi nói- "Thịt không hôi thì ruồi chả bu!". "Đếch phải"- Anh bạn tôi nói- "Thịt có thơm ruồi nó cũng bu ông ạ". "Vậy chúng ta phải đập chết mẹ cái thứ ruồi nhặng vo ve ấy!"- "Nó nhiều lắm ông ơi"- Anh bạn tôi nói- "Nhưng nhất định chúng ta phải đập!". Rồi anh kể cho tôi chuyện ngày khánh thành nhà lưu niệm Bác. Ba con đười ươi ấy cũng đã ôm đàn tới "phóng tác" rất nhanh ba bản nhạc không cần thù lao, để tặng cho tỉnh ủy. Ấy thế mà rồi không biết bằng cách nào đó, chính ngài giám đốc của nhà lưu niệm đã tìm cách "tặng phẩm" cho những tấm lòng nhiệt thành ấy không dưới mười ngàn! Sự tồn tại của tổ hợp "ba nhạc sĩ" nọ dựa trên cái gì không ai phân tích được cho nó ra ngọn ngành. Những kẽ hở của cơ chế, đôi lúc tưởng như đó là những con đường có cả cổng chào, những kẻ cơ hội thi nhau chen chúc nhào vô kiếm chác. Đó là những kẻ luôn miệng ca tụng Đảng và luôn luồn tay móc túi nhân dân. Tôi nhìn cha tôi đang ngồi trên ghế ngủ gật mà lòng chợt se lại. Cái cổng chào kia có phải chính những con người như cha tôi ngồi đây đã dựng nên không? Và chính nó đã quần cho ông cả chục năm trời nay đến rã rời, mệt mỏi? Tôi rón rén đứng dậy thu dọn bàn và cha tôi choàng tỉnh. Ông ngỡ ngàng nhận ra trong nhà hôm nay có thêm người. Tôi bảo cha tôi đi ngủ, nhưng ông còn có vẻ nấn ná, dang tay ngáp dài rồi đứng dậy, rồi lại ngồi xuống, cầm li rượu khi nãy uống dở đưa lên môi. Đâu đó như ngoài cổng có tiếng người lao xao. Rồi lại im lặng. Ông bảo tôi ra cửa xem chừng. Tôi nhận thấy ai đó đang lưỡng lự như có vẻ bước đi, thấy tôi ra liền quay lại:
- Thương đấy hả?- Tiếng anh Rơ Chăm Rót.
Tôi mừng rỡ chạy ra mở cửa kéo anh vào. Giờ này đã khuya lắm rồi mà anh còn đến với cha tôi, tức là anh rất hiểu ông. Tôi bấm mạnh cánh tay anh để biểu hiện tình cảm rồi mới quay lại khóa cổng. Rơ Chăm Rót bước vào nhà chào cha tôi. Anh ngồi vào ghế trong khi cha tôi đặt trước mặt anh li rượu. Rơ Chăm Rót uống cạn liền và sau đó xua tay bảo thôi không uống nữa. Cha tôi lật đật lại tủ mở ngăn kéo lấy ra mấy điếu thuốc đầu lọc. Đó là những điếu thuốc ông để dành riêng cho Rơ Chăm Rót. Tôi nhận thấy cha tôi đang làm phận sự của người cha với thằng con. Tôi thật sự mừng và cảm thấy không khí gia đình ấm cúng. Cha tôi kéo ghế ngồi và hỏi:
- Xong rồi hả?
- Mệt muốn chết- Rơ Chăm Rót nói- Nhưng mà vui. Mười năm làm cũng phải có ngày hội hè cho vui chớ.
Tôi nâng li chúc mừng anh, chúc mừng đồng chí bí thư trẻ. Tôi thoáng thấy Rơ Chăm Rót nháy tôi và tôi nhận ngay ra sự vô tình của mình. Lời chúc mừng ấy có làm cha tôi chạnh lòng không? Cha tôi xé thịt nai khô bày lên đĩa, bảo chúng tôi mỗi đứa uống thêm chút nữa. Đêm yên tĩnh tưởng như thời gian không gian cùng ngưng đọng. Cha tôi cầm li rượu đứng lên, không nói, uống cạn. Tôi cảm thấy có cái gì đấy không bình thường. Tôi đã định giữ tay không cho ông uống tiếp, nhưng rồi lại thôi. Ông đang nghĩ gì về Rơ Chăm Rót, người mới thay ông nhận lãnh công việc mà ông đã từng nếm đủ mùi vị của cuộc đời vì nó? Rơ Chăm Rót rút từ túi áo ngực ra một tờ giấy, đặt lên bàn, nói với giọng trịnh trọng khác thường:
- Thường vụ tỉnh ủy cho giấy triệu tập, mời bác thu xếp đầu tháng tới ra Hà Nội rồi đi Liên Xô nghỉ mát.
Tôi mừng rỡ cầm tờ giấy lên đọc. Còn cha tôi thay đổi thế ngồi liên tục. Cả tôi và cha tôi đều không thể nghĩ trước được về sự quan tâm của trên đối với ông lại lớn thế. Cha tôi đứng dậy đi đi lại lại. Anh Rơ Chăm Rót chừng như cố gắng không tỏ thái độ gì quá mức để cha tôi khỏi hiểu lầm là anh đến trả ơn. Sự thực không có như thế, nhưng dù sao cũng cần phải giữ ý. Tôi hiểu cha tôi và hiểu anh, cả hai người cùng đang có chung một tâm trạng. Không ai muốn chạm vào lòng tự ái của nhau. Những ngày vừa qua, cha tôi mới rời "ghế" và anh ngồi vào cái "ghế" ấy, bao nhiêu lời qua tiếng lại, bây giờ đã dịu hẳn rồi. Người ta không còn chú ý tới thái độ của Rơ Chăm Rót như là một sự kiện đáng quan tâm số một mấy tháng trước đây. Tôi cố ý đọc to tờ giấy triệu tập và cha tôi cũng chăm chú nghe. Sự chăm chú ấy tạo nên không khí ấm cúng rất dễ cảm nhận.
- Có ai được đi nữa không, Rót?
- Mình bác thôi mà.
- Sao lại mình tui? Cả tỉnh mà mình tui à?
- Không, cả tỉnh thì năm người đấy.
- Vậy mình xin thêm cho mí Thương(1) cùng đi được không?
- Đi Liên Xô chứ đâu phải giỡn, bác?
- Sao bảo đi nghỉ mát?
- Dạ nghỉ mát. Nhưng là nghỉ mát ở nước ngoài.
Cha tôi thôi không hỏi nữa. Rơ Chăm Rót giải thích thêm:
- Tiêu chuẩn cán bộ cao cấp đấy bác ạ!
Ông già tôi chợt cười to, nói:
- Còn đồng bào có đồng bào cao cấp không?
Tôi hiểu cha tôi đang vui. Tôi ôm ngang lưng ông, bế xốc lên, đùa theo:
- Đồng bào cao cấp là ba đấy, ba ạ!
Rơ Chăm Rót đứng dậy súc ấm pha trà. Tôi giúp anh lau mặt kính bàn và tráng chén. Cha tôi tươi tỉnh hẳn. Ông lấy kính đọc lại giấy triệu tập trong khi tôi và Rơ Chăm Rót nhâm nhi uống trà. Tôi bỗng hình dung thấy bóng cha tôi đang đi trên phố Mát-xcơ-va đầy nắng. Và trên một khu trại nào đó, trong một nông trường chăn nuôi nào ở ngoại ô, cha tôi ngỡ ngàng nhận ra mình, nhận ra cái hạnh phúc mà con người cần vươn tới. Rồi tôi lại hình dung thấy cha tôi đang đứng trước bà con buôn làng, say sưa kể về ngọn lửa vĩnh cửu cạnh Quảng trường Đỏ, nơi ấy Lê-nin vĩ đại đang yên nghỉ...
Tôi bỗng thấy rạo rực muốn hát lên một điều gì đó. Và tôi vừa xăng xái dọn giường cho cha tôi, vừa huýt sáo. Đó là một bài dân ca Nga thuở còn học sinh chúng tôi thường hay hát.
Bây giờ Rơ Chăm Rót đã về nhà. Cha tôi cũng đã lên giường. Cảm thấy trong người hoàn toàn thoải mái, tôi tha thẩn mãi trên những con đường mòn trải sỏi trong vườn. Bóng cây tỏa ngợp, mùi hương thơm của hoa cà phê thật dễ chịu. Tôi dang tay hít thở không khí trong lành và bất chợt thấy nhớ nôn nao làng quê tôi, cái làng Sưa ven bờ sông Hóa lúc nào cũng êm đềm. Suốt tuổi thơ, đêm nào tôi cũng nhởn nha trong khu vườn chùa tràn trề hương bưởi. Nhớ đội thiếu niên Bế Văn Đàn của tôi những đêm trăng tập hát và những ngày hè cắm trại dọc triền đê. Bóng mẹ tôi tất tưởi xếp vào túi xách bộ áo quần mới, gói cơm nếp trước ngày tôi lên đường. Bóng bố tôi lặng lẽ ngồi trong căn nhà ngang bé nhỏ vẽ những bức chân dung chiến sĩ. Tôi gập đôi bức tranh ông vẽ chính tôi cho vào túi xách và bố tôi rưng rưng nói lời từ biệt. Bà chị cả cho tôi cây bút Hồng Hà với hai tập giấy viết thư cùng mấy tờ năm đồng mới cứng. Chị dâu tôi cũng cho hai cái mùi soa, mấy hộp dầu con hổ và ba bánh xà phòng thơm Hoa Nhài. Hành trang ra đi đánh Mỹ của tôi là thế. Anh trai tôi đã hy sinh ở chiến trường và một anh nữa đang dạy học trường làng. Cô em gái cũng đang công tác ở một công trường tận Quảng Ninh. Tôi bước ra khỏi nhà, bước ra khỏi làng, nhận lãnh trách nhiệm vinh quang của tuổi trẻ. Con đê làng kín bóng người đưa tiễn. Hơn chục anh em trai làng ra đi một đợt, và tôi nhận thấy từ trong ngôi trường, bóng các em bỗng tỏa ra ríu rít vây quanh chúng tôi. Anh trai tôi cầm tay tôi một lúc rồi chừng như để nói thay lời, anh bấm mạnh mấy cái, dúi vào túi ngực tôi mấy chục đồng và tờ địa chỉ, nơi người anh của tôi đã hy sinh ở miền Nam. Tôi chưa bao giờ hình dung được thế nào là xa nhà, xa cái làng Sưa bé nhỏ mặc dù tôi cũng đã nhiều lần tiễn đưa các anh trai làng lên đường. Và bây giờ chính tôi được mọi người đưa tiễn. Tôi không cảm thấy phải rời xa mặc dù tôi đang bước gấp cùng các bạn tới bãi nhận quân. Sao giờ này tôi muốn viết lên tất cả những gì hôm ấy tôi cảm nhận được cũng như sau này, hành quân trên Trường Sơn, tôi cảm nhận được về quê hương mình. Tôi ra đi hôm ấy không có gì đặc biệt. Chúng tôi ra đi như tất cả anh em đồng đội khác đã ra đi. Và chúng tôi bước vào cuộc chiến đấu giống như các anh em đồng đội đã và đang chiến đấu. Vì miền Nam ruột thịt, vì thống nhất nước nhà- ngày nào chúng tôi cũng nói tới điều đó, và điều đó luôn thôi thúc chúng tôi. Cuộc chiến tranh ấy đã qua rồi, và các bạn tôi quá nửa đã nằm lại rải rác trên khắp miền Nam. Những người còn lại không phải đã về làng nghỉ ngơi. Có người đang mải miết cùng các chiến sĩ của mình chiến đấu và bảo vệ trên biên giới. Có người đang cùng bạn Căm-Pu-Chia đánh giặc và bảo vệ chính quyền non trẻ. Cũng có người đang ở tít ngoài đảo xa. Cái làng Sưa bé nhỏ và êm đềm bên sông Hóa có bao giờ rời xa chúng tôi được? Giờ này, trong từng căn nhà trên mỗi con đường và ngoài đê, dưới ruộng quê tôi hẳn vẫn có những con người thao thức nhớ người đi xa, giống như tôi đang ở xa quê mình hàng ngàn cây số... Tôi giật mình nhận ra nơi góc vườn có bóng người. Tôi đặt tay lên ngực định thần và nhận ra dưới ánh trăng nhập nhòa, bóng người ấy thực ra là pho tượng, không phải tượng nhà mồ mà là bức tượng chân dung anh tôi. Thì ra bấy lâu nay cha tôi sống một mình được không phải là không có lý. Tôi nhận ngay ra Rơ Lan Thương vì trên những vết chạm dưới ánh trăng, nét mặt anh hiện lên thật bình thản và cương nghị. Tôi bước tới đặt tay lên vai và vuốt ngực anh. Người anh ướt đầm, trên khóe mắt hõm sâu có những giọt nước đọng lấp lánh. Sương đêm chảy ròng trên khắp thân thể anh và tôi không nén được lòng, một lần nữa nhận ra mấy tháng nay mình tìm đường lẩn trốn những nỗi đau thương mất mát của gia đình. Trong khi đó cha tôi đã dám nhìn thẳng vào chính ông để tạo nên sự sống bất diệt của anh tôi. Tôi không định buộc tội mình, nhưng rõ ràng mấy tháng qua, cha tôi, mẹ và chị nuôi tôi cùng sống trong trạng thái nặng nề. Tôi chợt hình dung ra bóng anh tôi đang cặm cụi ngoài vườn ươm giống cây phủ xanh đồi trọc, và bóng kẻ thù xé rừng ch 10000 ạy sau tiếng súng khô khốc giữa trưa nắng chói. Nhớ hôm ấy tôi đã bàng hoàng khi có điện thoại của huyện gọi về báo tin Rơ Lan Thương bị kẻ địch bắn lén. Người ta dìu tôi lên cái xe U-oát cùng chị H' Thoan. Khuôn mặt chị thảng thốt, tái nhợt cùng với thằng cháu nhỏ đang khóc thét bíu lấy cổ mẹ. Chiếc xe rú ga, hú còi, vọt ra khỏi thị xã. Lúc ấy tôi mới hiểu được rằng, thế là từ đây, không còn được cùng anh tôi tâm tình. Chiếc xe dừng lại trước sân làng cũng là lúc chị H' Thoan ngất. Tôi thấy giận chị quá vì mới cách đây chừng một tháng, tôi tình cờ gặp chị trong quán cà phê Kim với một anh chàng trẻ tuổi. Tôi đã cố lờ đi, nhưng chị đã tới gọi tôi. Lần đầu tiên trong suốt quá trình từ ngày làm em chị, hôm ấy tôi ứng xử khá tế nhị. Và mãi tới sau này, mỗi lần nghĩ lại, tôi vẫn cho rằng không có cách ứng xử nào hay hơn. Bắt tay anh bạn của chị và tôi nói rằng: Vừa đi công tác về, tạt vào đây uống ly nước chanh cho đỡ háo. Anh bạn của chị tái mặt, hai ngón tay run run mở bao Capstan mời tôi. Tôi giả lơ giữ thái độ bình thường nhận thuốc hút, và có cảm giác hình như anh chàng này mình đã gặp ở đâu. Tôi nhận ra ngay sau khi thấy dưới tầng gỗ của bàn nước là chiếc cặp da, trên cặp da có một bản nhạc. Rõ ràng bản nhạc vừa được rút ra đã vội vã để xuống. Trí nhớ tôi hồi phục toàn bộ cuộc họp cộng tác viên trên câu lạc bộ của đài phát thanh tỉnh. Anh chàng này là "đệ tử" của ba anh chàng "nhạc sĩ" chuyên đánh quả kia. Tôi biết họ vừa tán dương nhau và chắc chị dâu của tôi đang phấn khích lắm. Tôi lựa đúng dịp nhận ra có ai đó ở bàn góc trong là người quen, thế là xin chào bà chị để vào gặp anh bạn có tí việc đang cần cho số báo. Tôi rút êm khỏi sự khó xử của chị tôi, nữ ca sĩ kiêm bán hàng thực phẩm, chắc hẳn cũng là nhân vật của bản tình ca cô gái bán hàng. Và tôi thở phào nhẹ nhõm. Bây giờ trước pho tượng gỗ cha tôi tạc lại hình anh tôi, sao tôi lại nhớ cái điều đáng ra phải quên đi? Kể từ sau cái buổi gặp gỡ tình cờ ấy, tôi được chị dâu chiều chuộng hơn. Chị còn khuyên tôi nên học nhạc hoặc một cái gì đó về nghệ thuật. Tôi trả lời rằng tôi làm báo quen rồi. Rằng trong tư duy của tôi luôn có những cái móc xích mà các nhà triết học thường gọi là lô-gích! Làm nghệ thuật tâm hồn phải bay bổng, thậm chí phải có cái máu phiêu lưu- Chị tôi nói thế và tôi cho rằng đó không phải điều chị tôi đúc rút ra được qua học hành, mà có lẽ, những lời tán tỉnh rẻ tiền đã thấm vào người chị! Tôi càng cảm thấy vết rạn tình cảm mỗi ngày một dài thêm, sâu thêm giữa anh chị khi về nhà, anh tôi suốt ngày chơi với con và chỉ hào hứng khi có ai đó nhắc tới giống cây trồng hoặc điều gì có liên quan tới công việc của anh. Chị bảo anh cằn cỗi và coi cái đồi trọc quan trọng hơn tâm hồn con người. Anh tôi gần như không phản ứng gì. Đã đôi lần tôi toan nói với anh về những quan hệ khuất tất của chị, nhưng rồi lại thôi. Mỗi người có cuộc đời riêng, hoàn cảnh riêng, đụng vào cái khoảng riêng tư ấy, hỏi có đạt được điều mà mình mong muốn? Hay đó chỉ là cái cớ cho ta giũ rối sự việc? Anh tôi không phải người hiền lành tới mức chỉ biết có công việc, cũng như không phải anh không quan tâm đến đời sống sinh hoạt thường ngày. Anh ham thích đi chơi, thăm thú bạn bè, ham xem bóng đá và thích xem phim. Anh có cái vẻ cực đoan của một trí thức quá tự tin vào lao động của mình, tình cảm của mình. Có chuyện gì đâu mà nhiều người không chịu hiểu anh tôi? Cả cha tôi và cả bà chị dâu đáo để của tôi nữa? Thỉnh thoảng tôi cố giải thích công việc của anh cho chị rõ. Nhưng chị một mực nói rằng, nếu anh là cán bộ nghiên cứu, cũng phải có vị trí trong xã hội. Tôi không thích lối ăn nói quá bốp chát của chị. Nhưng rõ ràng chị không phải là người nông cạn. Chị bảo rằng hồi còn ở trên núi đánh Mỹ, chị công tác trong đoàn văn công xung kích của mặt trận. Đã có lần chị đập một cái sáo trúc vào mặt tay phó đoàn sợ chết hay nói đến tinh thần cách mạng tiến công. Hắn chuyên đẩy anh chị em tới chỗ khó khăn ác liệt, còn hắn thì kiếm cớ ngồi thu mình sau cái chức tước chẳng cần chuyên môn, chẳng cần tài năng gì cả. Quả thật tiếng hát của chị hồi ấy đã làm rung động hàng ngàn con tim trước giờ ra trận. Và chúng tôi luôn nhắc tới chị với một niềm khao khát đến nao lòng. Những tháng ngày thật khốc liệt mà thật trong sáng ấy chả lẽ dễ dàng qua đi không để lại dấu vết trong mỗi chúng ta? Không! Tôi không tin ai nói như vậy. Tôi biết chị tôi không phải là người dễ thay đổi những quan niệm sống của mình. Chị biết hết những gì đã xảy ra đối với anh tôi, và chị bảo rằng tay trưởng phòng của anh tôi cũng đáng được ăn một cái tát như vậy. Quả thật tôi chỉ không ưa cách bộc lộ tình cảm của chị, nhưng trong thâm tâm tôi cũng đã có lúc nghĩ như thế. Tôi đã vài ba lần được tiếp xúc với tay trưởng phòng mà chị tôi gọi là vô học đó. Sự thực anh ta có được ngồi vào trường vào lớp, có bằng đại học hẳn hoi. Tôi cũng không ngờ trên đời nay, có những kẻ càng được đi học, càng thêm bằng thêm chức danh, đầu óc càng thêm ngu dốt, thêm đen tối. Tôi có cảm giác sự ngu đần đóng váng trên khuôn mặt bè bè với cái kính cận, lúc nào cũng ghếch lên vênh váo, không thèm chú ý tới người đối thoại của anh ta. Thật không may cho bất cứ ai phải làm cán bộ dưới quyền những con người như thế. Mười năm qua hắn làm được những gì với cái vẻ bề ngoại đạo mạo? Nhớ hôm tôi tới thăm Rơ Lan Thương nhưng anh đi vắng, tại căn phòng làm việc bày la liệt những sách vở để làm dáng của hắn, hắn đã tiếp tôi. Hắn gọi tôi là cậu và khuyên tôi nên lập gia đình khi biết tôi chưa có vợ. Tôi cứ tưởng hắn nói thế tức là nói theo phép xã giao, đại loại có đôi điều quan tâm đến đời tư của nhau. Ai dè sau một hồi ba hoa về quy luật kinh tế, về khoán sản phẩm ở nơi này, bung ra ở nơi kia, hắn nói tới các cặp phạm trù triết học. Hắn vung tay giảng giải thế nào là ngẫu nhiên của sự ngẫu nhiên, rồi hắn bảo tôi lấy vợ là thuộc vào phạm trù ấy! Hắn xoay sang nói về Rơ Lan Thương. Hắn bảo Rơ Lan Thương là người Gia Rai, nhưng lại cứ muốn ngoi lên làm người Kinh. Rằng anh tôi dù có học thế chứ học nữa thì rút cuộc vẫn chỉ là cái anh chàng mà theo hắn, nương vào cái bóng của cha chúng tôi. Hắn vỗ ngực đã học qua trường Đại học Kinh tế tại chức. Cách ăn nói ba hoa của hắn, tôi có cảm giác trường ấy đã dạy cho hắn đủ mọi điều, nhưng có một điều là phải biết điều hơn thì người ta quên dạy! Tôi sốt ruột muốn đứng dậy ngay, nhưng không lựa được kẽ hở nào để kịp thời đứng lên, đành cứ ậm ừ, nhấp nhổm. Tôi giật mình khi nghe hắn lại hỏi tôi đã có mấy con. Tôi cười hóm hỉnh và bảo rằng, tôi đã có một đứa con trai, thằng con tôi nó hay nói quá, thế nào tôi cũng cho nó vào trường học kịch câm để nó lớn lên bớt mồm bớt miệng hơn. Ấy vậy mà hắn vẫn không nhận ra ngụ ý láu lỉnh của tôi. Hắn cười khá hồn nhiên. Tôi cảm thấy thật phí cho câu nói tưởng như sắc sảo của mình. Hắn khoe hắn là người kế cận của giám đốc. Rằng cái sở này mà thiếu hắn thì có lẽ không biết người ta sẽ tiến hành công việc thế nào. Rằng chính hắn đã đỡ đầu cho vài anh em, cũng như hắn thường vạch đường đi nước bước cho anh tôi. Nhưng anh tôi không chịu nghe theo hắn. Hắn nói thẳng với tôi rằng, nếu hắn mà như anh tôi, có được cái "nhãn" dân tộc, lại thêm chứng chỉ hành nghề là kỹ sư, thì mấy năm qua, bây giờ đã khác. Hắn bảo anh tôi chỉ lao vào chuyên môn như vậy là thất sách, là dại dột. Thời buổi bây giờ là thời buổi của quá độ. Vậy cái quá độ ấy theo hắn cần phải chọn cho mình một vị trí trong xã hội... Càng nghe hắn nói tôi càng ghê tởm và cuối cùng tôi cũng phải nói thật với hắn là tôi bỗng dưng đau bụng và mót đi cầu. Sự thô bạo của tôi không được hắn chú ý. Tôi ra về với một tâm trạng ấm ức. Tôi cứ nghĩ mãi về anh tôi. Rơ Lan Thương không phải là người không biết chọn cho đường đi nước bước của mình. Anh có nghề nghiệp trong tay, có cái khao khát về quê hương để làm việc, để mong được đóng góp phần mình bù cho những tháng năm xa cách. Tôi không thể nào quên được tâm trạng háo hức của anh khi trình bày công trình của mình trước cơ quan. Nói thế nào cho thật khách quan về cuộc hội thảo xung quanh đề cương công trình của anh hôm ấy. Tôi được người ta mời dự theo gợi ý của anh tôi, và vì tôi còn là phóng viên thường trú của báo Trung ương tại địa phương. Tôi nhớ anh tôi bước lên bục rất tự nhiên. Anh mở cặp sách ra, sau đó ngước nhìn các đồng nghiệp và các cán bộ có chức quyền trong sở. Anh lần lượt trình bày những vấn đề anh quan tâm. Trước hôm hội thảo anh đã nói cho tôi nghe. Tôi đã cao hứng cổ vũ anh rằng, không có lý gì mà phải đắn đo. Nhất định anh sẽ được cơ quan và đồng nghiệp ủng hộ. Rằng vấn đề phủ xanh đồi trọc đối với tình hình hiện nay là chuyện cấp bách. Rằng rừng quê ta đã bị tàn phá quá nặng nề do chiến tranh- đúng như trong bản đề cương anh viết- và con người đang đứng trước sự đe dọa của thiên nhiên. Anh tôi vạch ra những sai lầm trong các cuộc khai hoang làm ruộng lúa nước ở một số vùng lẽ ra chỉ có thể phát triển trồng cây công nghiệp. Anh nêu lên những thí dụ cụ thể về việc phá rừng. Người ta đã phá đi những cánh rừng đang tái sinh, để đổi lấy một vài cánh đồng lúa nước mà một năm không đủ lúa gạo nuôi chính những người tạo ra nó. Anh nhắc tới những đồng cỏ hoang chưa được quy hoạch, mùa mưa xanh mượt, cỏ lên tùy thích, mùa khô cháy bỏng quắt quay. Anh cho rằng vấn đề định canh định cư cần được xem xét lại như là xem xét một công trình khoa học tổng hợp, không thể tùy tiện. Rằng trước hết các nhà kinh tế phải kết hợp với các nhà dân tộc học, xã hội học, có những chương trình điều tra cơ bản về folklore... Anh cho rằng chỉ có trên cơ sở khoa học như vậy, các nhà kinh tế mới có thể tiến hành các bước cải tạo kinh tế, xã hội, theo đúng quy luật. Anh thẳng thắn nhắc nhở một số địa phương, một số cơ quan, ban ngành còn khai thác gỗ bừa bãi và việc bảo vệ rừng lâu nay còn lơi lỏng. Rồi anh cho rằng mấy năm qua có một chuyện vô lý là đời sống công nhân trồng rừng ít được quan tâm, trong khi đó ở những xí nghiệp khai thác gỗ, người ta có nhiều phương thức cải thiện đời sống. Tôi không ngờ người ta đã không chờ anh trình bày tiếp, mới chỉ có bấy nhiêu vấn đề, anh đã vấp phải một làn sóng phản đối gay gắt. Tôi hy vọng ở các đồng nghiệp của anh. Nhưng những người đồng tình với anh không phải ai cũng có thể phát biểu. Cuộc hội thảo trở nên lạc hướng hoàn toàn. Người ta xoay ra chỉ trích anh tôi là không đứng trên lập trường quan điểm của Đảng để nhận định vấn đề. Rằng anh tôi nêu ra những vấn đề trên, chẳng hóa ra phủ nhận công lao lãnh đạo của tỉnh đảng bộ mấy năm nay. Rằng anh chỉ thấy những hiện tượng có tính chất cục bộ, mà đã quy kết thành bản chất. Rằng ăn nói như vậy là thiếu tính đảng, tính nhân dân, coi thường tổ chức, không tin vào nghị quyết xây dựng kinh tế mới của tỉnh. Và sau nữa, người ta bảo anh tôi là thiếu tinh thần làm chủ tập thể, vân vân. Tay trưởng phòng của anh tôi thậm chí gỡ cả kính ra, phát biểu hùng hồn rằng, ngay cách đặt vấn đề của anh tôi đã thiếu cơ sở khoa học. Hắn bảo không có thứ khoa học nào lại ôm đồm đủ các thứ ngành nghề như là một món ăn hổ lốn. Rồi hắn kết luận sự đánh giá lệch lạc của anh tôi là do anh thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, qua mặt người quản lý trực tiếp, không tôn trọng vấn đề dân chủ trong nghiên cứu khoa học. Rồi hắn lại nói tới các cặp phạm trù về giai đoạn quá độ, về cuộc đấu tranh ai thắng ai giữa hai con đường. Hắn dường như thuộc lòng một số thuật ngữ triết học, kinh tế chính trị học mà không cần suy xét xem bản thân những thuật ngữ ấy, không phải muốn đặt vào chỗ nào nó cũng biến thành lý luận. Tất cả cái mớ thuật ngữ rối bòng bong của hắn đã khiến nhiều người toát mồ hôi hột. Tôi đã không tự kìm chế nổi, bật ra khỏi ghế, đề nghị chủ trì cuộc hội thảo phải cho phép Rơ Lan Thương tiếp tục trình bày bản đề cương khoa học của anh. Nhưng khi căn phòng trật tự lại thì không thấy Rơ Lan Thương đâu cả. Anh đã tự ý cuốn sổ sách bỏ về! Cuộc hội thảo giải tán với một không khí cười cợt vô trách nhiệm. Tay trưởng phòng có vẻ đắc thắng đứng trước cửa hội trường tuyên bố không có ai làm khoa học theo kiểu vô chính phủ, thiếu khoa học như vậy. Rằng khoa học không tự nó nói lên cái gì, nếu không có tổ chức và thậm tệ hơn, nó sẽ có tác động ngược lại. Cần phải "phủ đỏ" cái đầu các nhà khoa học kiểu Rơ Lan Thương rồi mới cho anh ta phủ xanh đồi trọc! Và hắn lại vỗ ngực, hắn là một nhà kinh tế- nhà kinh tế có chứng chỉ hành nghề hẳn hoi! Ấy vậy mà chính hắn còn không dám đề cập tới những vấn đề nặng nề như thế. Rơ Lan Thương đã về phòng làm việc, đóng cửa lại rồi, nhưng cái giọng rè rè của tay trưởng phòng vẫn lọt vào khiến anh vùng dậy. Anh bật cửa, tay cầm cái li uống nước sấn tới trước mặt hắn: "Tôi đã báo cáo anh cách đây mấy tháng, anh bảo tôi gì, anh có nhớ không?"- "Nhớ! Thế cậu nhắc lại coi". "Mặc mẹ cái ghế trưởng phòng của anh, tao không thèm nói đâu!"- Rơ Lan Thương nói thẳng vào mặt hắn- "Vậy mà dám vận động người ta phấn đấu vào Đảng? Mày là đồ con heo. Mày không được phép nhân danh tổ chức, rõ chưa con heo?". Tôi hoảng hốt kéo anh tôi về phòng và đóng cửa lại. Anh tôi ngồi vào ghế, tự đấm vào ngực mình thùm thụp, rồi bảo tôi: "Em về đi, anh bình tĩnh rồi". Tôi hiểu tính anh nên lặng lẽ ra khỏi phòng, buồn bã về nhà. Hồi ấy anh chị tôi mới cưới nhau. Tôi tạt qua cửa hàng thực phẩm báo với chị H' Thoan rằng, anh tôi đang cần có chị...
*
* *
Tôi cúi xuống lượm những mẩu gỗ vụn. Chính những mẩu gỗ này được bàn tay cha tôi dùng rìu đẽo bỏ mà tạo nên pho tượng anh tôi. Và giờ đây chính tôi là người đơn độc. Tôi cảm thấy như pho tượng có sự xê dịch và bóng anh đang xích lại gần tôi giữa khoảng trống của khu vườn. Tôi khẽ rùng mình bước tới và thấy hình như anh tôi giơ tay chỉ vào phía ngôi nhà khi có một luồng gió chao mạnh qua các vòm lá, khiến ánh trăng mở rộng trước tôi, rồi lại rất nhanh khép lại. Trong khoảnh khắc mơ hồ tôi nhận thấy cha tôi đang cúi lom khom trước cửa. Ông tiến tới gần, hai tay đưa ra phía trước, chừng như ông muốn đỡ cho tôi đứng dậy. Hóa ra nãy giờ không phải tôi đứng mà là tôi quỳ trước pho tượng. Cha tôi kêu khẽ tên tôi và tôi cầm trên tay những mẩu gỗ vụn, đặt vào lòng tay ông, lắp bắp: "Ba đi nghỉ thôi, khuya hung rồi mà..."
Cha tôi nắm tay tôi đưa lên những bậc thềm lổ đổ ánh trăng. Tôi nhận thấy trong nhà như có ai đó đang ngồi và cha tôi đưa tôi lại gần chỗ ấy... Tôi không ngờ Rơ Chăm Rót quay trở lại. Anh dẫn cả chị H' Thoan về nhà. Chị ngồi trên ghế trong trạng thái ngà ngà say. Tôi có cảm giác chị không thèm nhìn tôi và ngược lại, tôi muốn tới cầm tay chị, nói với chị một điều gì đó. Gương mặt vốn rất sáng của chị giờ đây sạm đi, khiến tôi bỗng thấy rất yêu chị. Pho tượng anh tôi như phảng phất đâu đây và tôi chợt có ý định giấu chị và Rơ Chăm Rót, không cho hai người biết cha tôi đang tạc tượng Rơ Lan Thương. Cần phải để cho cha tôi được sống với chính mình trong những ngày này. Con người ta không phải lúc nào cũng chỉ sống cho mình. Cha tôi lại càng ít điều kiện được sống như thế. Cũng như chị tôi bây giờ, chị thích sống trở lại ngày chị ra đi ở buôn làng. Nhiều người không hiểu được. Chị cởi bỏ những bộ đồ sang trọng mà cách đây ít lâu chị thường tự ngắm vuốt hàng nửa tiếng đồng hồ trước khi ra khỏi nhà, khiến anh em tôi rất khó chịu. Nhìn chị mặc chiếc váy xa-tanh cùng chiếc áo ló(1) lọt thỏm trong lòng ghế, tôi không còn cảm thấy chút xíu khó chịu nào. Chị bé nhỏ hẳn và trên mặt đã hằn những vết nhăn dài. Tôi đưa cho chị li nước đường. Tôi biết, chị vẫn coi tôi là người hiểu những nỗi niềm riêng trong hoàn cảnh gia đình, nhất là đối với chị. Chị biết tôi đã tránh những gì cần tránh ngay cả đối với những câu hỏi mà người đời không phải chỉ hỏi mình tôi về chị, và về cha tôi nữa. Người ta đồn về chị rất nhiều, nhiều hơn những thói hư tật xấu mà mấy năm qua chị mắc phải. Rơ Chăm Rót cũng thường giả lơ không quan tâm, nhưng đó là cách ứng xử trước những người trong gia đình tôi, còn thực chất, đã nhiều lần anh giải thích cho những câu người ta tò mò hỏi. Bây giờ anh dẫn chị tôi về từ cuộc liên hoan, và bảo rằng, chị không còn hát hò gì nữa. Tôi không nghĩ rằng, đó là cái gì thật ghê gớm để biểu lộ thái độ, mà phải nhìn nhận đúng chị mới hiểu được ý nghĩa của điều này. Cha tôi tới bên cửa sổ mắc võng. Ông vẫn thích nằm võng. Ông cuộn tròn trong chiếc bọc dù hoa, thòng chân đẩy cho võng quét qua, quét lại trên nền đá. Tôi và Rơ Chăm Rót ngồi hút thuốc vặt. Ánh trăng tràn vào thềm nhà. Sương vật vờ bay. Tôi chợt linh cảm thấy như có một điều gì đó không bình thường giữa cha con tôi và Rơ Chăm Rót. Nhưng rồi tôi tự xua cái gọi là linh cảm ấy đi. Trước nay tôi và Rơ Chăm Rót vẫn là chỗ bạn bè thân tình. Chúng tôi hiểu nhau từ hồi còn đánh Mỹ. Mấy năm nay anh ở vậy nuôi con và học thêm. Tôi biết anh không phải là người thích hoạt động bề nổi. Thậm chí anh thường lẩn tránh trước mọi người. Nhưng không lẩn trốn công việc. Tôi luôn theo dõi và cảm nhận được ở cái bản tính tự tin trong mọi tình huống. Anh tỉnh táo vượt qua mọi khó khăn một cách êm nhẹ, khiến nhiều người ngạc nhiên. Chị H' Loanh vợ anh, mất ngay sau những ngày đầu giải phóng vì vướng mìn, để lại đứa con gái mới hơn một tuổi. Anh ôm con, xin phép dân làng về trường nội trú nhờ bạn bè giúp đỡ. Anh không hề ngạc nhiên trước những sự việc diễn ra đột ngột. Sự thay đổi hoàn toàn về lối sống mấy tháng nay của chị tôi, chính tôi, cả cha mẹ và chị Rơ Lan H' Tữk cũng không giải thích rạch ròi được. Nhưng Rơ Chăm Rót lại thông cảm trước tiên. Anh hiểu chị tôi đúng với sự việc xảy ra, vượt lên tất cả những dư luận mà người ta thường nói. Câu chuyện bỏ cơ quan về nhà của chị đã khiến người ta đặt ra hàng trăm câu hỏi, và cũng có hàng trăm cách trả lời. Rằng chị đã có thai với tay "nhạc sĩ", và vì không chịu được sự đối xử lạnh lùng vô trách nhiệm của hắn, chị đã phá thai, bỏ cơ quan, về nhà sau khi anh Rơ Lan Thương mất. Rằng hình như chị có dính líu gì tới vụ tham ô mà công ty của chị đang mắc phải. Người ta còn đồn rằng, hình như chị còn có mối quan hệ không lành mạnh với cả ông giám đốc công ty trước ngày hội diễn văn nghệ. Vân vân. Tôi ném mẩu thuốc ra thềm, đứng dậy và chợt nhận ra chị đang chăm chú theo dõi những suy nghĩ của tôi. Tôi lảng ra làm như không biết gì, rồi trở vào căn phòng dành cho mẹ và chị H' Tữk.
Rơ Chăm Rót cùng tôi bước ra cổng. Sao giờ này tôi thích đi bên anh quá. Tôi thèm cái cảm giác lặng lẽ thân tình mà chúng tôi thường nghĩ về nhau. Rơ Chăm Rót nắm tay tôi định nói gì nhưng lại thôi. Mãi sau anh mới đột ngột dừng lại, hỏi:
- Mày có nghĩ rằng tao sẽ làm gì đó mở ra cho huyện mình không?
- Tôi rất hy vọng ở anh.
- Thế thì mày thất vọng đấy?
- Sao?
- Nhiều phức tạp lắm.
- Chẳng ai nghĩ đơn giản cả. Nhưng mọi phức tạp đều được giải thích đơn giản.
- Lý luận gớm!- Rơ Chăm Rót cười- Vậy cái đơn giản ấy là gì? Ở đâu?
- Là tình cảm, ở trong đầu, trong tim người lãnh đạo.
- Thế mày cho rằng ông già thiếu tình cảm, thiếu đầu óc à? Tầm bậy!
- Nhưng ông già thiếu khoa học.
- Chỉ đúng một phần- anh nói như nói với chính mình- Mà khoa học thì có học mới biết chớ. Sao lại trách ông già?
- Người làm khoa học có không nhiều- Tôi nói- Nhưng biết chăm lo, tổ chức cho người ta làm việc, đó là trách nhiệm của người lãnh đạo.
- Ai cũng có thể nói được như vậy, nhưng làm cho trúng thì không phải dễ.
- Anh có nhận thấy lâu nay nhiều cán bộ khoa học của tỉnh ta, vì lý do này khác, không được làm đúng chuyên môn của mình không?- Tôi hỏi.
- Tất nhiên là có.
Và đột nhiên anh quay sang tôi, hỏi:
- Mày có được làm đúng chức năng của mày không?
Tôi sững người, trả lời anh:
- Có.
Rơ Chăm Rót cười:
- Vậy mày đã phát huy hết chuyên môn của mày chưa?
Tôi thật lúng túng. Còn Rơ Chăm Rót vẫn bình thản bước. Anh nói nhỏ:
- Mày nên viết một cái gì đấy cho ra cái huyện của mình...
Chúng tôi cùng đi vòng ra sau sân vận động của thị trấn. Tôi có cảm giác mọi ý nghĩ của Rơ Chăm Rót đã được sắp xếp sẵn, chỉ chờ có dịp là nói ra. Vậy là mười năm qua anh cũng luôn theo dõi tôi. Té ra bấy nay tôi vẫn hiểu sai anh. Mười năm trời, bây giờ nhìn lại huyện của tôi đã làm được những gì? Và tôi đã góp gì được cho huyện? Hay tôi cũng chỉ biết đứng từ bên ngoài nhìn vào, thấy cái gì sai thì trách cứ, thấy cái gì đường được thì chỉ viết đôi bài, đôi cái tin chung chung? Bây giờ tôi mới thực sự nhận ra rằng, lâu nay tôi không dám mạnh bạo viết ra hết sự thật những cuộc phát động quần chúng theo lối cũ của cha tôi, những biện pháp ép buộc nhân dân phải chấm dứt ngay một vài phong tục tập quán, và những tập quán mới bắt buộc nhân dân phải thực hiện, khiến nhiều buôn làng có những xáo trộn mà chỉ có sống chung với bà con mới nhận ra. Vậy là giờ đây Rơ Chăm Rót đã hỏi tôi những câu hỏi mà lâu nay tôi không tự hỏi được mình. Huyện tôi không phải là yếu kém, không phải không có những vùng dân cư đã và đang ở vào thế ổn định để phát triển. Huyện tôi có vài ba cánh đồng 10 tấn, có nhiều công trình thủy điện nhỏ, một vài công trình thủy lợi vừa. Tỉnh đang đầu tư vốn mở rộng vùng thung lũng sình lầy, cải tạo thành hồ chứa nước, được quy hoạch khai thác gỗ và trồng rừng... Bao nhiêu công việc, bao nhiêu thành tích và những thiếu sót cùng bộc lộ. Tôi hiểu Rơ Chăm Rót không liệt tôi vào loại người tiêu cực, nhưng anh đã nhận định đúng về tôi. Anh bảo tôi không nên quá buồn khi thấy tình hình chung còn nhiều phức tạp, giống như những năm Sáu Tám, Sáu Chín... Anh nhắc lại cho tôi hay rằng anh không có ý định tiến hành mọi công việc quá mức bình thường, khiến cho sự việc tự nó không khẳng định được khả năng phát triển của nó. Rằng anh muốn làm thế nào để mọi người cùng nhận thức được trách nhiệm của mình đối với cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai. Anh cho rằng sự nóng vội bao giờ cũng đem lại kết quả sống sượng. Tôi nắm tay anh biểu hiện tình thân và niềm tin. Anh cười bảo tôi nên chăm sóc cha tôi cẩn thận hơn. Và nếu có thể, chính tôi phải đưa cụ ra Hà Nội.
Vì không nén nổi xúc động mà làm ra vẻ mệt, tôi chia tay anh. Nếu không vội chia tay, có lẽ những giọt nước mắt của tôi sẽ gây cảm giác khó chịu đối với Rơ Chăm Rót. Và điều ấy không làm cho anh quý tôi hơn.
Rơ Chăm Rót đứng nhìn theo tôi quay về nhà. Giữa chúng tôi còn nhiều điều cần nói với nhau. Có những điều cả hai đều nghĩ, nhưng có cái gì đấy cấn cái, khiến cả hai đều giữ lại. Tôi không nghĩ Rơ Chăm Rót bây giờ là bạn bè, theo cái nghĩa thông thường có thể lúc nào cũng ôm vai bá cổ nhau, nói năng bỗ bã. Tôi buột buông thở dài và tự bảo mình: Hồi còn trên núi khác, bây giờ khác. Nếu không có cái sự khác ấy mới thật đáng buồn, đáng trách. Chính vì vậy mà tôi coi việc trưởng thành của anh không giống nhiều người đánh giá. Rằng Rơ Chăm Rót có "ô dù" hoặc đại loại có sự nâng đỡ từ trên... Tôi biết cán bộ trong huyện bàn tán thế, nhưng ai cũng mừng vui hơn là khó chịu. Rơ Chăm Rót rõ ràng là người có năng lực, có chí như ta thường nói về những người đứng mũi chịu sào. Anh đã từng có một thời nổi tiếng- cái sự nổi tiếng ấy giống như thời khắc mà một mầm cây vừa bật ra khỏi mặt đất cứng rắn! Cái mầm cây ấy sống với muôn loài cây, và tưởng như người ta đã quên lãng, thì bây giờ nó một lần nữa chứng tỏ sự có mặt của mình bằng việc đơm hoa, kết trái. Bông hoa Rơ Chăm Rót đang ở thời điểm rực rỡ mà người ta ra sức đón chờ nó kết trái. Rơ Chăm Rót cũng ý thức được điều đó. Tôi nhận rõ cái bản lĩnh đáng yêu của anh cũng mới chỉ cách đây vài tháng, trước ngày Rơ Lan Thương chết. Anh luôn là người xuất hiện giữa gia đình tôi đúng thời điểm khó khăn nhất. Anh tôi và Rơ Chăm Rót thân nhau ngay từ những ngày đầu từ miền Bắc về. Sự thân tình của hai người không có gì đặc biệt, bởi lâu nay Rơ Chăm Rót vẫn là người gần gũi với cha tôi. Ấy thế rồi có đến vài năm nay, tình cảm hai người cứ dần dần tách ra mỗi khi Rơ Chăm Rót lên thêm một chức, còn anh tôi thì lùi dần, đến khi bị kỷ luật. Cái mặc cảm thua kém bạn bè của anh tôi không lệ thuộc vào sự lên xuống của đồng lương hay quyền chức, mà hoàn toàn phụ thuộc vào những yếu tố khác. Anh quá ý thức về năng lực chuyên môn của mình. Tôi cho rằng đó không phải là khuyết điểm, thậm chí rất cần thiết cho người làm bất cứ chuyên môn nào. Ấy thế nhưng anh lại cứ muốn Rơ Chăm Rót cũng phải theo học một ngành chuyên môn nào đó. Anh phản đối kịch liệt khi biết Rơ Chăm Rót vào học trường Kinh tế Kế hoạch, và anh cho rằng trường đó chỉ đào tạo những cán bộ chung chung như tay trưởng phòng của anh. Cái ác cảm với tay trưởng phòng khiến anh nhìn nhận Rơ Chăm Rót sai lệch. Tôi đã nhắc nhở cái thói cực đoan tiểu tư sản ấy, nhưng anh tôi chỉ cười! Ngay cả trong câu chuyện này, tôi cũng không muốn đề cao anh tôi như là một thần tượng, vì rõ ràng anh tôi- ít nhất trong việc này, đã ứng xử không được phải lắm với Rơ Chăm Rót. Sự tách biệt giữa hai người, ngẫu nhiên tôi cũng là người đứng giữa. Và tôi biết rõ cả hai người có những lúc nghĩ về nhau rất tốt đẹp, thậm chí luôn có những dằn vặt về sự không phải của bạn mình. Rơ Chăm Rót vì bận quá nhiều công việc hàng ngày, lại một mình nuôi con nhỏ, mà vẫn theo học đúng chương trình, nên ít có thời gian quan tâm tới bạn. Còn anh tôi lại khác. Cứ mỗi lần bị kỷ luật, mỗi lần lùi về phía sau, thời gian đối với anh càng nới rộng... Thỉnh thoảng hai người có dịp gặp nhau, tôi thấy rõ vẻ mặt kiêu ngạo của anh tôi thật khó chịu. Tôi thầm trách sao anh tôi lại thế nhỉ? Nhưng rồi tôi lại nghĩ- dù là nghĩ không được sáng cho lắm, rằng có như vậy mới là Rơ Lan Thương chứ? Con người ta mà hoàn thiện mọi thứ, cái gì cũng nhẵn nhụi, đẹp đẽ, chưa chắc đã là hay- hình như tôi có đọc được cái ý đó trong một cuốn sách về xã hội học. Rơ Chăm Rót bao giờ cũng tỏ ra vồ vập với anh tôi, hỏi anh tôi đủ điều, thậm chí trong thái độ chân thành của mình, anh vẫn thường coi Rơ Lan Thương là thầy trong nhiều lĩnh vực. Vậy mà Rơ Lan Thương thì chỉ trả lời một cách lạnh lùng khiến tôi nghe cũng ái ngại! Thật là kỳ quặc và cũng thật giản đơn khi phải nói về một con người đối với một con người, nhất là trong trường hợp của anh tôi. Rơ Chăm Rót không phải không biết rõ bạn mình và anh thường giả lơ vô tình, không để ý đến thái độ. Chuyện Rơ Lan Thương bị kỷ luật trước đó, ai mà chả biết? Nhưng Rơ Chăm Rót đã gần như không để lộ một thái độ gì khiến anh tôi chạnh lòng. Quả làm được như vậy thật khó. Tôi được chứng kiến cảnh gặp nhau lần cuối cùng của hai người tại ngôi nhà bé nhỏ của mẹ và chị tôi, giữa buôn làng. Hôm ấy tôi và Rơ Chăm Rót xuống làm lễ khánh thành đập nước IA BRang. Cách đó hai hôm tôi còn ăn cơm ở nhà anh cùng chị tôi trên thị xã. Không khí gia đình anh tôi ủ dột và buồn tẻ đến mức mọi lời đùa tếu, những câu chuyện hài hước mà tôi thường cố gây không khí cho gia đình bớt căng đã trở nên lạc lõng. Tôi không nghĩ cha và anh tôi cùng xuống huyện ngay hôm ấy nên đề nghị Rơ Chăm Rót đánh xe về làng. Tôi biết Rơ Chăm Rót không phải là người muốn né tránh cha và anh tôi, nhưng dù sao nếu như hôm ấy không có hai người ở nhà, thì cuộc viếng thăm thật đẹp cho cả gia đình. Ở buổi lễ khánh thành đập nước, chúng tôi đã nghe được những lời xì xầm rằng: Chính cha tôi- người bày cỗ- người lo bếp núc cho hôm nay anh lên ngồi vào chiếu hoa. Tôi nhận thấy Rơ Chăm Rót không vui khi nghe được những lời ấy, nhưng anh đã giả lơ không chú ý. Trong bài phát biểu ngắn, ít nhất ba lần anh nhắc tới công lao và tình cảm của cha tôi. Thật tình cha tôi không cần thiết điều ấy. Nhưng Rơ Chăm Rót thì cần. Mọi người cần và cả tôi nữa, tôi cũng không muốn người ta bỏ qua những gì cha tôi đã đóng góp. Ấy vậy mà xe chúng tôi vừa vòng vào sân làng, cậu lái xe láu lỉnh bóp còi inh ỏi để quyến rũ trẻ con, không ngờ, chính tiếng còi ấy đã xối vào tiềm thức cha tôi! Tôi và Rơ Chăm Rót bước xuống xe, nhảy ào lên nhà, trong lúc cha tôi đang ngồi đan gùi. Mẹ và chị tôi gần như không chú ý đến tâm trạng của mọi người. Mẹ tôi rối rít lấy rượu cần, còn chị tôi cũng vội vã ra giếng kéo nước. Rơ Lan Thương đi đâu?- Tôi tự hỏi trong lúc Rơ Chăm Rót ngồi xuống sàn, hỏi cha tôi cũng câu ấy. Cha tôi chỉ ra ngoài, phía đồi cao, nơi ấy là vườn ươm giống cây. Anh tôi đứng trên đồi thấy xe vào làng, biết có khách nên đã cầm rựa lững thững xuống dốc. Tôi không muốn cả nhà hôm ấy uống rượu. Nhưng ở quê tôi, khách tới, người thân đi xa về, không uống rượu cần thì tiếp bằng gì? Vậy là mọi người phải cùng nhau uống chung một can. Vừa buông cần rượu, Rơ Chăm Rót chủ động nói với anh tôi:
- Thương về huyện nhận công tác được không?
Rơ Lan Thương hỏi lại anh:
- Ở tỉnh khó làm việc, về huyện dễ hơn à?
Rơ Chăm Rót bình thản nói:
- Đã làm thì ở đâu cũng khó. Nhưng cái chính là mình có tin vào mình không.
Anh tôi hùng hổ túm ngực áo Rơ Chăm Rót:
- Mày bảo ai không tin? Tao không tin hay chúng mày không tin?
Rơ Chăm Rót nói nhỏ trong khi tôi giằng tay anh tôi ra:
- Đừng có bẻ cành đánh vào cây anh Thương ạ!
Rơ Lan Thương buông ngực áo Rơ Chăm Rót thở, một lúc sau nói:
- Anh định cứu tôi ra khỏi vũng lầy tổ chức à?
- Mình muốn anh được làm việc.
- Thử ra đồi cây kia coi tôi có làm việc không?
- Tôi muốn anh nghĩ lại, anh Rơ Lan Thương ạ! Việc người ta quyết định đình chỉ công tác của anh là sai. Nhưng nếu anh đấu tranh tiêu cực, cũng sai.
Tôi không muốn sự việc căng thẳng kéo dài khiến mẹ và chị tôi phải lo sợ, nên chủ động đề nghị chia tay. Cha tôi cùng về huyện với chúng tôi.
Cả chặng đường gần hai chục ki-lô-mét hôm ấy, cha tôi và Rơ Chăm Rót không nói. Tôi và Rơ Ô Toa, tên cậu lái xe, tranh luận về sức cản của gió đối với tốc độ của các loại xe để giết thời gian...
II
T |
ôi chợt giật mình khi cha tôi khẽ hích vào vai, kêu lên vui sướng: Hà Nội! Tôi choàng tỉnh, áp sát mặt vào khuôn cửa sổ hình bầu dục của máy bay. Hà Nội hiện ra dưới mắt tôi thật trong lành. Những ô nhà nhỏ xíu, chen chúc xinh xinh dưới kia, giống hệt đồ chơi trẻ con. Ở đó có bao nhiêu bạn bè và đồng nghiệp của tôi. Sông Hồng hiện lên thấp thoáng tựa như chiếc khăn len khoác hờ quanh bờ vai thành phố. Tôi kéo tay cha tôi tới bên cửa sổ và nhận ra hơi thở xúc động của ông. Mới đấy, mới đây mà cha con tôi đã cách xa Tây Nguyên hàng ngàn ki-lô-mét rồi ư? Tôi có cảm giác chỉ cần đưa tay gạt nhẹ mấy vạt mây đang vật vờ trôi trên những vòm cây kia là dáng hình mẹ tôi, chị tôi, những người thân của tôi cùng hiện ra rõ ràng và thật vui nhộn. Ấy thế mà sắp tới, cha tôi lại tiếp tục bay tới những vùng trời xa lạ, những miền đất xa lạ, nhìn xuống những thành phố, làng mạc, những dòng sông xa lạ, đến với bạn bè. Sự cách xa về không gian chẳng còn ý nghĩa gì đối với con người. Bây giờ ở làng tôi, bà con đang thu hoạch vụ Đông Xuân. "Mẹ Lúa" đang được buôn làng rước về bằng xe bò, xe cải tiến trong niềm hân hoan của lễ hội ngày mùa. Rơ Chăm Rót đang tất bật với bao nhiêu công việc. Có lẽ chị H' Thoan của tôi cũng đang cùng mẹ và chị Rơ Lan H' Tữk đạp lúa bằng cái máy tuốt giản đơn. Bỗng máy bay chòng chành. Tôi cảm thấy như vừa bị hụt hẫng và cha con tôi cùng nhào về ghế. Cha tôi loay hoay mãi với cái dây nịt an toàn. Tôi nghiêng người sang tra khoá giúp ông và bất chợt nhận ra bàn chân cha tôi to bè còn két chút bụi đỏ nơi kẽ ngón mà lòng rưng rưng. Với bàn chân to khỏe ấy, cha tôi đã từng lặn lội khắp núi rừng suốt hai cuộc chiến tranh! Với bàn chân to khỏe ấy, cha tôi đã bươn bả khắp các buôn làng cùng bà con đánh giặc giữ làng, dựng xây quê hương, để đến bây giờ, trên máy bay sang trọng, vết bụi đỏ kia, một phần của quê nhà không muốn rời ông! Cha tôi đang nghĩ gì? Tôi bỗng toài người ôm ghì ngang lưng ông khiến ông lúng túng. Giây lát hạnh phúc ấy cha tôi nhường cho tôi, và tôi tận hưởng không chút rụt rè. Phía trước, tay trưởng phòng của anh tôi vẫn ngủ gật, giúi đầu vào vai ông giám đốc, người cùng được đi nghỉ mát với cha tôi. Thực tình tôi không muốn nhìn thấy anh ta, và tôi biết, anh ta cũng chẳng ưa gì tôi. Nhưng cuộc đời không phải của riêng ai, và dù muốn gì thì cuộc đời vẫn cứ vượt lên bằng sức mạnh của nó. Nghĩ vậy, tôi cảm thấy bình an. Rồi tôi lại nghe tiếng mấy chị phía hàng ghế sau nựng con, ríu rít nhắc nhau chuẩn bị hành lý. Tôi lại toài người nhìn ra cửa sổ. Hà Nội trong mắt tôi giờ đây loang loáng những ô nhà mới, những cây cầu mới và những dòng người. Tôi vui sướng nghĩ tới ngay chiều nay, sau khi thu xếp xong chỗ ăn ở cho cha tôi, tôi sẽ dẫn ông đi dạo khắp phố phường. Tôi sẽ cố gắng tạo cho cha tôi được sống những ngày thật vui vẻ. Hà Nội ngay trong tầm tay tôi đây, tôi cũng đang có một người con gái trông chờ. Và tôi đã nhiều đêm thao thức vì em. Tôi hân hoan nghĩ tới ngay tối nay, ba cha con tôi cùng dạo quanh Bờ Hồ, cùng ngồi trong câu lạc bộ uống bia, và em rối rít hỏi tôi như những lần trước. Cha tôi sẽ rất hài lòng vì tôi và vì em trong những ngày này. Con đường để tới hạnh phúc của tôi bây giờ thật gần gũi và ngọt ngào. Sao tôi chưa kể về em cho cha mẹ, các anh chị của tôi nghe? Sao tôi cứ lặng thầm mơ tưởng về em trong khi nhiều lần gia đình tôi ai cũng nhắc tới chuyện lấy vợ? Tôi không tự cắt nghĩa được điều ấy. Nhưng lúc này, sao tôi muốn gọi tên em và dắt tay em tới trước cha tôi quá! Hạnh phúc là như thế- Tôi nghĩ. Đôi mắt tròn căng của em hôm sau tết tiễn tôi vào, ngay trước cửa sân bay, bỗng nhòe nước. Và có lẽ bây giờ em đang đứng đúng chỗ đó chờ tôi. Tôi sẽ vượt lên nắm chặt tay em, thậm chí khoác vai em, dẫn em lại gần để chào cha tôi. Tôi quyết định sẽ nói ngay ý định xin cưới vào cái thời khắc gặp nhau tràn đầy hạnh phúc... Tôi đã điện cho em cách đây một tuần, như những lần trước chúng tôi thường điện cho nhau, để em đón tôi. Tây Nguyên thật xa mà thật gần đối với em. Em khao khát được cùng tôi ít nhất một lần bay lên trên đó, chạy hút hơi trên đồng cỏ mật, thả mình xuống cỏ ngắm trời mây, nghe chim rừng hót... Tây Nguyên trong tôi có cả trong em... Cái ngày ấy đang đến cùng ta, thật gần và thật hạnh phúc. Đó là ngày cha tôi ở nước bạn về... Tôi còn mong gì hơn nữa, khi mà hạnh phúc như trái chín đang trong lòng tay tôi? Ôi, sao tôi muốn cất tiếng hát, hát những bài ca thật vui, ngợi ca sức mạnh và hạnh phúc của con người! Tôi cảm thấy nơi ngực mình rạo rực khác thường. Tiếng rít nặng nề của động cơ máy bay khi dừng trước sân ga không còn nghĩa lý gì đối với tôi! Tôi mở khóa dây an toàn giúp cha tôi và ôm cặp, nắm tay ông hấp tấp bước xuống cầu thang.
Chỉ có anh tài xế vui tính và chiếc ô tô con của nhà khách Trung ương Đảng tới đón đoàn. Tôi lủi thủi theo cha tôi ngồi vào ghế và nghĩ thầm: Có thể bức điện vì lý do nào đó không đến tay em. Cũng có thể hôm nay em bận...
Và chiếc xe vụt nhanh ra đường. Tôi có cảm giác tay trưởng phòng của anh tôi lúc nào cũng thiếu ngủ...
Tôi hẹn cha tôi, bảy giờ tối sẽ tới đón ông đi dạo hoặc đi xem gì đó. Tôi phải về tòa báo nộp gấp số bài và tin mới viết. Điều cần hơn nữa là tôi phải quay điện thoại cho em. Tôi không thể chậm hơn, không thể chịu đựng nổi khi chưa biết đích xác vì lý do gì em không đón tôi! Chưa bao giờ tôi có những ý nghĩ kỳ quặc, những mong muốn kỳ quặc như hôm nay. Tôi thầm ước bức điện bị đình trệ vì lý do gì đó! Cả tuần qua trời đất yên lành, không hề có bão! Nhưng biết đâu đấy, những cơn bão bất thường... Rồi tôi mong em ốm hoặc em đang có việc gì đó thật hệ trọng, không thể đi đón tôi lúc này.. Em là một cô gái dịu hiền, chân chất, suốt mấy năm qua, quen biết rồi yêu nhau chưa bao giờ tôi thấy em có biểu hiện gì trái với mong muốn của tôi! Chúng tôi hoàn toàn hợp nhau. Những bài báo của tôi được viết ra, được in ra, em đọc với niềm tự hào, niềm say mê và em thường có những nhận xét thông minh... Những kỷ niệm đẹp đẽ nhất về đồng đội về gia đình tôi, về Tây Nguyên của tôi, tôi truyền hết sang em, em đã tiếp nhận thật bình dị và trong sáng. Tôi không thể tin được có điều gì đó hấp dẫn em, khiến em quên lãng những ngày hè tươi sáng trên bãi biển Sầm Sơn- quê em. Em rời bỏ gia đình, rời bỏ ngành nghề, rời bỏ quê hương ra Hà Nội vì tôi và vì cả em nữa. Cái bước ngoặt lớn ấy của cuộc đời em gắn liền với hạnh phúc của chúng tôi. Tôi nhớ buổi chiều ấy tôi tha thẩn dạo chơi, đếm bước chân mình trên bãi cát. Và tôi giật mình khi nhận ra một toán các cô gái mặc đồ tắm đang ào xuống. Các cô vốc cát ném trêu tôi và tôi chạy lên. Tôi lại giật mình bỗng gặp một cô gái từ trong một lùm cây bất chợt bước ra. Cô ta rụt rè không dám trút bỏ bộ đồ dài để cùng xuống vui với các bạn. Đó là em...
- Lũ quỷ sứ!
Em nói nhỏ, vẻ thông cảm.
Thế là chúng tôi quen nhau. Chiều nào tôi cũng đếm bước chân mình trên bãi cát và chiều nào tôi cũng gặp em.
Rồi tôi trở về Hà Nội.
Tôi viết thư cho em, hẹn em có dịp nào đó ra chơi. Ai ngờ sau chừng nửa tháng, em đột ngột xuất hiện ở phòng trực của tòa báo. Tôi thật sự lúng túng nhưng cũng thật sự vui mừng. Em cười hồn hậu và nói ngay để tôi yên tâm về việc nơi ăn chốn ở của em. Em có người chú ruột đang làm cán bộ tổ chức của bộ, nhà cửa khang trang, ăn uống đàng hoàng, tôi khỏi phải lo..
Tuần lễ ấy là tuần lễ tuyệt vời của chúng tôi.
Rồi tôi vào Tây Nguyên.
Nửa năm nữa trôi qua, em đã chuyển được ra Hà Nội. Ông chú của em đã dành riêng cho em một suất "đổi chỉ tiêu" về Thanh Hóa. Em đi đường vòng. Con đường vòng giản đơn, ngắn ngủi thay! Em chuyển vào bộ đội địa phương- theo cách chỉ dẫn của người bạn chú em, cũng làm cán bộ tổ chức bên Cục Nhà trường. Sau đó em lại chuyển từ bộ đội về dân sự, theo chỉ tiêu của bộ. Tôi cười và nói đùa với em là: Chỉ có giấy tờ hồ sơ của em nó đi đường vòng. Còn em, em đã đi thẳng một "đường ray" tổ chức. Con đường tổ chức là con đường ngắn nhất! Sao những ngày ấy, tôi vẫn thầm mừng cho hạnh phúc của tôi? Có gì đâu, chuyện ấy là chuyện thường tình... Và giờ đây bên kia đầu dây nói, người ta trả lời tôi khi tôi hỏi tên em:
- A, anh Thương đấy à? Xin báo tin vui là người yêu của anh đã chuyển ngành rồi nhé.
- Sao cơ? Sao lại chuyển ngành hả chị?- Tôi hỏi.
- Thì cô ấy được chuyển về đúng ngành của cô ấy. Vừa có "màu" lại vừa...
- Vừa gì hả chị?- Tôi sốt ruột hỏi. Cô ấy chuyển ra đây là chuyển đúng ngành của cô ấy rồi cơ mà?
- Ai đấy? Có phải anh Thương nhà báo không? Sao mà ông tù mù thế?
- Dạ! Đúng tôi là Thương đây ạ!
- Thế mà tôi cứ tưởng ai! Hóa ra anh cũng chả biết người yêu của anh trước đây làm nghề gì à?
- Chị nói thế nào ấy nhỉ?
- Còn thế nào nữa? Cô ấy vốn là cán bộ bưng bê, hiểu chưa? Có phải anh lôi cô ấy từ nhà nghỉ lên không?
- Thôi thôi, xin lỗi chị, đừng đùa nữa.
- Đây chả đùa đâu!
- Thế chị làm ơn cho tôi số điện thoại cô ấy được không?
- Không ạ. Tốt hơn hết là anh phải tìm gặp cô ấy mà hỏi. Rõ ỡm ờ...
Và điện thoại bị ngắt!
Tôi thẫn thờ ra ngoài ban công đứng nhìn xuống lòng phố. Ôi, Hà Nội! Tôi đang đứng trong lòng người, đứng giữa niềm vui và nỗi buồn của tôi chiều nay...
Bây giờ em đang ở đâu?...
*
* *
Tôi đưa ra một loạt các phương án cho cha tôi tự chọn.
1. Xem kịch nhà hát lớn "Tôi đi tìm tôi".
2. Xem phim "Bao giờ cho đến tháng Mười".
3. Xem Video casset- "Ai-van-hô".
4. Xem ca nhạc mới, kịch câm.
5. Xem xiếc.
6. Xem vũ hội quốc tế.
7. Xem chèo "Tấm Cám".
8. Xem cải lương "Tiền và nghĩa".
9. Xem tuồng "Nghêu Sò Ốc Hến".
10. Đi dạo phố, uống bia, ăn phở tái.
Cha tôi coi đi coi lại tờ giấy tôi ghi chương trình và ông cười hóm hỉnh:
- Tôi làm ngược lại từ mười đến một, con ạ.
Và thế là cuộc hành trình của cha con tôi bắt đầu. Chúng tôi đi bộ. Đôi bàn chân to bè, khỏe mạnh của cha tôi đã leo khắp rừng này, núi nọ, bây giờ mới có điều kiện bộc lộ nhược điểm của nó. Đôi dép xăng đan bằng da hôm qua tôi mới mua cho ông ở thị xã, đi được vài trăm mét, cha tôi đã nhăn nhó kêu nó cứa vào chân đau quá. Ông tỏ ý muốn bỏ đôi dép ấy vào trong túi xách tay, đi chân trần! Tôi phải động viên mãi, cha tôi mới chịu đeo nó tới điểm đỗ ô tô buýt. Cha con tôi tới Bờ Hồ vào lúc trời vừa nhập nhoạng tối. Gió từ mặt hồ liu riu thổi lại thật thoáng đãng và nhẹ nhõm. Tôi dẫn cha tôi tới ngồi trên một ghế đá bên Hồ Gươm, ngắm nhìn Hà Nội. Giá mà giờ này có em, hẳn tôi là người hạnh phúc nhất thế gian. Những cặp trai gái dắt díu nhau thả bộ lướt qua gợi buồn cho tôi quá. Tôi không còn trẻ nhưng cũng chưa già. Các cô gái Hà Nội thật đẹp, thật nhiều, đang tung tẩy trên hè phố kia, tôi có thể lại gần làm quen, yêu đương với một cô không? Nhưng sao tôi lại vẩn vơ? Tôi chợt nhìn xuống bộ áo quần thẳng thớm nhất trong số áo quần mà tôi có chợt bật cười. Tiếng nhạc bên kia hồ cùng với ánh điện xanh đỏ có cái gì đấy thật hấp dẫn. Và tôi ngỏ ý muốn sang bên đó kiếm cốc bia, cha tôi đồng ý ngay. Cha tôi lại đòi tháo dép và tôi cố động viên ông. Một đồng chí bí thư huyện uỷ- dù là đã về hưu, không thể đi chân trần về dạo phố Thủ đô- tôi nói đùa với cha tôi thế, và ông bước thật nương nhẹ bên tôi, chiều lòng tôi. Rồi cái vòng cung của bờ hồ cũng được cha con tôi khép kín, và tôi chọn một bàn nơi góc quán, trên lầu, từ đây có thể nhìn ngắm mặt hồ, nhìn ngắm người ta vui vẻ. Quán chưa thật đông và cành lá của chậu cây cảnh xõa tràn trên mặt bàn tạo nên một cảm giác dễ chịu. Bốn li bia ngầu bọt cùng với sự ồn ào của quán ngày một tăng nhanh, tạo cho tôi cái tâm trạng thư thái khác thường. Nét mặt cha tôi cũng trở nên tươi tắn hơn. Những nét nhọc nhằn đang được xóa đi. Có lẽ suốt cả cuộc đời vất vả của cha tôi, chính hôm nay đây, cha tôi mới được thư thái. Tôi thầm tự hào, thầm khen cho mình biết cách chiều cha. Tôi nảy ra ý định kể chuyện về em cho ông nghe. Nhưng rồi tôi không tìm được câu mở đầu... Nếu như ít nhất chiều nay tôi điện thoại được cho em, biết đích xác về em thế nào! Tôi vẫn không nghĩ rằng, con người ta lại dễ dàng quên nhau, dễ dàng bước qua kỷ niệm của mình, nhất là em. Em là một cô gái thùy mị, dễ thương, hay rụt rè. Em chưa phải là người đã từng trải... Và cái chính là em rất yêu tôi. Tôi bỗng nhớ tới thuốc lá. Cần phải có điếu thuốc, ngồi mà nhâm nhi, mà tha hồ "gặm nhấm" niềm vui cùng nỗi buồn của mình. Và tôi rời ghế, lại quầy bán thuốc. Tôi sững sờ nhận ra cô gái bán thuốc không phải ai khác mà đích là em! Trời ơi, em đổi thay đến thế này kia ư? Em đẹp rực rỡ đến xa lạ thế này kia ư? Tôi kêu tên em và em cười rất tươi, không phải với riêng tôi, mà với mọi khách hàng!
Tôi lúng túng không biết nên mở đầu thế nào thì em đã gỡ bí cho tôi. Em cầm số tiền tôi định mua bốn điếu Bông Sen và trao cho tôi gói "A Lào", rồi nói:
- Em nhận ra anh từ lúc anh vào quầy, nhưng bận quá, anh thông cảm.
Tôi vẫn đứng đó, ngơ ngẩn. Và một lần nữa em chủ động:
- Anh lại bàn đi, chút em tới.
Tôi tự nhủ, hãy bình tĩnh. Tôi đứng châm thuốc. Cái bật lửa rớt khỏi tay tôi. Tại sao tôi lại cứng họng, cứng lưỡi thế này? Khuôn mặt vốn đằm thắm chín mọng, tươi sáng của em, giờ đây đang tíu tít bán hàng, cười với khách hàng? Không! Không phải em! Em là một cô gái bình dị- tôi nghĩ và lắc mạnh đầu, muốn rũ cái cảm giác hư hư thực thực đang làm choáng váng tôi. Tôi ngồi xuống ghế trước cha tôi. Ông đang loay hoay sửa quai dép. Nếu như không có cha tôi ở đây, hẳn tôi sẽ không chịu rút lui! Vậy ra em đâu phải là cô gái rụt rè, e lệ mà lâu nay tôi cứ thầm thích thú mỗi lần nghĩ đến đặc điểm ấy? Thì ra bấy nay ta đang yêu một mối tình giả tạo? Không! Sao lại nghĩ thế? Mỗi ngành nghề có một đặc điểm riêng của nó chứ!
Tôi cầm li bia run rẩy uống. Tôi đặt li xuống bàn trong khi cha tôi hoảng hốt cầm dép trên tay thông báo ông vừa mất cắp cái ví trong túi xách tay! Sao lại có thể cùng lúc xảy ra với tôi lắm chuyện rủi ro thế này? Hay cái ví của cha tôi mất từ lúc trên xe buýt? Nhưng mới vừa đây thôi, cha tôi còn mở nó ra, bảo tôi lấy tiền mua bia! Tôi cảm thấy choáng váng và tự dưng chỉ muốn đấm đá. Tôi đã từng nổi xung, đấm tay thuế vụ ở bến xe Trà Bá cách đây vài tuần khi có một bác đi thăm con trên biên giới mang theo ít cá khô. Tay thuế vụ ấy quát mắng bác và phạt bác trong khi mấy con phe thì ngồi điềm nhiên cười và nói. Rõ là cái nhà bác đi thăm con kia vừa nghèo vừa ngớ ngẩn, cứ khóc khóc, mếu mếu xin xỏ khiến tôi không chịu nổi. Tôi nhảy tới, quên mất mình là ai và chịt cổ tay tên thuế vụ... Nhưng giờ đây người ta đông quá. Người ta đang xúm xít vào cha con tôi. Tôi bỗng thấy như có bàn tay ai đó giật mạnh. Và tôi quay ngoắt lại.
- Anh Thương, anh làm sao thế?
- Mất sạch rồi- Tôi nói.
- Anh mất à?
- Ba tôi.
Tôi nhận ra em. Nhưng cha tôi đâu rồi? Tôi hoảng hốt xé đám đông bước ra cửa quầy bia và nhận ra cha tôi đang dang tay nói chuyện với đồng chí công an. Rõ ràng cha tôi đang nói điều gì nặng lắm, và tôi nhào tới bên ông, trình bày cụ thể. Cha tôi mất hết tiền và giấy tờ. Vâng, điều ấy thật kinh khủng đối với tôi. Đồng chí công an khuyên cha con tôi bình tĩnh về nhà khách, ngày mai sẽ được trả lời. Tôi dẫn cha tôi xuống cầu thang, không kịp nhìn thấy em lần chót...
Cha con tôi nhảy xích lô về nhà khách với một tâm trạng thật nặng nề. Cha tôi bình tĩnh lại và ông động viên tôi. Ông hy vọng ngày mai, mọi thứ mất mát củ 10000 a ông sẽ được tìm ra. Theo ông, kẻ cắp chưa đi khỏi quán. Tôi cũng tin như thế và tôi tiễn cha tôi lên tận phòng.
Tôi bước xuống đường phố buồn bã. Phố xá vẫn đông người. Tôi không có ý định đi xích lô về căn phòng của tôi trong tòa báo lúc này. Nhưng có lẽ biết hoàn cảnh của tôi, bác xích lô đã chờ sẵn và bảo tôi cứ lên xe, bác trừ cho một chuyến khứ hồi...
Tôi không muốn mở khóa căn phòng. Mấy tháng nay đi vắng tôi như người xa lạ. Giờ đây đứng trên ban công nhìn xuống lòng đường. Cơ quan tôi vắng ngắt. Tôi nảy ra ý định tới nhà một người bạn. Nhưng nhìn đồng hồ đã gần mười giờ. Thôi, hãy bình tĩnh, tôi tự nhủ. Hay ta lại tới quán bia? Ý định ấy thôi thúc tôi và tôi lao xuống cầu thang. Tôi hy vọng cái ví của cha tôi sẽ được tìm ra. Tôi sẽ đem lại ngay cho cha tôi, nếu các đồng chí công an đã tìm được. Tôi cứ có linh cảm cái ví ấy không thể mất. Nhưng nếu nó mất thật thì sao? Liệu cha tôi có phải hủy bỏ chuyến đi? Không thể thế được- tôi lại nghĩ. Nhất định cái ví phải tìm ra...
Tôi không ngờ em đang hớt hải dắt xe lên hè, rẽ vào cổng tòa báo tìm tôi. Em mặc quần côn, áo phông trắng, đứng trước tôi, reo nhỏ:
- Anh Thương!
- Chào cô.
- Người ta tìm được ví cho ba anh rồi đó.
- Thật à?
- Mất thế nào được- Em nói- Chúc mừng anh nhé.
- Cảm ơn.
- Anh giận em à?
- Sao tôi lại giận cô?
Và tôi bước xuống lòng đường. Em lạch cạch dắt xe đi bên. Một lúc sau em nói:
- Em sắp cưới anh Thương ạ.
- Tôi không phải là người yếu bóng vía.
- Em không nói đùa đâu.
- Vậy thì chúc mừng cô.
- Em vẫn muốn gặp anh.
- Làm gì?
- Chả làm gì cả. Nhưng anh là người có tâm hồn...
- Cô cũng nghĩ đến tâm hồn kia à?
- Anh đừng khinh em.
- Tôi kính phục cô.
- Anh chồng tương lai của em... em không yêu... Nhưng... em quyết định lấy.
- Tôi không hiểu.
- Rồi anh hiểu.
Im lặng một lúc lâu. Tôi nói:
- Tốt hơn hết là chúng ta chia tay.
- Được- bỗng em nói dứt khoát- Chào anh nhé. Em nhảy lên xe đạp vụt đi. Tôi toan chạy theo níu em lại. Nhưng em đã lượn sang một ngõ nhỏ bên kia đường. Tôi lặng lẽ quay về, lặng lẽ đứng tựa bên cây cột trụ trước cổng tòa báo. Thế là chia tay thật ư? Tôi đã già rồi chăng, hay ít ra những ý nghĩ của tôi đã già? Ôi, tình yêu là cái gì mà mi đẩy ta vào tình thế rắc rối thế này?
*
* *
Chỉ có tôi và anh chàng trưởng phòng của anh tôi tiễn đoàn cán bộ tỉnh nhà ra sân bay. Mấy ngày ở Hà Nội, mặc dù gặp nhiều trắc trở vặt vãnh, nhưng nói chung tôi đã thực hiện được trọn vẹn chương trình riêng của mình. Và cha tôi rất vui trước giờ bay. Tôi lấy làm thỏa mãn. Tuy nhiên, từ hôm qua tới giờ tôi thấy trong người không được khỏe cho lắm. Đó là kết quả của nhiều ngày qua tới giờ tôi sinh hoạt thất thường. Có thể tôi bị cảm hoặc cùng lắm là những trận sốt rét. Thỉnh thoảng tôi bị choáng váng vì các vết thương cũ đồng loạt tê buốt. Tôi cố kìm giữ, không để lộ cho cha tôi biết. Các vết thương cùng tật bệnh có thể đẩy tôi vào bệnh viện ư? Trên xe, tay trưởng phòng của anh tôi hôm nay cũng tỏ ra linh hoạt hơn. Anh ta luôn miệng nói về quyển sách mà anh ta mới đọc và khuyên thủ trưởng của anh ta cùng cha tôi sang Liên Xô, nên ghi vào nguyện vọng của mình là được gặp nhà văn, tác giả quyển truyện đó. Anh ta mấy lần hỏi tôi đã đọc quyển truyện ấy chưa. Tôi lạnh lùng trả lời là "chưa". Tôi không hề thích nghe anh ta nói, nhất là nói về "Quy luật của muôn đời", tên cuốn sách ấy. Dù sao tôi vẫn buộc phải nghe, nhưng tỏ ra lơ đãng. Công bằng mà nói, câu chuyện của anh ta kể về quyển sách, kể về tác giả của nó khá hấp dẫn. Anh ta bảo rằng ông nhà văn ấy cũng là người dân tộc ít người. Rằng tuy vậy, ông ta nhìn nhận cuộc sống không kém bất cứ người dân tộc nào trên thế giới. Rằng ông ta đã vượt qua cái ranh giới của sự mặc cảm dân tộc rất hay mắc ở một vài nhà văn khác. Vân vân. Và tôi phần nào bị anh ta cuốn hút.
Cái nhìn khó chịu thầm kín bấy nay trong tôi đối với anh ta có dịu bớt sự kinh tởm. Té ra anh ta cũng là người quan tâm đến những vấn đề đời sống xã hội, đến cả văn học nghệ thuật. Tôi thấy anh ta ghi rất chi tiết cho ông giám đốc của anh ta cách đặt vấn đề tìm gặp nhà văn, thậm chí cả những câu hỏi và câu trả lời. Rồi anh ta nhét vào tay ông giám đốc quyển sách ấy, bảo rằng, dù sao bác cũng cần đọc nó trước khi gặp tác giả. Rõ ràng là anh ta vẫn mắc cái bệnh không chú ý tới thái độ của người nghe. Thậm chí anh ta không nghĩ rằng ông giám đốc cũng như cha tôi, cả hai người từ trước tới giờ chưa hề cầm tới những quyển truyện chứ chưa nói tới việc đọc nó, lại còn suy nghĩ về nó nữa! Ấy thế nhưng ông giám đốc của anh ta tỏ ra rất sốt sắng, nhận lời gợi ý của anh ta ngay. Còn cha tôi, quả thật, chưa bao giờ cha tôi bỏ thời gian quan tâm tới những chuyện mà ông cho rằng quá rắc rối, quá phiền nhiễu ấy. Ông bảo văn học với lại nghệ thuật chẳng qua là gia vị cho đời sống. Mà đời sống ở ta đang khó khăn, cần thịt cá, cơm gạo trước đã... Cha tôi chỉ đọc báo tỉnh. Gọi là đọc nhưng thực ra ông chỉ lướt qua. Đôi lần ông đọc kỹ khi thấy bài báo nói về huyện mình. Bài nào có ý gì trái với ông, thế nào ông cũng tìm gặp được ông Tổng biên tập của báo "nhắc nhở". Tôi đã nhiều lần giải thích cho ông về báo chí, nhưng ông tỏ ra không có ý định thay đổi quan niệm của mình. Có lẽ chính điều ấy đã phần nào cản trở tầm nhìn của cha tôi trong công tác lãnh đạo.
Anh chàng trợ lý giám đốc, trưởng phòng của anh tôi tỏ ra mãn nguyện lắm khi máy bay cất cánh. Trên đường trở về Hà Nội, anh ta mới thực sự chú ý đến tôi, khi chúng tôi cùng ngồi vào ghế sau của chiếc xe La-đa mới, êm ru. Anh ta gần như hoảng hốt kêu lên rằng, trông tôi gầy rộc hẳn đi, và nom thần sắc rõ ràng là tôi đang lâm bệnh. Tôi cảm thấy trong người mệt mỏi rã rời, chỉ muốn nhanh về tới căn phòng nhỏ của tôi, nằm lăn trên giường rồi muốn ra sao thì ra. Nhưng anh ta đã làm một việc khiến tôi rất cảm động là khẩn khoản đề nghị đồng chí lái xe đưa ngay tôi vào bệnh viện, bất chấp lời từ chối của tôi. Quả tình là tôi bị ngất xỉu chẳng rõ vì nguyên nhân gì. Tuy nhiên, tôi còn loáng thoáng nghe được tiếng nói the thé của anh ta rằng, anh ta sẽ lo mọi việc cho tôi. Rõ ràng là tôi không cưỡng lại được những gì đã xảy ra. Tôi nằm gọn trong vòng tay con người mà bấy nay tôi hằng khinh ghét. Nằm trong phòng cấp cứu, tôi nhận thấy gương mặt tái nhợt của anh ta lúc nào cũng cúi xuống bên tôi. Cuối cùng rồi tôi cũng trở lại trạng thái bình thường. Các bác sĩ bảo nếu chậm vài ba tiếng nữa, tôi có thể bị cấm khẩu hoặc tê liệt khu vực thần kinh có liên quan tới thanh quản. Người ta bảo rằng các vết thương trong người tôi có sự di chuyển tạo nên những cơn co rút kỳ quặc giữa các dây chằng bên má. Thậm chí tôi có thể bị méo miệng. Sự tái phát của các vết thương có thể xảy ra những biến cố bất ngờ nếu ta không tuân theo quy định của các nhà chuyên môn. Các bác sĩ hỏi rất kỹ rằng ngoài những vết thương trên người, tôi có bị ngã hoặc một tai nạn nào đó gây chấn động mạnh đến sọ não từ bé đến giờ không. Tôi chỉ nhớ có mỗi lần tôi và Rơ Chăm Rót làm cái kho muối trên vách núi đá. Khi trở về tôi bị trượt chân ngã, cái răng cửa quặp vào trong. Tôi đã dùng tay đẩy nó trở lại vị trí cũ. Máu chảy khá nhiều và tôi có hơi bị choáng vài ba phút. Tuy nhiên sức khỏe của tôi khi ấy khá tốt nên chừng nửa tháng sau, cái răng của tôi chỉ gây nên cảm giác ngưa ngứa một thời gian, rồi trở lại chắc khỏe như thường. Anh bạn trưởng phòng của anh tôi săn sóc tôi và động viên tôi. Trong câu chuyện của anh ta không còn thấy các cặp phạm trù, các thuật ngữ kinh tế chính trị nữa. Tòa báo biết tin tôi đau ngay sau khi tôi được nằm trên giường cấp cứu là nhờ anh ta. Các bác sĩ trong bệnh viện và bạn bè tới thăm, ai cũng nhắc tới anh ta như nhắc tới một người thân thiết. Rõ ràng không thể chê vào đâu được nhiệt tình của anh ta đối với tôi. Anh ta còn tuyên bố, ở Hà Nội, anh ta là người có trách nhiệm chính về tình trạng sức khỏe của tôi. Tôi bảo anh ta nên thu xếp về lại trong đó công tác. Anh ta kiên quyết chờ khi nào tôi khỏe mới về. Anh ta còn bảo, giữa tôi và anh ta cần có một cuộc đối thoại để hiểu nhau. Rằng điều đó bao giờ cũng tạo nên điều kiện cho tâm hồn con người được thanh thản hơn. Tôi có cảm giác anh ta muốn thanh minh hoặc ít nhất muốn tôi hiểu cho anh ta một sự uẩn khúc nào đó sau cái chết của anh tôi. Và nhất là nghe người ta nói, hình như có ai đó viết đơn kiện anh ta về việc đối xử với anh tôi không được sòng phẳng. Tôi bảo với anh ta rằng tôi không thích có cuộc đối thoại kiểu ấy. Rằng nếu cần, vào trong kia, ta "làm việc" với nhau. Anh ta cười bảo tôi, không phải ở đâu và khi nào người ta cũng có thể tạo không khí cần thiết cho những cuộc nói chuyện nhằm đem lại kết quả như người ta cùng mong muốn. Và tôi im lặng, chờ đợi. Cuối cùng, vào một buổi tối khá yên tĩnh ngoài hiên của bệnh viên, tôi và Thái- tên của con người tôi hằng khinh ghét và gọi là "tay trưởng phòng của anh tôi" ngồi hút thuốc vặt. Thái tháo kính ra lau đi lau lại liên tục, rồi lại đeo vào vẻ lúng túng. Tôi không có ý định nói trước vì cuộc đối thoại này là do yêu cầu của anh ta. Thái mở đầu rất khó khăn, tuy nhiên, sắc mặt anh ta không có vẻ gì thay đổi...
- Ông thù tôi lắm phải không?- Anh ta nói. Và tôi dù đã có ý chuẩn bị trước, nhưng không nghĩ rằng anh ta lại hỏi tôi như vậy.
- Anh hỏi tôi thế để làm gì?- Tôi lạnh lùng trả lời.
Thái giương kính lên nhìn tôi:
- Chắc ông biết, gần đây có người kiện tôi?
- Thì sao?
- Tôi ra Hà Nội chuyến này vì có ông cùng đi- Thái nói- Tôi thành thật nói như vậy. Và tôi nghĩ rằng lá đơn ấy không phải do ông viết. Nhưng có ý kiến của ông.
- Tôi không bao giờ có ý định phải kiện tụng ai hết.
- Dầu sao mọi việc cũng đã diễn ra rồi. Đừng nên kéo người khác vào tội lỗi, khi người ta không có tội ông Thương ạ.
- Anh bảo ai kéo anh vào tội lỗi?- Tôi nổi xung
- Dù sao-thì-mọi-việc-cũng-đã-diễn-ra-rồi?- Tôi dằn từng tiếng, nhắc lại lời anh ta và tiếp:- Sự việc diễn ra rồi nhưng chúng ta phải có trách nhiệm về nó.
- Việc ấy không có liên quan tới tôi.- Thái nói.
Tôi cảm thấy người run lên:
- Anh phủi tay như thế là không xong đâu! Anh phải chịu trách nhiệm về mọi việc đã diễn ra với anh tôi thậm chí với cả gia đình tôi.
- Vậy ra xưa nay anh cậu, gia đình cậu sống lệ thuộc vào tôi à?- Anh ta chuyển cách xưng hô.
- Anh đừng bố láo- Tôi thực sự nổi nóng- Anh muốn gì ở tôi?
- Tôi muốn cậu bình tĩnh, nhìn nhận lại vấn đề.
- Sự thực là chính anh đã đẩy anh tôi vào ngõ cụt.
Anh ta cười nhạt:
- Nếu ngược lại thì sao?
- Chẳng bao giờ có chuyện ấy. Anh không nhớ là Rơ Lan Thương xin các anh một chuyến công tác ra Hà Nội để đọc tài liệu, tham khảo thêm ý kiến thầy và bạn, các anh đã không cho?
- Đúng. Nhưng anh cậu vẫn ra Hà Nội.
- Anh tôi ra bằng tiền túi của mẹ tôi. Mẹ tôi đã phải bán con heo nái lấy tiền cho anh.
- Chuyện ấy tôi không biết- Anh ta cãi lại.
- Các anh chỉ biết đón đầu, khi anh tôi về đến cơ quan, chưa kịp báo cáo các kết quả đã bị các anh ấn vào tay quyết định đình chỉ công tác vì vô tổ chức.
- Vậy tôi hỏi- Thái nói- Chẳng lẽ cấp bằng khen cho anh cậu à?
- Đồ bất lương!- Tôi không kìm nổi nữa, thét vào mặt anh ta.
Tôi quay vào phòng, bỏ mặc anh ta đứng đó. Té ra anh ta ra Hà Nội vì cố tình tìm cách dàn hòa với tôi hoặc mua chuộc, hoặc ít ra cũng khiến tôi im miệng, nếu có chuyện gì đó bung ra. Tôi cũng không nghĩ được rằng, sau cái chết của anh tôi đã có ai đó kiện tụng. Anh ta lẽo đẽo theo tôi vào phòng, ngồi bên mép giường. Tôi trùm chăn mặc dù trời không lạnh. Anh ta cười hì hì giúi vào tay tôi quyển truyện, và nói:
- "Quy luật muôn đời" đấy, ông Thương ạ. Tình thương yêu giữa con người với con người là vấn đề vĩnh cửu...
- Anh về đi, tôi nói. Tôi không thèm nhận cái tình thương yêu của anh đâu.
- Ông hiểu lầm tôi, ông Thương ạ.
Tôi không nói gì thêm. Anh ta hình như đứng tần ngần một lúc rồi bỏ ra khỏi phòng.
Sự việc diễn ra vừa rồi cứ quay chong chóng trong đầu tôi. Tôi nghe thấy rất rõ tiếng anh tôi chửi hắn là đồ con heo. Tất cả những cơn nóng nảy đều đem lại cái kết thúc không lành mạnh. Anh tôi đã nóng nảy chửi hắn. Và sau đó, không thèm nhìn mặt hắn. Và sau đó nữa, Rơ Lan Thương xin đi Hà Nội, nhưng lại không thèm trình bày với hắn, không thèm nhún nhường một chút nên hắn đã kiên quyết không đồng ý. Bắt đầu là như thế và Rơ Lan Thương đòi nghỉ phép. Người ta chỉ ký giấy phép cho về quê chứ không đồng ý cho anh nghỉ phép ngoài Hà Nội. Tôi láng máng cảm thấy điện sáng và bộ dạng anh tôi đang ngồi trên sàn cửa kể chuyện những bà mẹ miền Bắc tiễn con lên đường đánh Mỹ cho mẹ và chị tôi nghe. Vòng vo mãi anh mới nói với mẹ tôi là xin ra Bắc thăm bà mẹ nuôi. Mẹ tôi đồng ý ngay... Tôi lại nhận ra bóng dáng chị H' Thoan cầm cây sáo trúc đập vào mặt tay phó đoàn của chị, kẻ sợ chết mà bảo những con người dũng cảm là hèn nhát hay cái gì đó đại loại như vậy. Tôi cảm thấy nóng nực kinh khủng và tôi bung chăn, chợt giật mình nhận ra tay trưởng phòng của anh tôi vẫn đang ngồi ngoài hiên hút thuốc. Anh ta chờ tôi? Anh ta đang toan tính những âm mưu gì hòng bắt tôi phải dính líu? Tôi đi vòng ra cửa phía sau. Hành lang bệnh viện lúc này sao mà vắng vẻ. Tôi thầm mong có ai đó cùng tôi ra vườn dạo quá. Nhưng hình như mọi người đã tập trung trong phòng chiếu vô tuyến. Tay trưởng phòng của anh tôi bước rất mau tới, nắm tay tôi:
- Cậu đang sốt đây này, Thương ạ. Vào phòng nghỉ đi.
- Tôi cảm thấy anh như ma- Tôi nói- Anh đừng quấy tôi nữa.
- Sao lại nói thế? Mình không phải tầm thường như cậu nghĩ đâu.
- Thế anh muốn tôi nghĩ về anh thế nào?
- Cậu nóng quá.
- Với anh, tôi dịu ngọt để làm gì?
- Thôi thôi, lúc khác ta nói chuyện tiếp. Giờ ông đang sốt. Tôi gọi bác sĩ giúp nhé.
- Anh không lợi dụng được tôi đâu. Dù sao cũng xin cảm ơn. Anh nên đăng ký máy bay, bay vào đi.
- Làm cái gì mà căng thẳng thế, Thương?
- Anh đừng lẵng nhẵng thế nữa. Để cho tôi yên.
Anh ta lủi thủi bước ra cổng bệnh viện. Có lẽ tôi phải bay vào sớm, thậm chí trước anh ta. Hoặc có thể tôi phải về quê ít ngày tránh anh ta. Tôi không nghĩ rằng anh ta có thể xoay chuyển được tôi. Nhưng dù sao cũng phải nghĩ tới trách nhiệm của tôi tới những gì sẽ xảy ra sau cái chết của anh mình. Ai là người viết đơn kiện? Và nội dung lá đơn ấy là gì? Có phải chị H' Thoan? Hay một ai đó trong cơ quan anh tôi?
Tôi bước vào phòng bệnh giữa lúc mọi người từ phòng xem ti-vi về. Người ta đang bàn luận về câu chuyện vừa xem. Sự ồn ào vui vẻ xung quanh phần nào làm dịu bớt những ý nghĩ căng thẳng trong tôi. Và tôi nằm im lặng cho tới khi thiếp ngủ.
III
C |
âu chuyện lần về quá khứ của tôi tình cờ nảy ra vào lúc nửa đêm, khi tôi choàng tỉnh sau một giấc mơ. Đêm bệnh viện, điện sáng tới mức mọi vật trắng toát cả. Cuộc đối thoại khi tối với tay trưởng phòng của anh tôi khiến tôi bị ám ảnh nặng nề, và có cảm giác lúc nào hắn cũng theo tôi như là cái bóng. Bất chợt hắn đè chụp tôi xuống. Rõ ràng là hắn, không trật đi đâu được. Vậy mà chỉ trong khoảnh khắc, tôi lại nhận ra cái bóng hiện rõ thằng Chín Tung chiêu hồi ngày nào. Tôi lại thấy bóng của hai thằng cùng lúc tiến gần tôi. Chúng nhập làm một rồi bỗng nhào tới trùm lên tôi. Cố mở mắt ra để nhận mặt từng thằng, nhưng hai mí mắt tôi cứng đờ. Không cưỡng được sức nặng của hai cái bóng to cao, mặc dù tôi đã cố sức vùng vẫy. Bình tĩnh lại, lấy tinh thần- tôi nghĩ. Chúng mày hợp sức đánh tao? Nhưng tao không phải chỉ có một mình đâu. Liệu hồn! Và ngay tức khắc tôi thấy Rơ Chăm Rót đang bặm môi gỡ tay hai cái bóng đang bíu chặt tôi. Thằng Chín Tung nghiến răng, quặp cổ tôi. Tôi co người, vặn mình, vùng dậy được giữa lúc Rơ Chăm Rót gỡ tung tay hắn, giật mạnh khẩu K59. Chúng tôi cùng lom khom bước giữa đêm tối mịt mùng. Chuyện ấy là có thật. Ngày ấy Chín Tung là huyện ủy viên. Rơ Chăm Rót là đội trưởng đội công tác, còn tôi là chiến sĩ. Hai chúng tôi được huyện cử đi đón hắn mới họp xong từ trên tỉnh về. Căng thẳng nhất là phải vượt qua đường 19. Rơ Chăm Rót đi trước, đến Chín Tung, và sau đó là tôi. "Địch bắn pháo dữ quá- Rơ Chăm Rót nói- Mình phải đi xuyên qua ấp địch, tránh pháo địch".- "Nguy hiểm lắm các cậu ạ"- Hắn nói. "Đường nào cũng nguy hiểm anh Chín ạ"- Tôi nói- "Nhưng nếu đi xuyên ấp, gặp địch mặt đất ta còn tránh được". Hắn miễn cưỡng theo ý chúng tôi. Nhưng vào trong ấp rồi, tôi thấy hắn run quá. Khẩu K59 trên tay hắn cứ nhắp nhắp sát lưng Rơ Chám Rót. Coi bộ không ổn- tôi nghĩ. Tuy vậy hắn vẫn bám sát Rơ Chăm Rót không rời một bước. Tôi cúi xuống quan sát, thấy rõ hắn run lập bập. Kiểu này chỉ cần có tình huống gì bất ngờ, hoặc lỡ "ông Chín" trượt ngã, khẩu súng cướp cò và Rơ Chăm Rót sẽ ăn đạn. Không được- tôi lại nghĩ. Bây giờ đã ở trong ấp rồi, mà đã ở trong ấp thì tình huống bất ngờ xảy ra là chuyện thường. Không còn tính toán hoặc bàn bạc gì được nữa. Tóm lại, phải hành động. Tôi đã hành động như một phản ứng bản năng chính xác. Tôi thoáng nhận ra tôi vừa làm điều gì đấy thật thô bạo nhưng rất cần thiết. Chỉ còn nhớ trong khoảnh khắc của ánh sáng đèn pha nơi đỉnh chốt Mỹ, vừa loáng cái, tôi đã giật khẩu K59 ra khỏi tay Chín Tung và động tác thảng thốt khi bị tước vũ khí bất ngờ của hắn. "Ủa... Mày... Mày làm gì?"- Hắn run rẩy nói và tôi nghiêm giọng quát rất nhỏ: "Im! Đi!"- Tôi huơ tay ra lệnh. Hắn hiểu ý tôi ngay, ngoan ngoãn bò theo bóng Rơ Chăm Rót qua hàng rào kẽm gai. Tôi thở phào khóa chốt an toàn súng giắt vào bụng, bò theo. Sự việc diễn ra nhanh tới mức Rơ Chăm Rót cũng không hay biết. Suốt cuộc hành trình tôi luôn tự nhắc mình, rằng thái độ của mình với cấp trên như thế là sai, nhưng trong chiến tranh, có những phản ứng bất ngờ, dù biết là sai cũng không sao cưỡng được. Cái cần thiết nhất là giữ an toàn, bảo vệ an toàn cho cấp trên, còn thái độ, sau đó ta sẽ thanh minh vậy... Chúng tôi vào tới con suối An Toàn nơi cửa rừng. Con suối ấy bao giờ cũng là niềm vui sướng của chúng tôi mỗi lần vượt đường. Những tảng đá lớn phẳng lì thật hấp dẫn. Tôi đã trao trả súng ngắn cho Chín Tung một cách gọn nhẹ, gần như khi tôi giật nó ra khỏi tay hắn. Rơ Chăm Rót cũng không hề hay biết, và điều ấy làm tôi thích thú. Tôi đoán chắc trong cái ba lô dù căng phồng của Chín Tung, thế nào cũng có nhiều đồ ăn. Tôi đã giở cái thói láu vặt lính tráng của mình ra, nháy mắt bảo Rơ Chăm Rót rằng: "Hôm nay nếu lỡ thủ trưởng có chiêu đãi thì chớ có từ chối". Rơ Chăm Rót lừ mắt nhắc tôi không nên gợi ý. Tôi phải kéo Rơ Chăm Rót vào bụi, làm như hai đứa cùng đi tiểu kể nhanh chuyện giật súng của Chín Tung khi đêm, và giao hẹn với anh rằng, hôm nay thì dù có no, nhưng nếu anh Chín có mời cũng ráng chén cho sạch, vì tôi đã có "kế hoạch". Rơ Chăm Rót vui vẻ gật đầu. Đến khi tôi và Chín Tung cùng khỏa nước rửa mặt, hắn bảo tôi: "Đêm qua cậu nóng quá!"- "Dạ, em xin lỗi! Em chỉ lo thủ trưởng ngã, cướp cò súng thì nguy."- "Cướp thế nào được"- Hắn nói- "Có điều mình mang nhiều tài liệu mật rất quan trọng, nên cũng phải cảnh giác".- "Vâng ạ!"- Tôi nói- "Thì em cũng nghĩ vậy"- "Thôi được, thế cũng là tốt"- Hắn hạ giọng cười- "Có điều chú mày đừng có nói ra, người ta hiểu lầm sang vấn đề khác...". Tôi bắt được thóp Chín Tung sợ mất uy tín, nên cười nói: "Anh yên tâm, chuyện vặt ấy mà".
Rõ là hôm ấy, tôi và Rơ Chăm Rót cùng bước chân phải xuống võng! Chín Tung hào phóng chưa từng có. Và chúng tôi cũng có lòng có dạ chưa từng có. Hắn bày ra kín mặt phiến đá lớn nào lương khô, đường sữa, nào ruốc bông, thịt heo rừng rang khô, một hăng- gô cơm trắng muốt và một vắt cơm cũng trắng thơm không kém. Chúng tôi cũng đem hai vắt cơm bằng hai quả trứng vịt ra đóng góp. Hành quân suốt đêm, cái dạ dày cứ liên tục khuấy đảo chúng tôi, bây giờ muốn hay không nó cũng phải cố gắng hết khả năng mình! Hai đứa tôi đã "đánh bay" tất cả những thứ gì được bày ra, mặc dù ống cóng thịt heo có hơi mặn. Rơ Chăm Rót chẳng lạ gì tính keo bẩn của Chín Tung. Một đôi lần anh đã dẫn Chín qua đường về tới suối An Toàn này, cũng ngồi ăn cơm, nhưng mỗi người chiếm lĩnh một tảng đá, lặng lẽ nhai tiêu chuẩn của mình. Vậy mà bữa nay, sau khi ăn, Chín Tung còn mở thêm hộp sữa nước với gói cà phê Mỹ ra nhâm nhi cùng chúng tôi. Tôi cứ bấm bụng cười và thầm "gặm nhấm" cái niềm vui trẻ con của tôi là: Con người ta ai cũng đều có cái quyền của mình, không lệ thuộc vào cấp bậc, chức vụ, tỉ như hôm nay đây, giá tôi có xin cái ba-lô dù kia của Chín, hẳn anh ta cũng chẳng dám từ chối!
Hết đợt công tác ấy, chúng tôi được huyện ủy gọi về chỉnh huấn đại hội Đảng và bồi dưỡng sức khỏe. Ngay ngày đầu vừa đặt chân tới đất hậu cứ, Chín Tung đã rất đon đả chào đón chúng tôi. Anh ta còn cho gọi tôi và Rơ Chăm Rót lên "tư tỏi". Tôi ngầm hiểu cái thiện cảm đặc biệt mà anh ta dành cho mình, nhưng không nói gì. Rơ Chăm Rót khi ấy chưa phải là người chín chắn như bây giờ, anh cười bảo tôi: "Ông Chín mời ăn, chúng mình cứ ăn. Nhưng việc bỏ phiếu thì mình không bỏ". Tôi nhất trí với anh và hai đứa tôi xúng xính tới lán "thủ trưởng Chín". Ngay câu đầu tiên, sau khi ngồi vào cái sạp nứa dưới nhà hầm có bày rá thịt gà luộc và nồi cháo. Chín Tung đã nói: "Bầu cấp ủy lần này, theo ý các cậu mình có gì phải tính trước không?". Tôi vì mới vào Đảng nên chưa thạo không khí bầu bán. Nhưng Rơ Chăm Rót rất tinh nhạy, anh nói ngay: "Tính lại gì? Ai chỉ thích vào cấp ủy để có nhiệm vụ ở nhà thì tui không bầu!". Chín tưởng Rơ Chăm Rót thắc mắc với những người ở hậu cứ, hắn nói:
- Mình có chân trong thường vụ lần này, thế nào cũng xem lại vấn đề ấy. Các cậu năm nay phải được về phía sau vài tháng cho lại sức.
- Tui không ưng về phía sau- Rơ Chăm Rót nói.
- Vậy cậu muốn gì?
- Tui ưng giải phóng miền Nam ngay.
- Đó là việc chung, đây tôi muốn nói chuyện trong nhà thôi.
Rơ Chăm Rót đứng dậy, nói:
- Tui nghe anh nói không trúng lỗ tai. Chuyện bầu cấp ủy mà anh coi là chuyện trong nhà? Ăn thịt gà của anh để bỏ phiếu cho anh à?
Chín Tung lúng túng níu Rơ Chăm Rót lại. Nhưng anh không nghe. Rõ ràng là tôi lâm vào tình thế khó xử. Thật tình khi ấy, trong thâm tâm tôi muốn quên những chuyện cũ đi. Ấy vậy mà chính Chín Tung sợ chúng tôi nhớ mà gợi lại! Lòng tham của hắn ta không cưỡng được, chỉ sợ nói xa chúng tôi không hiểu ý, nên cứ tìm cách nói thẳng.
- Thôi, để cậu ấy về- Anh ta nói với tôi- Em ở đây với anh. Đồ ăn cháo đái bát. Chính anh là người giới thiệu cậu ấy vào Đảng.
Tôi đành ngồi xuống, định bụng ăn uống qua loa cho phải phép rồi về. Ai dè, Chín Tung cứ léo nhéo mãi cái thuyết của hắn ta là: Làm việc với người dân tộc rất khó, rằng chính mình làm hết mọi chuyện nhưng họ lại nắm quyền, rằng cái gì cũng đến tay mình... Tôi không hiểu vì sao mà có một cán bộ, một người làm đến chức huyện ủy viên mà nghĩ thế và tôi đã không kìm được khi hắn bảo: "Cậu kết nghĩa cha con với ông Kơ Sor Mík thật đấy à?". Tôi nói: "Anh định nói gì, tôi không hiểu". Và tôi đứng dậy, xin phép về. Chín Tung ấn vai tôi:
- Ngồi xuống đây nào. Còn một số chuyện nữa anh muốn nói với em.
Tôi không từ chối được, đành ngồi xuống, nói:
- Chuyện gì nhỉ?
- Anh em dân tộc người ta ít văn hóa, lại hay mặc cảm, hay tự ái. Mình mà không trúng cấp ủy lần này, anh em Kinh còn vất vả.
Té ra anh ta muốn vào cấp ủy để giành "quyền lợi" cho anh em Kinh thôi à? Tôi nóng mặt quyết không ngồi thêm nữa.
- Anh Chín ạ!- Tôi nói- Tôi không nghĩ là anh hèn đến thế đâu.
- Cậu bảo ai hèn?
- Anh không hèn thì cũng là thằng sợ chết!
Chín tím mặt, nhưng cố nói:
- Sợ chết thì không làm cách mạng được. Cậu đừng có hỗn thế.
Tôi nói:
- Cách mạng không phải nơi tạm trú cho những thằng hèn!
Tôi không nhớ là đã có ai đó kéo tôi ra khỏi nhà Chín Tung. Câu chuyện cãi cọ giữa Rơ Chăm Rót, tôi và Chín bung ra khiến cha tôi rất phiền lòng. Ông cho rằng tôi và Rơ Chăm Rót cậy mình vừa ở phía trước về nên công thần, ăn nói văng mạng. Không thể cãi lại ông, cũng không thể thanh minh, tôi và Rơ Chăm Rót đều làm thinh.
Lần bầu cấp ủy ấy Chín Tung vẫn trúng. Còn tôi và Rơ Chăm Rót cùng ba đồng chí nữa lại trở ra phía trước với nhiệm vụ của mình...
*
* *
Thế rồi thời gian cứ trôi qua. Tôi và Rơ Chăm Rót cùng ba đồng chí nữa đi phía trước không có điều kiện để ấm ức cái chuyện cãi cọ với Chín Tung. Cuộc chiến đấu ngày càng quyết liệt. Nhiệm vụ của đội công tác chúng tôi là phải nắm cơ sở vùng K. Năm người, nắm tay súng quần nhau với địch suốt ngày đêm. Gài mìn, phục kích, đánh nghi binh, bắn tỉa, xây dựng cơ sở, nằm địch, vận động quần chúng đóng góp cho cách mạng, dẫn đường cho cán bộ, giúp D5 hoạt động khi cần thiết, giúp hai làng vùng giáp ranh chống càn, hướng dẫn du kích hoạt động... Bấy nhiêu công việc, bấy nhiêu con người, chưa kể đến việc gùi gạo, muối, gùi sắn, tự lo nấu ăn. Quay đi quay lại mới được hơn ba tháng, hai đồng chí hy sinh, một đồng chí bị thương phải đưa về phía sau. Cuối cùng còn lại chỉ có tôi và Rơ Chăm Rót. "Không có người bổ sung"- Cha tôi điện ra cho chúng tôi.- "Hai đồng chí phải bám trụ".
Chúng tôi chỉ còn lại hai con mắt. Nhìn Rơ Chăm Rót hốc hác, phờ phạc mà tôi lo. Nhỡ anh có việc gì tôi sẽ giải quyết công việc thế nào? Giữa ác liệt, khó khăn, mọi tính toán đều chỉ nhằm vào hành động. Hai anh em tôi gần như suốt đêm ngày cắm đầu cắm cổ làm những công việc mà cả hai cùng tự thấy. Chúng tôi trở nên rất ít nói. "Sắp chiến dịch lớn"- cha tôi lại điện- "Các đồng chí vận động cơ sở gởi ra cho "K" hai chục gram giấy, năm thùng dầu xà lách, hai tạ muối, năm ký bột ngọt". Rơ Chăm Rót nhận điện trên trạm về đưa cho tôi, và thế là ngay tối hôm đó hai anh em mò vào ấp. Chưa lo đủ số hàng ấy lại có điện khẩn: "Tiếp tục giữ vững cơ sở, mua thêm muối, sữa, càng nhiều càng tốt". Ai chả biết càng nhiều càng tốt! "Có một tiểu đoàn chủ lực sẽ hành quân qua hướng các đồng chí. Dẫn anh em qua đường an toàn, bí mật. Nếu có gạo giúp anh em một ít". Rơ Chăm Rót gần như câm lặng trước những bức điện khẩn. Còn tôi, mỗi lần nhận điện là một lần cau có, thậm chí văng tục. Tôi văng tục cho cây cối nó nghe, cho rừng già nó nghe, còn nhiệm vụ không thể bỏ. Cha tôi thỉnh thoảng có viết thư động viên. Những lá thư mộc mạc, ngắn ngủi ấy đã kích thích tôi, nhiều lần ứa nước mắt.
Rồi một hôm tôi lăn ra sốt! Rơ Chăm Rót lủi thủi khoác súng đi suốt đêm. Sáng ra anh về, mang theo đồ ăn, thức uống, mang theo cả thuốc sốt, thuốc bổ cho tôi. Sự tồn tại của con người trong chiến tranh, nhiều khi không chỉ lệ thuộc vào hoàn cảnh. Thực tình khi ấy, chúng tôi chỉ tìm cách tồn tại để hoàn thành nhiệm vụ. Hai điều ấy coi như là không còn phải bàn cãi tính toán gì. Tôi sốt, nhưng không được sốt dai dẳng. Tôi cố nhớ hồi hành quân trên đường dây, lúc bị sốt, anh y tá binh trạm tiêm cho tôi những thuốc gì. Cái cách luộc thuốc kí ninh trước khi tiêm, cách đo từ xương cụt tới xương chậu, chia ba, lấy một phần đề xác định chỗ cắm kim. Rồi cách bơm thuốc thật chậm ra sao... Tôi rất sợ sốt rét ác tính. Và vì thế tôi đã bắt Rơ Chăm Rót phải tiêm, theo sự hướng dẫn của tôi, từng động tác. Té ra tiêm thuốc cũng không phải khó lắm. Rơ Chăm Rót đã thành công. Tôi dứt sốt rất nhanh. Nhưng mông cứ nóng tấy lên. Tôi dùng nước nóng chườm, có đến cả tuần lễ mới tan chỗ cứng.
Cái tuần lễ ấy, thời gian trôi qua thật u ám. Trong chiến tranh, chẳng gì cực nhọc và khốn nạn bằng nằm không, đánh vật với những suy nghĩ của mình. Cuối cùng, vì không chịu nổi sự căng thẳng của những ý nghĩ, tôi đã tìm được cách giải khuây khá hấp dẫn. Tôi lẩn thẩn lấy bao gạo dự trữ xuống, ngồi thu mình trong bóng tối rình chuột. Có hôm tôi đập chết cả chục con và sau đó, loay hoay làm thịt, chờ Rơ Chăm Rót về ăn. Thịt chuột ngon không kém bất cứ thứ thịt gì khi lâm vào cảnh ngộ chúng tôi. Chính trong những ngày tối tăm cùng cực ấy, Rơ Chăm Rót đã tìm được một cách làm ăn mới thật hấp dẫn. Có hôm Rơ Chăm Rót đem về cho tôi nào sữa, đường, cá hộp, nào thuốc bổ uống, thuốc bổ tiêm. Mặt mày anh có vẻ sáng rỡ nhưng có cái gì đấy còn giấu tôi vì khi tôi tỏ ra ngạc nhiên, anh cười bảo, cứ khỏi chỗ đau mông rồi anh cho biết tình hình mới. Thì ra chính những ngày điện từ hậu cứ dồn dập gửi ra yêu cầu cao quá mức mà chúng tôi có thể đảm đương, Rơ Chăm Rót một thân một mình lặn lội, được cơ sở gợi ý cho phép một tốp xe bò vàng của nhà tư sản gỗ từ PleiKu xuống, vào khu "rừng cấm" của chúng tôi khai thác. Lâu nay việc các nhà tư sản gỗ vào rừng cấm "ăn trộm" thường xảy ra, và theo chỉ thị của trên, nếu chúng tôi phát hiện được là kiên quyết trừng trị. Đã đôi lần các đội công tác bắn cháy xe... Lần này Rơ Chăm Rót tự ý quyết định móc nối với họ, trao đổi hàng hóa. Mình đang cần gạo, cần muối, cần nhiều thứ cho bộ đội đánh địch, mà người ta cần gỗ, mình trao qua, đổi lại, rừng núi thiếu gì gỗ mà phải tự làm khó khăn cho mình? Bắt đầu từ một ý nghĩ đơn giản thế, và anh đã ra một điều kiện cho họ cũng đơn giản: Cứ một xe gỗ đổi lấy một xe hàng. Chỉ được lấy những cây gỗ do anh đánh dấu, nếu sai sẽ phạt gấp ba. Các nhà tư sản gỗ nhận lời ngay và anh đã thực hiện được một chuyến hàng. Tôi nhớ cái ấn tượng hôm vừa khỏi đau, Rơ Chăm Rót đưa tôi ra "cửa khẩu". Tôi cứ nghĩ nói là nói vậy, cũng có thể người ta đổi, nhưng chỉ vài ba xe hàng là cùng. Ai dè, năm sáu cái xe "bò vàng" một chuyến. Tôi bị bất ngờ trước cảnh tấp nập nơi "cửa khẩu" mà Rơ Chăm Rót tổ chức. Lần đầu tiên tôi được tận mắt thấy mình có nhiều của, nhiều hàng hóa ngoài sức tưởng tượng. Rơ Chăm Rót đã cất công huy động được hai làng Plei OK và Plei Bung xuống gùi hàng, làm kho, bố phòng. Mỗi người gùi hàng cho anh- tức là cho cách mạng, một ngày được thưởng năm ký gạo, một ký muối, một lon sữa. Bà con rất phấn khởi và gần như dân hai làng cùng đổ xuống giải phóng hàng cho chúng tôi. Đó là chuyến hàng thứ hai mà tôi có mặt. Các nhà tư sản gỗ tiếp xúc với chúng tôi thật nhã nhặn, thậm chí rất cung kính. Rơ Chăm Rót mặt sắt lại, ít nói. Anh ra lệnh cho họ chỉ được đi lại trong phạm vi anh quy định. Gỗ hấp dẫn với các nhà tư sản cũng như gạo muối hấp dẫn đối với chúng tôi. Tôi khoác AK đứng cạnh đống hàng, cạnh Rơ Chăm Rót với một niềm vui, niềm kiêu hãnh đặc biệt! Mỗi lần "ông bầu" của toán công nhân khai thác gỗ đan hai bàn tay mập ú vào nhau, cúi mình: "Dà dà, xin quý anh, mời quý anh" gây cho tôi cảm giác thú vị được kẻ yếu khuất phục. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi nhìn tận mắt bọn tư sản. Trước đây tôi tưởng tượng họ khác. Tuy nhiên, tôi luôn có ý thức cảnh giác và thỉnh thoảng lại nhắc Rơ Chăm Rót cẩn thận hơn trong việc giao tiếp. Cuộc tiếp xúc với "ông bầu, bà bầu" cho chuyến hàng thứ ba được định ngày, chúng tôi bố trí trong lán ni-lông, cứ 5 phút có một du kích khoác AK từ trong rừng tới trước cửa lán đứng, báo cáo tình hình xung quanh một lần bằng tiếng Gia Rai để lấy uy. Rơ Chăm Rót nói như đọc:
"- Tui đề nghị một tháng hai chuyến thôi".
"Ông bầu" tư sản gỗ cúi đầu thưa:
"- Dạ thưa quý anh. Một chuyến ra vô khó lắm, xin quý anh cho mười ngày một lần, lỡ ít hôm có đụng độ...".
Rơ Chăm Rót vẫn nghiêm giọng:
"- Một tháng hai chuyến".
"- Dà, thôi thì tùy quý anh".
"- Một chuyến năm xe".
"- Trong đó hai xe muối, hai xe gạo, một xe bột ngọt, sữa, đường, thuốc tây, giấy, dầu xà lách, cá khô, mắm..."
"- Dà... Dà... Dà..."
"- Thêm cho tui một bao tải xà- bông".
"Bà bầu" xen vô:
"- Dà thưa quý ông, xà- bông chi ạ?"
"- Xà- bông bột".
"- Thêm hai cây vải ni-phân".
"- Chô cha- "Bà bầu" thốt lên- Nhiều dữ ta!".
"Ông bầu" mắng "bà bầu":
"- Quý anh dạy chi mình không được cãi ngang nghe!".
"Bà bầu" cúi mình lấy trong túi gói đồ ăn ra mời chúng tôi. Nào thịt gà quay, bò xào, nào tôm hùm luộc, bia lon, rượu Tây. Nhưng chúng tôi nhất định từ chối. "Ông bầu" lấy hai chiếc đồng hồ Senkô biếu hai đứa tôi, cấp chỉ huy, mỗi người một chiếc. Chúng tôi không nhận, không nhận gì hết! Bọn tư sản bao giờ cũng được đằng chân, lân lên đầu- chúng tôi đều nghĩ thế- không thể để chúng mua chuộc.
Hôm ấy, sau khi thu xếp xong hàng hóa, giải quyết phần thưởng cho dân, nhắn được cho D5 tới nhận hàng về hang đá, nơi tập kết của chúng tôi, Rơ Chăm Rót mắc võng xong, nói:
- Chuyện bán rừng chỉ tui và mày biết thôi nghe.
- Sao vậy anh?- Tôi hỏi.
- Mình cứ lấy thêm vài tháng hàng nữa rồi mới báo cáo- Rơ Chăm Rót nói- Báo về nhà sớm tình hình, tui biết, cấp trên không ưng cho mình đâu.
- Điều ấy cần nghiên cứu lại anh Rót ạ!- Tôi nói.
- Nghiên cứu gì? Mình làm, mình chịu. Mình không phản động cách mạng, lo gạo muối cho anh em đỡ làm rẫy, có thời gian đánh địch...
- Nhưng đồng bào biết, D5 biết...
- Tui đã ăn thề với dân làng rồi, không lo- Rơ Chăm Rót nói- Còn D5 tui cũng đã nói với anh Bích, anh Liệu cán bộ tiểu đoàn rồi. Nó không để lộ bí mật đâu. Mình giúp anh em, anh em người ta không thắc mắc mình đâu mà lo.
Tôi cảm thấy có cái gì đấy thật không bình thường đang đến, nhưng không gọi tên cái sự không bình thường ấy ra được, đành lặng thinh. Những kho hàng của chúng tôi được dân hai làng làm chu đáo, bố phòng chu đáo. Tuy nhiên, khâu gài bẫy, gài mìn, gài măng- cũng chỉ tôi, Rơ Chăm Rót và hai già làng được biết. Rồi chuyến hàng thứ tư, thứ năm hoàn thành. Thỉnh thoảng chúng tôi sang D5 chơi. Chúng tôi được anh em quý mến như người nhà. Chỉ có điều, vì lo trông coi kho, lo tính toán vào sổ, lập sơ đồ kho với bao nhiêu công việc để quản gần hai chục cái kho suốt mấy tháng qua, chúng tôi bỏ bê công tác nắm cơ sở. Thậm chí chúng tôi không còn thời gian xuống ấp nắm tình hình địch. Bù lại, anh em D5 hoạt động tăng lên, áp đảo địch, đánh nhiều trận hay, nhổ được hai đồn dân vệ khiến tình hình bớt căng thẳng.
Chuyến hàng thứ 10 nhận xong, chúng tôi quyết định tạm ngưng. Rơ Chăm Rót điện về nhà báo cáo tình hình. Nhưng không hiểu sao không có tin tức trả lời. Hai đứa tôi mò xuống ấp nối cơ sở. Được biết địch sắp mở đợt càn lớn. Làm thế nào bây giờ? Rơ Chăm Rót lại về hai làng huy động bà con chuyển dần gạo muối, hàng hóa về phía sau. Tôi phải lặn lội một mình về hậu cứ báo cáo tình hình.
Cha nuôi tôi, đồng chí Bí thư huyện ủy, sau khi nghe xong, túm ngực tôi, hét:
- Mày giết cha mày rồi, con ạ!
Rồi ông triệu tập thường vụ huyện ủy họp bất thường. Cuộc họp ấy đã quyết định cho người ra điều tra cụ thể việc làm của chúng tôi. Tôi khẩn khoản yêu cầu huyện cho anh em ra gùi hàng, giải phóng kho càng nhanh càng tốt. Người dẫn đầu đoàn kiểm tra là Chín Tung. Anh ta tỏ ra rất thương hại tôi. Thậm chí còn hứa là sẽ bảo vệ tôi nữa. Thực lòng tôi không tin miệng lưỡi anh ta. Nhưng tôi cứ thầm trách cha tôi, rằng nếu như đây là việc làm sai trái thì ông có đủ điều kiện kỷ luật tôi ngay, sao lại phải kéo căng sự việc ra giữa lúc tình hình đang phức tạp? Rằng cha tôi vì muốn có sự đánh giá khách quan mà vô tình để Chín Tung làm trưởng đoàn kiểm tra, đẩy tôi và Rơ Chăm Rót tới chỗ không có con đường nào thoát? Tôi thầm lo cho số phận mình và của Rơ Chăm Rót chuyến này. Mấy ngày qua, chuyện bán rừng của tôi và Rơ Chăm Rót là đề tài số một cho những cuộc bàn tán của anh em cơ quan huyện uỷ và huyện đội. Tôi cũng được nghe không ít lời đe dọa. Có người còn báo cho tôi biết rằng, theo như đánh giá của thường vụ, tôi và Rơ Chăm Rót phạm hai tội lớn: Một là tội bỏ rơi nhiệm vụ xây dựng cơ sở, móc nối làm ăn với tư sản, bị chúng mua chuộc. Hai là, theo như nguyên tắc của chính phủ Cách mạng lâm thời của huyện đã ban bố về việc bảo vệ rừng, chúng tôi đã vi phạm pháp luật, tự ý khai thác gỗ, bán cho tư sản, phá hoại rừng của cách mạng. Tôi sững người hoảng hốt khi nghe những lời buộc tội ấy. Quả thật chỉ tới lúc ấy tôi mới nhận thức được việc làm của mình và Rơ Chăm Rót quá nghiêm trọng, khó mà chối cãi được.
Tuy nhiên tôi vẫn tin rằng, dù sao mục đích của việc tôi và Rơ Chăm Rót vừa làm là vì lợi ích chung. Điều ấy không phải Chín Tung muốn nói thế nào cũng được.
*
* *
Tôi không ngờ Rơ Chăm Rót lại thu xếp kho tàng nhanh gọn thế. Khi đoàn kiểm tra tới, Rơ Chăm Rót với nét mặt lạnh không, lặng lẽ đem bản báo cáo tỉ mỉ quá trình công tác của chúng tôi nửa năm qua đưa cho Chín Tung. Chín Tung đọc tờ quyết định của thường vụ huyện ủy cử hắn làm trưởng đoàn kiểm tra. Sau đó yêu cầu Rơ Chăm Rót phải làm bản kiểm điểm. Rơ Chăm Rót không những không chịu làm mà còn xé tan bản báo cáo vừa đưa cho Chín. Anh nói:
- Một là, tui và đồng chí Thương không có làm gì cho cá nhân mà huyện phải kiểm tra. Hai là, người kiểm tra không được sợ chết!
- Anh bảo ai sợ chết? Chín Tung nghiêm giọng hỏi.
- Tui biểu anh sợ chết, không được kiểm tra tui!
- Vậy bao nhiêu kho tàng anh có định nộp cho cách mạng không?
- Nếu huyện không nhận, tui cho D5, cho đồng bào.
Chín Tung đề nghị lập biên bản. Anh ta lạnh lùng nói:
- Ý kiến của tôi là ý kiến của thường vụ. Ai không chấp hành, người ấy chịu trách nhiệm.
- Tui không chấp hành.- Rơ Chăm Rót nói.
- Nếu vậy buộc tôi phải dùng biện pháp hành chính.
- Biện pháp gì?
- Tạm giam các anh lại.
- Bắt đi! Bắt đi! Tui sợ mày à?
Chín Tung tái mặt, ra lệnh mấy chiến sĩ cùng đi trói Rơ Chăm Rót, nhưng anh em đều không ai làm được việc ấy. Tôi biết đây là dịp trả thù của Chín Tung, nên không thể nổi nóng mà giải quyết được. Tôi cũng không hiểu vì sao lúc ấy tôi lại có thể bình tĩnh thế. Tôi ấn vai Chín Tung đề nghị "thủ trưởng" bình tĩnh. Hai tiếng "bình tĩnh" của tôi có cả cái hàm ý đe dọa khiến Chín Tung chững lại. Hắn ta cũng phải sợ lỡ chúng tôi khùng lên chứ! Điều ấy rất có thể xảy ra. Tôi hiểu rõ tâm địa của hắn. Hắn chỉ nghĩ tới việc trả thù, còn mấy chục tấn hàng thì hắn không cần chú ý tới. Tôi đề nghị Chín Tung để chúng tôi suy nghĩ một ngày, mai trả lời. Hắn đã phải đồng ý.
Tôi và Rơ Chăm Rót bàn nhau viết một lá thư về báo cáo cụ thể hết mọi tình hình và khiếu nại không chấp nhận Chín Tung kiểm tra chúng tôi. Không có cách nào khác, Chín Tung phải cử người đưa thư ấy về phía sau. Lần này thì đích thân đồng chí Bí thư huyện ủy cùng một trung đội của huyện đội sang làm việc. Cha tôi đề nghị tôi và Rơ Chăm Rót dẫn ông đi kiểm tra thực tế từng kho hàng. Mất hai ngày, việc ấy mới tạm gọi là xong. Quả đây là một vụ việc ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi, cũng như của huyện. Tuy nhiên cha tôi vẫn tỏ ra bình tĩnh. Ông điện cho tỉnh và đề nghị trên cho tiểu đoàn vận tải về giải phóng hàng càng nhanh càng tốt. Thực tình mà nói, bàn giao hàng cho cấp trên là một việc làm rất khó khăn đối với chúng tôi. Tôi và Rơ Chăm Rót bàn nhau, dù sao cũng phải giấu ít nhất ba kho muối và gạo lại, để khi giải quyết xong mọi vấn đề, lấy ra cấp cho anh em D5 và huyện đội.
Chúng tôi về hậu cứ sau thời gian bàn giao kho ổn thỏa. Huyện ủy cho phép hai đứa tôi nghỉ mười ngày. Nhưng không cho ở gần nhau. Tôi biết đây vẫn là âm mưu của Chín Tung. Tôi luôn tự an ủi, dù sao mình cũng đóng góp được một phần để tạo nên cái công việc mà lâu nay chưa ai làm được. Tôi được cử đi coi rẫy nhưng thực ra tôi biết, chúng tôi đang bị quản thúc. Tôi phải làm bản tự kiểm điểm về việc làm của mình trước cơ quan. Theo như hai đồng chí tân binh cho biết, hiện nay có rất nhiều người ủng hộ chúng tôi, nhất là anh em bên huyện đội. Tôi làm tất cả những gì cấp trên yêu cầu và thầm mong Rơ Chăm Rót bình tĩnh. Cuối cùng rồi mười ngày coi rẫy căng thẳng ấy cũng qua. Tôi được gọi về. Chín Tung đã làm được những gì hắn muốn. Một phiên tòa xét xử tội trạng chúng tôi được tổ chức ngay trước cửa nhà giao ban của huyện dội. Tôi cảm thấy ớn lạnh khi người chiến sĩ mới yêu cầu tôi nộp vũ khí. Sao lúc này tôi bỗng nghĩ nhiều tới cha tôi? Liệu ông có bảo lãnh cho tôi nếu người ta khép được tội cho tôi và Rơ Chăm Rót? Và nếu tôi phải đi tù, liệu tình nghĩa cha con có còn gì không? Tôi bật khóc nhận ra mình và Rơ Chăm Rót cùng bị đẩy ra trước vành móng ngựa. Tôi không bao giờ nghĩ được mình vào Nam chiến đấu lại để xảy ra tình trạng trở nên một tên tội phạm. Ôi làng Sưa! Cái làng Sưa nhỏ bé của tôi, nơi ấy bố mẹ và các anh chị tôi, những bà con thân thích của tôi, nếu biết tôi đang lâm cảnh ngộ này, liệu mọi người có coi rẻ tôi như cha tôi đang coi rẻ tôi? Không! Cha tôi không coi rẻ tôi. Ông không phải là người như thế. Tôi ngước mắt lên gặp ánh mắt giận dữ của Rơ Chăm Rót và nhận ra có rất nhiều tiếng ồn ào. Té ra phiên tòa vừa bắt đầu thì lập tức nhiều người phản đối việc coi chúng tôi như tội phạm. Và may cho chúng tôi. Sự việc lật ngược hoàn toàn và những khẩu hiệu do Chín Tung đặt ra nhằm sỉ nhục chúng tôi rất nhanh bị xé bỏ.
Vậy là những ngày sau đó người ta lại họp bàn, xem xét lại vụ việc của chúng tôi. Cuối cùng tôi và Rơ Chăm Rót không bị kỷ luật gì, thậm chí nhiều anh em còn đề nghị xét tặng huân chương. Thế mới biết, có một thời, cái ranh giới giữa thành tích và khuyết điểm chỉ cách nhau trong gang tấc. Điều đáng kể ra đây hơn cả là sau vụ việc ấy, trong những ngày địch càn căng thẳng suốt hơn hai tháng, nhiều anh em hy sinh, nhiều kẻ không còn đủ ý chí chiến đấu đã ra chiêu hồi. Cơ quan huyện uỷ và cơ quan huyện đội không đóng cố định được nữa. Lại đói, lại lạt muối, lại lo bám địch... Chính trong những ngày ấy, Chín Tung- huyện ủy viên, có chân trong thường vụ đã cùng hai tên nữa, lợi dụng chuyến công tác qua suối I A Yun Hạ đi chiêu hồi.
Cả cơ quan huyện đội và huyện uỷ, mọi người đều đanh nét mặt lại trong giây lát khi nghe tin ấy. Nhưng không có ai bình luận gì thêm.
Thế rồi số phận trớ trêu thế nào, sau những ngày Plei Ku mới giải phóng, tôi và Rơ Chăm Rót đang có việc gì đó cùng đi lên thị ủy, chợt gặp một toán tù binh ngụy trên đường đi làm cải tạo. Có một tên đang cầm cái que mắng mỏ một tên khác, vì tên này không đi kịp đội hình. Rơ Chăm Rót bỗng nhảy xuống xe đạp, dựa chiếc xe vào gốc thông, lừ lừ tiến lại trước mặt hắn. Tên tù binh giật thót nhận ra người đang đứng trước mặt hắn là ai. Tôi thấy hắn cúi gập người, lủi vào giữa đoàn những tên lính thua trận...
IV
T |
ôi định "biến" khỏi Hà Nội ít ngày trước khi vào lại Tây Nguyên. Một phần tôi muốn tránh không phải gặp tay trưởng phòng của anh tôi. Phần nữa, tôi về quê mong rằng được sống những ngày yên ổn với gia đình, trốn được cái cảm giác trống không mà tôi mắc phải từ sau hôm chia tay với người yêu. Rõ ràng tôi không thể giải thích được sự biến hóa trong tình cảm của con người. Tôi muốn quên đi tất cả để dồn sức lực vào công việc làm báo. Nhưng những gì diễn ra suốt thời gian gần đây, đã đẩy tôi vào bệnh viện và sau đó, tôi luôn luôn bị ảo giác kích động. Tuy nhiên tôi không phải là người không tự biết mình. Tôi luôn mong muốn sớm có một cuộc sống ổn định. Ấy vậy mà nhiều lúc đang đi trên đường, tôi chợt dừng lại, tự hỏi: Hạnh phúc là cái gì mà ghê gớm vậy? Rồi tự trả l 128ac i bằng cách nhớ lại cảm giác tràn đầy niềm vui, niềm hạnh phúc trong những ngày gian khổ, ác liệt thời đánh Mỹ. Đó là những lần thức suốt đêm đi nắm cơ sở về, chui xuống nhà hầm, gặp cái sạp nứa mát lạnh, mọi vất vả tan biến rất nhanh vào giấc ngủ. Đó là những lần cùng Rơ Chăm Rót, sau khi kiếm được thùng bơ trên trận địa pháo cũ quân Mỹ bỏ lại, chúng tôi nướng những củ sắn vàng rộm, thọc cả vào thùng bơ, cắn ăn ngon lành. Lúc ấy hạnh phúc tỏa lan một cách rõ ràng và cụ thể. Có thời gian ba bốn tháng ròng không được nhìn thấy hạt gạo, đến hôm hai đứa được anh em D5 cho một ruột nghé chừng mười ký. Cái tiếng gạo chảy từ ruột nghé này chuyển sang ruột nghé kia sao mà hấp dẫn! Và miếng cơm không độn của ngày hôm ấy, đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ cái vị ngọt ngào thanh khiết. Rồi có lần tôi sốt, phải nằm bệnh xá ở phía sau, Rơ Chăm Rót viết thư cho tôi. Tôi cứ thao thức mãi, vì không ngờ trong đời mình, ít nhất có một người bạn đã viết được thư cho mình bằng những con chữ mà mình đã kiên trì hướng dẫn. Tôi cứ ngắm nghía mãi từng dòng chữ lít nhít ấy, từng lời lẽ thăm hỏi giản đơn thật thà mà tự cho phép mình thỏa mãn vì niềm vui và hạnh phúc tràn trề. Té ra hạnh phúc là như thế. Cuộc chiến tranh ấy đã qua rồi. Cuộc sống không còn phải lặp lại những khó khăn, cực nhọc mà ta đã nếm trải. Nhưng cái dư vị của nó thì không cách gì phai nhạt. Mười năm qua đi ta lại tiếp tục cuộc hành trình mới, trên con đường mới. Hạnh phúc luôn ở phía trước, ta cố dấn bước lên, ai chậm trễ người ấy sẽ bị tách khỏi đội hình. Tôi không muốn bị tách khỏi đội hình vĩ đại mà chúng ta đang tiến bước. Giờ đây, trên con đê làng Sưa của tôi ngày nào tôi ra đi, nơi anh trai tôi nắm cánh tay tôi bóp mạnh và chị dâu dúi vào túi xách cho tôi bánh xà phòng Hương Nhài, tôi có cảm giác như mọi cảnh vật đều nhỏ đi, đến như con sông Hóa ngày bé đối với tôi là cả một thế giới bí hiểm, thì giờ đây cũng như bé choắt lại đến ngỡ ngàng. Tôi đi ngược thời gian, trở về cội nguồn, sống với chính mình và nhận ra, nếu như không có ngôi làng nhỏ bé bình yên này, hẳn sự tồn tại của tôi không có ý nghĩa gì. Những năm qua tôi ít về quê vì bố mẹ sinh ra tôi không còn. Và còn vì lẽ nữa, bên cạnh nhà tôi, có một người bạn cùng ra đi một đợt với tôi đã hy sinh. Tên anh là Khang. Mẹ Khang chỉ có mình anh và nay bà sống một mình. Tôi về, anh chị tôi không thể không vui và mẹ anh thấy tôi không thể không chạnh nhớ con, không chạnh đau buồn. Tôi không thể không sang nhà anh cũng như nếu tôi sang, liệu có giúp gì cho mẹ đỡ tủi? Không có cách gì hàn gắn được cho lòng mẹ bớt đau khi mẹ mất con, nếu như không phải chính con mẹ hiện về. Tôi không muốn lấy tôi ra làm nhân vật chính cho câu chuyện này. Nhưng vừa đọc lại những dòng trên, tôi bỗng nhận ra mọi sự việc, mọi con người trong cuốn sách đều quây quanh tôi. Và tôi không trốn khỏi chính mình. Tôi sống được, tôi tồn tại được chính vì tôi đang đứng giữa mọi người. Tôi có làng Sưa bé nhỏ của tôi. Tôi có thêm làng Kơ Sor Mík- tên của cha tôi. Tôi đã kể về cha nuôi, mẹ nuôi tôi, về bà con buôn làng của mình cho bà con làng Sưa tôi biết. Đối với tôi, mọi nỗi nhớ, mọi tình yêu, mọi suy nghĩ đều dồn vào hai ngôi làng ấy. Đó là nơi tôi ra đi và nơi đón nhận tôi. Có một con chuồn chuồn ớt tôi bắt được trên bờ giậu của làng Sưa ngày thơ bé đã cắn vào rốn tôi, để tôi có đủ bản lĩnh tin rằng, vì thế mà tôi bơi được qua sông Hóa an toàn. Cũng đã có một con mang tác trong hẻm núi phía bên phải đường những lần đi phía trước cùng Rơ Chăm Rót, chúng tôi cho đó là điềm lành và hai đứa đã chui qua hàng chục lớp rào gai để vào được ấp, về được nhà thăm mẹ nuôi tôi, đó là làng Kơ Sor Kơ Mík của tôi. Ấy vậy mà lần này tôi về quê, về làng Sưa với mục đích lẩn tránh những phiền hà cho chính mình? Quê hương là nơi chứa đựng mọi nỗi niềm của ta. Người sẵn sàng nhận ta về cả những lúc ta vui, những khi ta buồn bực. Thậm chí khi ta còn đang trăn trở, chệnh choạng tìm đường. Người sẽ lên gân, dưỡng sức cho ta, để ta có đủ nghị lực đấu tranh, tự vượt lên mình... Giờ đây cha nuôi tôi đang sống những ngày thật mới mẻ, thật hấp dẫn trên đất nước của Lê-nin vĩ đại. Giá như cách đây mười năm cha tôi được đi tham quan, được tới những công- nông trường, được gặp gỡ những đồng chí bí thư huyện ủy, những cán bộ của các nông trang trên đất nước anh em, và được học tập những kinh nghiệm làm việc của bạn, hẳn ông không mắc phải những quan niệm cũ kỹ, lỗi thời do kinh nghiệm chỉ rút ra từ bản thân mình. Và giá như trước khi lên chức thay thế cha tôi, Rơ Chăm Rót cũng được tới những nơi đã trải qua giai đoạn cách mạng mà huyện tôi, quê hương Tây Nguyên của chúng tôi đang mới bắt đầu trải qua, chắc rằng những chuyến đi như thế sẽ rút ngắn rất nhiều cho nhận thức tư tưởng cũng như các bước tiến hành trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương. Điều ấy có ngoài khả năng mong muốn của ta không? Tôi giật mình nhận thấy phía trước tôi, cũng trên con đê này có bóng hai người đàn ông đang sánh bước, đi ngược lại phía tôi. Nắng lấp lóa từ mặt sông hắt lên làm tôi chói mắt, nhưng rồi tôi cũng nhận ra anh trai tôi đang tiễn khách. Người khách ấy là Thái, con người mà tôi đang muốn tránh mặt! Tôi định lẩn vào bụi chuối sau lò gạch gần đó, nhưng không hiểu sao, trong bụng muốn thế mà chân tôi cứ bước dấn lên, đến khi giáp mặt hai người. Anh tôi reo lên vui sướng chạy tới đón tôi. Còn Thái thoáng tái mặt, nhưng hắn rất nhanh túm lấy tay tôi, cười rôm rả. Tôi lạnh người khi thấy trên trán hắn mồ hôi chảy tràn xuống má. Hắn run run bỏ kính xuống lau và ấp úng nhận lời mời của anh em tôi,
quay lại.
Tôi xin phép kể tắt để bạn đọc đỡ mệt và đỡ phiền lòng khi thấy hắn lại bỗng dưng xuất hiện ở quê tôi. Tôi được các bác sĩ cho ra viện và nghỉ mười ngày trước khi nhận việc cho đợt công tác tới ở cơ quan. Hai ngày trước khi ra viện tôi không thấy hắn tới thăm. Tôi cứ đinh ninh là hắn đã ớn tôi, chuồn vào lại Tây Nguyên rồi. Hoặc cũng có thể hắn tạm ngừng để chuyển sang kế khác nhằm xoay chuyển tôi. Nhưng tôi không nghĩ tới cái trò bẩn thỉu mà hắn đang làm. Hắn lẻn về quê tôi, tự nhận là bạn thân của tôi, nhân chuyến công tác Hà Nội ghé về thăm gia đình. Anh chị tôi đã tiếp hắn như tiếp chính em mình. Điều ấy khiến tôi khó xử. Anh tôi là nhà giáo đã nghỉ hưu, một người rất cả tin và hiếu khách, lại rất tự hào em mình đã trở thành nhà báo. Suốt một ngày một đêm ở chơi nhà tôi, hắn tâng bốc tài năng, đức độ, triển vọng của tôi, kể về những điều tốt đẹp đang đến với tôi khiến anh tôi rất hài lòng. Hắn tặng anh tôi cái Ra-đi-ô với lý do "Để thỉnh thoảng anh nghe bài và tin của chú Thương phát trên đài...". Nhưng may là ông anh nhà giáo của tôi vốn không phải là người dễ nhận quà, nhất là nhận quà của người mới gặp lần đầu. Hai ngày ở lại thêm của hắn cũng thế, hắn tỏ ra thông thạo nhiều mặt. Anh tôi rất phục hắn, nhất là khi hắn nói về các cặp phạm trù! Vào một buổi chiều, hắn rủ tôi đi dạo trên đê, nhưng tôi từ chối với lý do đang mệt. Tôi biết, những cuộc đi dạo ấy sẽ chỉ có lợi cho hắn. Đêm ngủ, hắn ôm riết lấy tôi, thầm thì xin lỗi, thầm thì thanh minh rằng những chuyện đã qua là ngoài ý muốn của hắn. Rằng hắn đang chán ngấy cuộc sống nơi tỉnh lẻ, chán hết mọi chức quyền. Rằng dù sao anh em miền Bắc mình cũng phải bảo vệ nhau... Tôi giận run người, đã định vùng dậy đẩy hắn ra khỏi nhà, nhưng vì không muốn gây chuyện lôi thôi để anh chị tôi buồn, nên tôi đã kìm chế được cơn nóng giận. Hắn biết điều ấy và có lẽ vì thế, hắn cứ lải nhải kể chuyện về Đum-bát-zê, về "Quy luật của muôn đời". Hắn biết tôi đã đọc quyển sách ấy và hắn cứ luận đi luận lại mãi cái điều, con người ta sống với nhau, cuối cùng để đạt được cái gì nếu không phải là tình thương yêu? Hắn kể rằng sau khi đọc xong cuốn sách ấy, hắn đã thay đổi hoàn toàn về nhận thức. Rằng giờ đây hắn đang muốn tìm cách quay về với người vợ mà hắn đã li dị mấy năm nay. Rồi hắn nhổm dậy, mở cặp, lấy đèn pin bấm cho tôi xem lá đơn xin chuyển vùng của hắn. Quả thật tôi chưa biết gì về hoàn cảnh riêng của con người này. Tuy nhiên, cứ như trong lá đơn thì hắn là người bất hạnh về mọi phương diện. Đọc xong tôi có cảm giác hắn không phải là người muốn quay về với vợ vì mục đích gì tốt đẹp, mà đang muốn trốn khỏi trách nhiệm của mình. Không hiểu sao tôi có thể nằm bên một con người như thế. Tôi đã có nhiều lần ăn ở với tên Chín Tung phản bội. Và giờ đây, hắn, liệu gặp những hoàn cảnh cho phép, hắn có quay lưng lại với chúng ta không?
Tôi bảo hắn yên tâm, hy vọng cấp trên sẽ chấp nhận lá đơn của hắn. Dù sao hắn cũng là một con người đang trăn trở. Thực tình tôi không muốn đẩy hắn tới ngõ cụt.
Qua những điều tâm sự của hắn, tôi nhận ra con người này vẫn chỉ cố tìm cách lẩn tránh trách nhiệm. Điều ấy khiến tôi càng khó chịu. Tôi không phải là loại người kém nhạy cảm tới mức không nhận ra việc hắn lẻn về quê tôi nhằm ý đồ gì. Tất nhiên tôi phải tìm cách kéo hắn ra khỏi lũy tre của làng tôi. Cuộc đối thoại thứ hai nhất định không phải hắn muốn thế nào cũng được. Suốt dọc đường từ quê tôi ra Hà Nội, ngồi trên xe, hắn luôn miệng kể về Đum-bát-zê và cuốn tiểu thuyết của ông. Ông Đum-bát-zê thật cũng là người bất hạnh, khi ông viết ra những dòng chân chính, lại bị những tên độc giả lưu manh lợi dụng, dùng ông làm vũ khí tiến công vào những con người mà ông bênh vực, nếu như họ không có đủ điều kiện để nhận thức ông. Nhưng cái thời tráo trở ấy đã qua rồi và cuối cùng tôi phải nói thẳng với hắn là, hắn nên đọc lại Đum-bát-zê cho thật nghiêm chỉnh, nghiệm lại những điều hắn đã làm trong những năm qua cho thật nghiêm chỉnh kẻo rồi hương hồn ông hiện về lại không kịp ngáp vì cái thói ba hoa xít-tốc! Hắn há hốc miệng thanh minh rằng hắn chưa hề biết chuyện ông Đum-bát-zê đã chết. Im lặng một lúc, tôi cứ ngỡ thế là hắn đã cứng họng, không dám nói gì, động chạm gì tới ông Đum-bát-zê nữa. Nhưng ba hoa vốn đã thành bệnh cố hữu, nên hắn lại chuyển giọng:
- Thương ạ, ông nên nhớ rằng, mỗi tác phẩm của một nhà văn nào đó được in ra, nó có cuộc sống riêng, ngoài ý muốn của tác giả. Tác giả không còn can dự được vào đời sống các nhân vật do chính ông ta sáng tạo ra, ví như con cái đã trưởng thành...
- Thôi, theo tôi ông không nên nói chuyện ấy nữa.
Hắn ngượng nghịu cười và tỏ ý lo ngại cho cha tôi và ông giám đốc sang Liên Xô, lại sốt sắng đề nghị xin gặp nhà văn của "Quy luật muôn đời" thì thật nguy, chả còn gì thể diện. Tôi báo cho hắn yên tâm rằng, dù sao tôi cũng đã dặn cha tôi không nên làm cái việc vô duyên ấy. Và hắn lại ngồi im.
Chúng tôi im lặng cho tới khi bước xuống xe, tôi chìa tay định bắt tay hắn. Hắn rụt vội tay lại:
- Không, Thương ạ. Chúng mình đều là tri thức, cần hiểu nhau cho đàng hoàng.
- Anh bảo ai không đàng hoàng- Tôi nổi nóng- Tôi thừa hiểu tâm địa anh rồi.
- Nhưng ông hiểu lầm tôi.
- Anh nhớ rằng, tôi không thèm làm hại anh. Nhưng từ nay tôi đề nghị anh không được quấy rầy tôi nữa. Tôi không hy vọng anh sửa lỗi lầm!
- Lỗi lầm nào? Sao ông cứ cố tình ghép tôi vào lỗi lầm?
- Vậy phải cấp bằng khen cho anh à?- Tôi nhắc lại một câu của hắn trong cuộc đối thoại trước.
- Không phải thế ông Thương ạ.
- Vậy anh muốn thế nào? Tôi nói thật với anh. Con người ta cũng có thể có lúc mắc lỗi. Nhưng nếu đã nhận ra mà tìm cách che lấp thì lỗi lầm sẽ phát triển đến mức dễ dàng phạm tội.
- Thôi thôi ông bạn- Hắn run rẩy bỏ kính xuống lau. Sau đó cười nhăn nhở kéo tôi vào quán cà phê, nhưng tôi từ chối. Hắn chững lại một lúc nhìn tôi ngơ ngẩn như người mất hồn. Lát sau hắn run run nắm tay tôi hỏi:
- Vậy bây giờ tôi nên thế nào, ông?
- Tôi làm sao khuyên anh?- Tôi nói- Tùy anh tự quyết định chứ.
- Trời! Tôi muốn ông cứu tôi. Người ta đã kiện tôi và chuyến này vào, có thể tôi không còn gì cả, ông Thương ạ.
- Anh còn run sợ thế thì dù sao cũng còn có điều kiện để tự nhận thức- Tôi nói từ tốn- Tôi thấy anh chưa đủ bản lĩnh để nghe lời khuyên của tôi đâu. Anh nên nhớ rằng cái gì cũng có giá của nó.
- Đường nào ông cũng nói được...
- Tất nhiên. Vì tôi có lẽ phải.
- Ông biết đấy, tôi không muốn ông nhìn tôi như kẻ thù.
- Tôi cũng muốn thế.
- Vậy sáng mai tôi xin gặp ông, ông đừng từ chối Thương ạ.
- Chả có gì phải từ chối. Nhưng anh không nên nói nhiều.
- Vâng. Xin cám ơn ông.
Thế là chúng tôi chia tay. Thái gọi xích lô, còn tôi lững thững thả bộ trên hè phố. Tôi chợt nhận ra trời đang tối và cảm thấy phần nào nhẹ nhõm.
V
T |
ôi nhận được thư Rơ Chăm Rót gửi ra, báo tin cha tôi sẽ bay thẳng từ Mát-xcơ-va về thành phố Hồ Chí Minh, rồi lên Tây Nguyên. Theo ý Rơ Chăm Rót tôi nên có mặt ở trong đó trước ngày cha tôi về nước và xuống thành phố đón ông. Tiện thể, huyện có ý muốn nhờ tôi đến quận N đón đoàn cán bộ kinh tế, nơi đang có sự kí hợp đồng làm ăn hai chiều về khai thác và chế biến lâm sản. Tôi khấp khởi mừng vì thấy Rơ Chăm Rót đã rục rịch chuyển biến, mở ra phương thức làm ăn mới. Thực ra cái mới ấy chẳng xa lạ gì, nhưng với huyện tôi, dám mở cửa đón "khách" về như vậy không phải chuyện bình thường. Bấy lâu nay, ở rừng mà huyện tôi có khai thác gì được thế mạnh của rừng đâu? Sự tính toán tập trung hết vào cây lúa nước. Tôi không nói việc tổ chức lại đời sống nhân dân, định canh định cư, xây dựng cánh đồng là trái với tự nhiên. Điều ấy rất cần thiết, rất cấp bách, nhưng cái khoảng trống mà huyện tôi đã làm được với cái chưa làm được còn rộng quá, khiến sự phát triển kinh tế xã hội không đồng đều. Tôi cứ nhớ mãi cái hôm cha tôi phát biểu ở hội nghị định canh định cư của huyện, khi ông nhắc nhở các xã chưa đạt chỉ tiêu. Không hiểu cái gì đã nhập vào cha tôi mà hôm ấy ông có bộ mặt dữ dằn thế? Ông vung tay rời khỏi bục, bước tới trước mặt đồng chí bí thư xã này, rồi lại quay sang, cúi xuống sát mặt đồng chí bí thư xã khác. Ông nói mà gần như quát rằng: "Các anh có định làm việc nữa hay không? Tại sao xã A làm được mà xã B không làm được? Không có lí do gì hết! Không có định cư thì không có chủ nghĩa xã hội! Không có cánh đồng thì không có định cư! Phải ưu tiên cho việc xây dựng cánh đồng, trồng lúa nước. Tập trung chỉ đạo vào cây lúa nước! Đây là một cuộc cách mạng lớn đối với địa phương ta! Ai không thực hiện được thì nói trước, thì giơ tay?". Sau đó cha tôi lau mồ hôi trán, bước tới hàng ghế gần cuối, nắm tay đồng chí cán bộ của một xã dắt lên trên và nói: "Các đồng chí xem, cán bộ lãnh đạo xã mà còn đóng khố đi họp thế này? Tôi biết gia đình anh không phải nghèo- Cha tôi nói với đồng chí đó- nhưng không chịu cách mạng! Cán bộ mà cứ bảo thủ, lạc hậu thì nhân dân người ta không tin là phải". Rồi cha tôi cho đồng chí cán bộ ấy về chỗ. Sau đó ông nói huyện cấm các hội hè, lễ lạt. Cấm lễ đâm trâu, lễ thông bến nước, lễ ăn mừng nhà mới, tục cà răng, căng tai, tục bỏ mả... Theo ông vận động không được, phải có biện pháp. Ông tuyên bố rất mạnh là, làm cách mạng bây giờ, dù khó khăn đến mấy cũng không khó bằng đánh Pháp, đuổi Mỹ. Đánh được Pháp rồi, đuổi được Mỹ rồi, việc gì cũng làm được! Việc cấm các lễ hội cha tôi cho là biện pháp tích cực nhất. Ông nhắc các xã cần lưu ý, ông sẽ đích thân xuống tận cơ sở kiểm tra. Xã nào không đạt chỉ tiêu, cán bộ xã chịu trách nhiệm. Sau ngày hội nghị, ông lấy xã tôi làm điểm, làng tôi làm điểm. Ông mời hội nghị về dự lễ "hạ khố". Cái không khí tưng bừng náo nhiệt của buôn làng mấy hôm chuẩn bị lễ thật hấp dẫn. Bà con được thông báo xuống từng gia đình chuẩn bị. Nói đến lễ hội, mấy năm qua bị cấm, bây giờ chính cha tôi lại tổ chức, các gia đình sốt sắng sửa chinh chiêng, chuẩn bị rượu, chuẩn bị áo khố. Làng quét dọn sạch bong. Trên đầu các chàng trai lúc nào cũng thấy những vòng khăn xanh đỏ, chít lông công, các cô gái tíu tít lo váy mới...
Rồi ngày hội đến. Trên sân khấu vừa dựng của buôn làng, cha tôi làm lễ khai mạc. Người ta reo hò hưởng ứng. Đuốc sáng rực. Những đống lửa lớn sáng rực. Đèn măng-sông sáng rực. Đội văn nghệ của buôn làng áo quần xúng xính lần lượt ra mắt cúi chào khán giả. Sau đó là đội chinh chiêng, cũng áo quần mới lượt là. Điệu chiêng "hữk-cà-tữk" (phấn khởi) đánh dồn dập. Thế rồi màn mở. Các già làng lên uống chung can rượu cần với cha tôi. Người ta hò la chúc mừng cha tôi, đồng chí bí thư huyện mừng già Kơ Sor Kơ Mík. Tôi háo hức nắm tay các chàng trai, các cô gái nhảy múa, lòng tràn ngập tự hào. Giá lúc ấy có Rơ Lan Thương ở nhà, được dự hội, hẳn anh tôi sẽ nhìn nhận cha tôi không quá căng thẳng như anh vẫn nhìn nhận. Tôi thấy cha tôi đang múa trên sân khấu. Các già làng nhảy quanh ông, quanh ghè rượu. Tôi nhận ra bóng cha tôi to lớn khác thường. Tiếp theo, hai ông già cũng to cao như thế nắm tay ông, đứng lên phía trước sân khấu tuyên bố, từ nay buôn làng tôi được mang tên già Kơ Sor Kơ Mík. Cha tôi thoáng ngượng nghịu, nhưng ông rất nhanh làm chủ niềm vui bất ngờ. Trong giây lát giữa niềm vui và niềm phấn kích đến tột độ, tôi và mẹ tôi nước mắt cứ tự tuôn trào sung sướng. Nhưng rồi giữa khoảng trống của niềm vui ấy, tôi chợt thấy buôn làng lặng phắc. Cha tôi mặc áo quần tề chỉnh, còn lại một mình trên sân khấu. Ông tự giới thiệu chương trình văn nghệ. Một đồng chí cán bộ văn hóa xã đóng khố cởi trần nhảy theo điệu chinh chiêng M' Nhum-pai-nao (uống rượu mới). Dứt tiếng chiêng, cha tôi và anh bạn trẻ cùng nhảy, cùng làm trò giễu cợt cái khố. Cái khố vừa xấu xa, vừa bẩn thỉu, dơ dáy, vừa thiếu lịch sự lại làm hại sức khỏe con người. Tôi nhớ dân làng hôm ấy ai nấy đều được bữa cười vui lăn lóc. Cha tôi có tài đặc biệt về khoản bày trò khôi hài, châm biếm. Ông có thể cùng lúc vừa làm con khỉ chuyền cành lấm lét ăn trộm bắp, vừa làm động tác sợ hãi của cô gái coi rẫy bị con khỉ trêu chọc. Ông có thể nhảy chồm chỗm như con mang mắc bẫy, và ngay sau đó, làm tiếng sủa dồn dập của con chó săn mồi. Với nét mặt tỉnh bơ của người có khiếu khôi hài, cha tôi nói liến thoắng một hồi dài về những tật xấu của "thằng khố, con váy", dù ai có lạnh lùng thế nào, xem ông cũng phải phì cười. Sau cái trò giễu cợt ấy, đội chinh chiêng quần áo gọn gàng, vừa đánh, vừa hát múa, nhảy quanh cha tôi. Người ta ngợi ca áo quần và cuộc sống sinh hoạt văn hóa mới. Trong tiếng hát ca vui nhộn, cán bộ xã và huyện gọi tên từng người lên, cấp phát cho mỗi người hai bộ quần áo mới. Những đống lửa lại được chất thêm củi và ai nấy áo quần gọn ghẽ, nắm tay nhau ca hát gần cả đêm. Thật là một biện pháp cải tạo tích cực- tôi nghe tiếng nhiều người nói với nhau. Hôm ấy, thực tình tôi cũng là một trong những người hăng hái nhất hưởng ứng cha tôi. Sáng hôm sau, cả buôn làng như được đổi thay. Từ già, trẻ, trai gái, ai ai cũng mặc áo quần mới ra đồng, ai ai cũng cảm thấy như mình là một con người mới, cả mẹ tôi, chị Rơ Lan H' Tữk cũng như trẻ lại. Người ta, ai mà chả thích ăn ngon, mặc đẹp- tôi nghĩ thế, tôi đã sớm mừng, từ đây, buôn làng không còn phải sống cảnh bệ rạc như hàng ngàn năm nay người ta đã sống. Tôi toan viết bài về ngày hội mới của buôn. Nhưng, chỉ tới ngày thứ ba, thứ tư đã thấy một vài người không mặc áo. Rồi ngày thứ năm, thứ sáu, rất nhiều người trở lại với khố váy của mình. Cả mẹ tôi, chị Rơ Lan H' Tữk. Mẹ tôi cất áo quần mới được cấp phát vào cái gùi chuyên để đồ quý bấy lâu nay, treo trên cao. "Sao lại thế?"- Tôi hỏi mẹ. Mẹ tôi cười, "ngứa lắm, cất đi, mai mốt hội hè lại mặc". Những ngày tiếp sau đó, cả buôn làng, không ai bảo ai, đều cất áo quần mới, trở về với khố, với váy, chỉ còn các đồng chí cán bộ vì phải gương mẫu nên còn mặc áo quần. Tôi lân la trò chuyện với bà con, người ta trả lời rất gọn: "Mình không quen!" Tôi biết, để dệt được một bộ áo khố phải tốn ít nhất gấp đôi số tiền mua vải may bộ áo quần. Vậy, không phải bà con mặc khố là vì nghèo mà là phong tục, tình cảm, thói quen như ta thường nói. Sau hội nghị ấy, các xã bạn cũng nổi cồng chiêng, hưởng ứng sáng kiến của đồng chí bí thư. Thật tình trong những ngày ấy sao tôi lo cha tôi về nhà quá. Nhưng đó là nỗi lo quanh quẩn, chẳng giải quyết được gì. Cha tôi sau khi đi một lượt khắp các xã xa gần kiểm tra đôn đốc, gần một tháng sau mới đánh xe về. Ông không kìm được tức giận khi vừa tới đầu buôn, gặp người đầu tiên là người mặc khố. Người thứ hai, thứ ba cũng lại mặc khố! Rồi về nhà, mẹ và chị tôi cũng đã y như cũ. Cha tôi quát tháo om sòm, gọi các đồng chí cán bộ xã, cán bộ thôn tới phê bình. Tôi bảo cha tôi việc bà con không chịu mặc áo quần ngay là có lý do, cần nghiên cứu kỹ, tìm rõ nguyên nhân. Cha tôi gạt phăng và ông cau có:
- Nghiên cứu gì? Nguyên nhân lạc hậu, bảo thủ chớ còn gì nữa mà phải lo nghiên cứu. Thế... êêê... mà...
Tôi im miệng ngay khi cha tôi đã phải nói hai tiếng "thế mà" dài giọng ra như vậy. Cha tôi là người luôn có sáng kiến. Nhưng rồi các sáng kiến ấy lại bị phá vỡ bởi chính đầu óc quá tự tin vào khả năng kinh nghiệm của mình. Lúc nào ông cũng bảo ngày đánh Mỹ phát động quần chúng, khi có mặt ông, sáng kiến của ông, việc gì cũng được tiến hành triệt để. Những thành công khi ấy đã tạo nên một cá tính quyết đoán cho cha tôi. Ông luôn cho rằng ông nghĩ đúng và làm đúng. Thật khó có thể bình đẳng được với ông khi phải bàn tới bất cứ công việc nào. Sau cái ngày lễ hội hạ khố đã khiến tôi và Rơ Lan Thương cùng có những dằn vặt giống nhau. Cả hai chúng tôi đều tranh thủ "nói chuyện" với ông già, nhưng ông không phải là người dễ dàng chuyển biến trước những ý kiến ngược lại. Chúng tôi cũng không thể đòi hỏi ở ông những gì mà ông không thể vượt qua. Những ngày này xa ông, nghĩ lại, sao tôi cứ có cảm giác là mình mắc lỗi. Nhưng biết làm thế nào khác được? Giờ đây sống trơ trọi trong căn phòng bé nhỏ của mình, tôi bỗng thấy nhớ thương mẹ và chị Rơ Lan H' Tữk, nhớ buôn làng tôi quá. Rơ Chăm Rót viết trong thư báo cho tôi biết anh đang xốc lại những gì cần xốc lại, tiến hành hàng loạt những công việc mà chức trách cho phép anh làm. Và tôi tin anh. Trong câu chuyện sáng nay với tay trưởng phòng của Rơ Lan Thương, ra về, tôi thấy như mình vừa trút bỏ được một gánh nặng, nhưng lại có cảm giác cái gánh nặng ấy chưa buông tha. Tôi thầm mong các sự việc tiếp theo sẽ không lặp lại căng thẳng rối bời mà bấy lâu người ta giải quyết chưa đứt đoạn, ngọn ngành. Rồi đây chính hắn cũng còn phải sống giữa mọi người và tồn tại giữa mọi người. Hắn không thể lẩn tránh những gì hắn đã gây nên, điều ấy ngoài ý muốn của hắn. Tôi trăn trở mở ra, gập vào tấm vé máy bay ngày mai tôi sẽ bay vào. Tôi cố gạt hắn ra khỏi mọi suy nghĩ của mình, nhưng khuôn mặt bè bè, đôi mắt kính cận lấp lánh và cái vẻ linh hoạt ngu đần đóng váng trên mỗi vẻ ngó nghiêng của hắn cứ chập chờn lẩn khuất đâu đó. Tôi không muốn hắn trở thành kẻ thù. Nhưng cũng không muốn hắn là bạn, là đồng chí. Không muốn hắn là gì đối với tôi cả, đó vẫn chỉ là ý muốn của tôi. Còn rất nhiều điều mong muốn của ta, mà ta vẫn phải quan tâm, khiến ta mệt mỏi. Tôi bước ra khỏi phòng, ngước nhìn lên vòm cây trước cửa, chợt giật mình nghe có tiếng tắc kè, ngỡ như mình nằm mơ, nhưng rồi một chặp sau tiếng con vật ấy lại bình thản và tôi đếm rõ năm tiếng. Té ra cái loài bò sát ấy không phải chỉ sống ở rừng, mà nơi nào cũng có. Tôi rất thú vị với ý nghĩ ấy. Giờ này ở trong kia, mẹ tôi đang ngủ hay đang âm thầm chất thêm củi vào bếp lửa, ngồi thu gối canh chừng nồi bắp ninh. Không có đêm nào mẹ ngủ liền một mạch tới sáng, cũng như chị Rơ Lan H' Tữk, hai con người bình dị và thân thiết của tôi, gần như không lúc nào xa nhau. Chị như là cái bóng của mẹ. Những đêm dài mẹ hí húi canh chừng bếp lửa, giữ hơi ấm cho cả nhà ngủ và chị Rơ Lan H' Tữk, ngồi khuất sau bóng mẹ, trùm kín vai tấm dồ, nghiêng đầu, xõa tóc thổi đinh-yơng. Những âm thanh bập bùng tỏa ấm tâm hồn. Những giai điệu thật buồn, thật đẹp dìu dặt giữa sự lặng im mênh mông của buôn làng tạo nên cảm giác linh thiêng kỳ lạ. Tôi không dám cựa mình, lặng nghe và hình dung nét mặt chị đang ngời lên thật trong sáng, thật tinh khiết. Chị đang hòa nhập vào những nỗi niềm sâu kín nhất của mình. Cây đinh-yơng được con người sáng tạo ra không phải để biểu diễn, khoe tài, mà nó là nhạc cụ dành cho những phụ nữ có nhiều tâm sự. Khi niềm vui hay nỗi niềm chứa chất trong lòng tâm sự với người thân không hết, nói với cây rừng không hết, người ta tìm về nó để nói với chính mình. Quả tình chưa bao giờ tôi thấy chị cười khi mọi người chưa cười. Nhưng chị không bao giờ than thở cùng ai. Chị được sinh ra như là chỉ để sống với tâm sự của mình. Chị nhìn nhận những gì diễn ra trong cuộc sống, để rồi cất giữ trong lòng. Sự có mặt của chị giữa buôn làng không có gì đặc biệt, thậm chí đôi khi người ta quên chị. Chưa bao giờ chị tự mình bước ra khỏi buôn làng. Không thể hiểu chị nếu chưa được nghe tiếng đinh-yơng chị thổi giữa đêm. Người ta có nhiều cách thể hiện mình và điều ấy khiến tôi càng tôn kính chị. Không phải lúc nào chị cũng thổi những giai điệu buồn mà đã có lần tôi nghe giữa đêm khuya, khi vừa tỉnh giấc, một dòng suối âm thanh vui nhộn và gấp gáp, tiếng ngón tay chị bật qua miệng cái ống nứa, cùng luồng hơi lùa sâu, lướt nhẹ rạo rực đến ngỡ ngàng. Tôi khấp khởi mừng. Có phải chị tôi đang yêu? Hay chị đang có điều gì phấn kích? Hay chị đang sống giữa một tình yêu cuồng nhiệt mà chỉ do tâm hồn chị thường khao khát mong chờ? Có phải chị tôi đang cởi mở tâm tình mình trước một người bạn trai nào đó trong buôn, hay đó chỉ là khát vọng? Tôi không rõ các nhạc sĩ sáng tác nhạc thế nào. Nhưng chị thì mỗi lần cầm ống đinh-yơng đều thổi như thế. Chị không thổi những bài hát, những làn điệu có sẵn, mà chị thổi theo tâm sự của mình. Không phải ai sống trên đời này cũng có được niềm vui, nỗi buồn trong trắng như của chị tôi. Không phải ai cũng có niềm kiêu hãnh thầm kín như chị. Tôi luôn tự hào mỗi lần ngồi xem chị dệt vải. Bàn tay chị dệt nên không biết bao nhiêu đường hoa văn sặc sỡ, khiến các bạn gái trong làng buôn thèm muốn, ghen tị.
Tôi trở vào phòng, từ từ đặt tay lên công tắc điện và đột nhiên nhấn mạnh. Điện tắt. Tôi chui vào màn trằn trọc mãi. Đến bao giờ tôi có thể đưa mẹ và chị tôi ra Hà Nội, về quê chơi? Còn bao nhiêu mong muốn mà tôi chưa thực hiện được. Và tôi lại nghĩ tới em. Vâng, em như là bỗng dưng hiện đến trước tôi, khắc mạnh vào cuộc đời tôi một vết thương. Cái vết thương ấy vừa đau đớn vừa làm cho tôi tỉnh ngộ. Tôi không tin em sẽ có hạnh phúc sau khi cưới, và điều đó khiến tôi cứ nơm nớp lo. Có phải tôi lo cho em không? Chưa hẳn như vậy. Em nhìn nhận cuộc đời đơn giản và vì vậy ứng xử đơn giản đến vô trách nhiệm với chính mình. Em tìm cuộc sống vật chất no đủ ở một nơi và gởi tình thương yêu vào một nơi khác, liệu điều đó có gây nên hậu quả bất lợi cho em? Tôi vùng dậy định viết đôi lời gửi em trước lúc bay vào. Nhưng rồi ngồi vào bàn, đầu tôi lại trở nên trống rỗng. Tôi bước ra ban công. Đường phố lúc này vắng ngắt, thoang thoảng mùi hương hoa làm tôi tỉnh táo hoàn toàn. Xin chào em, chào Hà Nội, ngày mai tôi sẽ bay vào. Ngày mai căn phòng này đóng cửa, còn hương hoa về đêm vẫn ngào ngạt dâng lên tỏa lan khắp phố phường...
VI
S |
ân bay Plei-ku hào phóng mở ra trước mặt tôi màu vàng rực của nắng và của hoa Đại. Hành khách nhiều người mở tung nút áo, ngỡ ngàng chào đón thảo nguyên. Mặc dù đã đi lại nhiều lần, nhưng lần nào tôi cũng thấy rạo rực đến ngột thở khi vừa đặt chân xuống đường băng. Gió lùa vào ngực, hất tung mái tóc và tôi thực sự muốn hòa tan vào gió, hòa tan vào đất trời. Không gian ở đây rộng, tưởng như những làn sóng đồi trập trùng kia đang nhún xuống để rồi tung bay khắp bầu trời, dâng hương mật của hoa trái và cây cỏ cho con người. Tôi bồn chồn lướt nhìn những đoàn người đón khách. Rơ Chăm Rót không đi đón tôi? Anh còn nhiều việc cần hơn việc ra sân bay đón bạn. Điều ấy không làm tôi buồn, mặc dù tôi đã điện gấp cho anh, ngay sau lúc nhận thư anh gửi ra. Tôi thoáng có ý định thay đổi kế hoạch là sẽ về tòa báo tỉnh, gặp gỡ đồng nghiệp, bạn bè, trao đổi công tác, sau đó xuống huyện. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn phóng thẳng về nhà tránh những cuộc gặp gỡ ngoài ý muốn với tay Thái. Hắn đang bắt tay ai đó và hắn ngoắc tôi lại. Trong khoảnh khắc lưỡng lự, tôi nhận ra người ấy là Rơ Ô Toa, lái xe của huyện ủy. Vậy là tôi lại được thực hiện đúng kế hoạch của mình. Rơ Ô Toa nhanh nhảu xách cặp tài liệu của tôi quẳng vào trong xe, và chào tay trưởng phòng. Hắn ấp úng ngỏ ý muốn quá giang vào thị xã, nhưng tôi làm lơ như không nghe, giơ tay chào hắn khi đã ngồi trong ghế. Con người ta không phải lúc nào cũng cứ chiều theo ý muốn của những kẻ mà mình không ưa. Rơ Ô Toa toác miệng cười, bảo tôi giờ đây huyện mình có nhiều đổi khác lắm. Sự đổi khác ấy là những gì, tôi háo hức muốn biết quá. Anh bạn lái xe láu lỉnh này chính là người biết nhiều công việc của huyện. Tôi tìm cách dò la:
- Cái thay đổi thứ nhất là hôm nay ông không mặc bộ áo quần bảo hộ. Lên tỉnh có khác- Tôi đùa.
- Đúng rồi- Rơ Ô Toa nói- Mình có thay đổi đấy anh Thương ạ.
- Lại bồ bịch gì ở trên này à?- Tôi ra vẻ nghiêm giọng.
Rơ Ô Toa chừng như không nghe rõ câu đùa, anh vòng xe rất khéo, lướt trên đoạn cong của con đường và thả cho xe chạy rất êm. Tôi rướn người hít căng lồng ngực không khí trong lành. Rơ Ô Toa đưa bao thuốc, tôi bật lửa châm một điếu và thoáng nhận thấy Rơ Ô Toa đang cắn môi.
- Mình không lái xe nữa, anh Thương ạ.
- Sao?- Tôi lo lắng hỏi.
- Mình làm việc khác rồi.
- Việc gì?
- Chánh văn phòng.
- Hay quá!- Tôi reo lên và đưa điếu thuốc vừa châm cho anh. Xin chúc mừng ông đấy.
- Mừng gì! Ngồi một chỗ, ớn lắm.
- Sao lại ngồi một chỗ? Việc ấy quan trọng lắm đó.
- Việc gì không quan trọng? Lái xe không quan trọng à?
Tôi chững lại, không trả lời anh. Té ra Rơ Chăm Rót đã bắt đầu "ra tay", tôi nghĩ thế và nói thêm:
- Dù sao thì hôm nay ông cũng phải khao tôi.
- Khao gì? Khao thôi lái xe hay lên làm cán bộ?
- Cả hai.
- Mệt anh quá!- Rơ Ô Toa nghiêng người cho xe lướt vòng theo cung đường trên sườn đồi. Mười năm qua Rơ Ô Toa cần mẫn lái xe cho huyện uỷ. Mười năm qua, bao nhiêu công việc, bao nhiêu vấn đề đã ngấm vào anh? Cha tôi chỉ nhìn nhận anh như nhìn nhận một nhân viên mẫn cán. Và anh cũng rất ít khi phát biểu những nhận xét của mình. Cha tôi quên anh ngay sau khi bước ra khỏi xe. Điều ấy đã thành lệ dù rất khó chịu, nhưng anh không phàn nàn. Tôi đã vài lần thấy cảnh Rơ Ô Toa chưa ăn xong bữa, cha tôi đã thúc anh đi. Có những trường hợp nửa đêm cha tôi gọi, anh rất nhanh xuống ga-ra, nổ máy xe, không nói không rằng, làm theo yêu cầu của lãnh đạo. Những lần Rơ Ô Toa cố tình lái xe lướt qua cổng nhà, bóp còi chọc tức cha tôi khi ông đã về hưu, thực tình tôi rất khó chịu, nhưng đó là quyền của anh, và tôi cho rằng, những chuyện vặt vãnh thường ngày như thế, không phải ai cũng có thể tránh được.
Xe chúng tôi đã ra trục đường chính vào thị xã. Rơ Ô Toa áp xe vào lề đường và dừng lại trước cửa hàng ăn uống.
- Ông khao tôi thật à?- Tôi vui vẻ hỏi.
Rơ Ô Toa đóng cửa xe, mủm mỉm cười:
- Có nhiều bất ngờ đấy anh Thương ạ.
Tôi háo hức cùng anh bước vào cửa hàng và sững lại khi thấy chị H' Thoan tíu tít chạy ra đón. Chị tôi bé nhỏ hẳn đi. Tôi vui sướng nắm tay chị, reo lên. Thế là chị đã trở lại với công việc. Ai đã giúp chị nguôi ngoai được nỗi buồn đau thời gian qua? Chị ấn vai tôi ngồi xuống ghế, lấy khăn mặt ướt cho tôi lau mồ hôi. Tôi tiếp nhận sự chăm sóc của chị không chút rụt rè. Chị búng búng một vệt bụi trên ve áo cho tôi, khiến tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Mấy tháng qua là mấy tháng liên tiếp chị phải gánh chịu những tai biến nặng nề suốt mười năm dồn lại. Giờ đây những vết nhăn trên hai khóe mắt chị hôm nào, chừng như đang dần dần giãn ra, tạo thành một khoảng quầng thâm, nom chị từng trải cứng rắn hơn nhiều.
Chị đặt trước mặt tôi li nước chanh đá lớn. Tôi cầm lên, uống một hơi gần hết. Chị thích thú theo dõi từng cử chỉ của tôi. Tôi nhận thấy mắt chị đang ngấn ngấn nước, và tự dưng, nơi cổ tôi nghèn nghẹn.
- Chú ốm quá!- Chị tôi nói.
- Em bị đau phải nằm viện cả tháng trời mà chị.
- Chị có nghe.
- Giờ em lại khỏe rồi. Mí và chị H' Tữk vui không chị?
- Vui. Có thay đổi to đấy chú Thương ạ.
- Anh Rót làm ăn ra sao?
- Giờ chú về nhà chị nghỉ, tối nay anh Rót hẹn xuống chơi, tha hồ mà hỏi.
- Anh Rót cũng đang ở đây à?
- Đang họp trên tỉnh ủy.
- Chị có về luôn thể không?
- Về thế nào được, chị đang làm việc. Chú về trước, chìa khóa đây. Chiều chị về sớm.
Tôi ngoan ngoãn cầm chìa khóa đứng lên. Chị quay vào quầy lấy thêm cho tôi bao thuốc và gọi Rơ Ô Toa. Thì ra nãy giờ Rơ Ô Toa đang ngồi uống cà phê trong một căn phòng phía sau cửa hàng. Nơi ấy là khu tập thể của chị em phục vụ. Tôi thấy nét mặt anh rạng rỡ sau khi chia tay mấy cô bạn và bước tới trước mặt chị tôi.
- Anh Thương bắt mình phải khao chị H' Thoan ạ.
- Chớ gì nữa- Chị tôi vui vẻ- Lần này thì anh không trốn được đâu.
- Trốn làm gì- Rơ Ô Toa thật thà nói và bước ra khỏi cửa hàng.
Tôi nói nhỏ với chị tôi trước khi bước vào xe:
- Tay Thái trưởng phòng của anh Thương hình như có ai kiện tụng gì đó.
Chị tôi đẩy tôi vào xe, nói:
- Chú không bận gì phải nghĩ ngợi cả. Không phải nó muốn làm gì cũng được đâu.
Tôi nắm tay chị và nhận ra ánh mắt chị không còn dấu tích của sự mệt mỏi. Rơ Ô Toa giật mạnh cần số. Xe chúng tôi vọt thẳng ra giữa trục lộ.
Rơ Ô Toa không vào nhà vì anh phải lên văn phòng tỉnh ủy họp. Tôi mở khóa cổng bước vào. Mọi vật trong hai căn phòng nhỏ của anh chị tôi không hề đổi khác. Kệ sách và những chồng báo của anh tôi vẫn y nguyên. Tôi có cảm giác như anh mới vừa làm gì đó. Tôi để cặp tài liệu vào cái hộc bàn bấy nay tôi vẫn để và nằm dài trên chiếc giường một, miên man nghĩ ngợi. Tôi cứ tưởng như bóng cha tôi vừa bước vào. Ông bế cháu bé và vụng về đặt nó lên bàn. Hình như chị H' Thoan đang xào nấu gì đó dưới bếp, tiếng mỡ sôi xèo xèo và tiếng chị nói vọng lên rằng, tôi và anh Rơ Lan Thương bằng nhau ở cái bệnh chây lười. Rằng sống ở thời buổi bây giờ mà không biết tự lo, chỉ làm khổ chị. Rằng không biết rồi đây cô gái nào lại có đủ dũng cảm lấy tôi. Chị cứ hay mắng mỏ và tôi cũng rất thích được nghe chị mắng. Chị mắng tôi thì được, nhưng có điều gì phải tranh luận với chị thì tôi không muốn. Nhớ những lần chị em tôi tranh cãi, anh tôi chỉ nằm đọc sách, không hề quan tâm. Giờ đây cái không khí ấy của gia đình tôi không còn nữa. Không còn nữa cảnh tôi nằm xoài trên giường cho anh tôi đánh tẩm quất, bóng chị tôi lướt qua bĩu môi hoặc nguýt một cái rõ dài. Tôi nhắm mắt, muốn ngủ, nhưng rồi những cảnh sinh hoạt của gia đình vẫn hiện lên. Tôi không thể thiếu được sự chăm sóc của chị. Tôi vùng dậy định kiếm một cái gì đó làm giúp chị, nhưng không kiếm ra việc gì. Củi trên giàn bếp chị đã bổ. Nước trong thùng phuy chị đã gánh đầy. Chị vẫn ăn ở gọn sạch ngăn nắp. Những bộ quần áo nhỏ xíu của cháu tôi phơi ngoài khoảng trống giữa bếp và hai căn phòng giờ đây đã khô. Tôi giật mình nhận ra phía trên cao của mái bằng ngôi nhà, bộ complet của anh tôi phơi ngoài nắng. Bước lên những nấc thang nhỏ phía ngoài, tới gần sợi dây phơi, tôi thẫn thờ nâng vạt áo của anh lên. Hình như ngày nào chị cũng phơi nó trước khi đi làm, để rồi lúc về, chị lại leo lên nhìn ngắm và sau đó nâng niu cất trong tủ áo. Tôi lặng lẽ ngồi xuống dưới cái bóng mà bộ áo quần rũ xuống, hình dung thấy cảnh chị tất tưởi đạp xe về mỗi lần cơn mưa đe dọa. Ở đời có những công việc thật ngớ ngẩn với người này, nhưng lại rất có ý nghĩa với người kia, điều ấy chính là sự phong phú khác thường của đời sống. Tôi nhớ lại ánh mắt lấp lánh vui của Rơ Lan Thương ngày cưới và dáng điệu uyển chuyển của chị khoác tay anh, rồi lúc tôi hoảng hốt khi thấy anh say, chị đẩy tôi ra nhắc tôi không nên thế, từ nay anh tôi thuộc về chị. Mỗi người đều có quyền biểu hiện tình thương yêu của mình với người thân. Chị em tôi nhiều khi giận dỗi nhau chỉ vì cả hai cùng lúc muốn lôi kéo anh về phía mình. Không ai có thể ngăn trở tình yêu của tôi đối với anh tôi. Cũng không ai có thể thay thế chị chăm sóc anh được. Một cơn gió ào qua khiến bộ complet đung đưa. Tôi đứng lên tha thẩn trên mái bằng và lại ngồi xuống, ngơ ngẩn tiếc những ngày sống gần anh, sao tôi chỉ là chỗ tâm tình, nơi tiếp nhận những nỗi niềm của anh, mà không giúp gì cho anh cụ thể. Vâng, anh cũng chưa bao giờ hỏi tôi nên xử sự thế nào, ngay cả lúc người ta đẩy anh phải thôi việc. Xét cho cùng tôi cũng chỉ là kẻ đứng ngoài sự việc, tỏ ra thông cảm với anh thôi. Mà anh không phải chỉ cần sự thông cảm! Tôi đã không vượt qua những hạn chế bởi mặc cảm khác cơ quan, khác chuyên môn để giúp anh nhận định đúng tình hình. Ngay trong buổi hội thảo về công trình khoa học của anh, tay trưởng phòng Thái đã lộ nguyên hình. Tôi cũng không phải là không sớm nhận ra những tính toán của cái đầu óc đen tối ham chức quyền, đố kỵ của hắn, ghê tởm hắn mà không biết tìm cách giúp anh giập tắt những ý đồ mà hắn chĩa vào. Hắn sợ anh thực hiện được công trình, sợ cái ghế trưởng bề nổi mà hắn đã thiết lập cho mình. Sự nhân nhượng vô nguyên tắc trong bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng sẽ dẫn đến cái kết cục không tốt đẹp gì. Tôi đã không sớm nhận ra điều ấy. Cái giá anh tôi phải trả đắt quá! Cái chết của anh tôi trên thực tế đã thức tỉnh rất nhiều người, kể cả tôi. Nhưng dù sao tôi vẫn không muốn người ta nhân cái chết ấy để truy đuổi lẫn nhau. Tại sao anh tôi lại phải chịu một số phận hẩm hiu thế? Không được! Tôi lững thững bước xuống, nhẩm đếm từng nấc thang lòng ứa buồn nặng trĩu. Tôi không cầm được nước mắt lao vào giường, vùi đầu ngập trong gối, cắn nát một vật gì đó. Lúc này hắn mà tới xin xỏ tôi, tay trưởng phòng của anh tôi ấy, hẳn tôi sẽ không tha, tôi sẽ vùng dậy, đập vỡ mặt hắn. Nhưng hình như hắn luôn đếm được những ý nghĩ của tôi, để rồi mỗi lần gặp hắn, tôi chỉ muốn chính mình nhanh chóng biến khỏi đôi mắt kính cận trắng nhợt đê tiện ấy. Hình như có mưa lộp bộp ngoài trời? Tôi hoảng hốt nhảy ra cửa, định tới các dây phơi thu áo quần cho cháu và anh tôi. Nhưng đó chỉ là ảo giác. Rõ ràng trời đang nắng. Gió xào xạc trên vòm cây trước nhà, một vài cái lá rơi lả tả, bay tít ra phía ngoài phố. Không có gì đặc biệt. Tôi nghe ngóng và bước vào nhìn lên khung ảnh có hình anh tôi. Đâu đó như vừa có tiếng ho nặng nhọc của ông già cùng bước chân ngoài cửa. Có cả tiếng rìu cậm cạch đẽo gọt trên súc gỗ kơ-rắk mà cha tôi đang tạc tượng anh tôi. Cha tôi tìm ra cho mình con đường để tự nhận thức thật cao đẹp không phải ai cũng tìm ra. Giờ này ông đang ở đâu? Chị Rơ Lan H' Tữk và mẹ tôi đang làm gì? Có gì đang đổi mới trong mỗi con người? Và tôi, tôi đang đứng đây, giữa căn phòng quen thuộc của anh chị tôi, có phải tôi cũng đang lần tìm về quá khứ để rồi ngày mai biết được tôi cần phải làm gì. Ôi, cuộc sống. Người luôn nâng đỡ và dạy bảo ta. Người cũng sẵn sàng tống cho ta những quả chí tử, để rồi nếu ta không tự biết mình mà cố vươn lên, ta sẽ lại tiếp tục bị những đòn roi. Khi ấy hắn ta sẽ phải biết vâng theo lời dạy dỗ cương nghị và đôn hậu của người...
Tôi giật mình thảng thốt nhảy ra khỏi cửa khi vừa nghe như có tiếng ai đó đập thình thình ngoài cánh cổng. Vâng, rõ ràng là có người đang gọi rất gấp. Tôi cố bình tĩnh đứng lại trên thềm định thần nhìn ra.
Cánh cổng bị bật mạnh sang hai phía. Khi nãy tôi chỉ quấn dây xích chứ chưa khóa. Trước mặt tôi là một người đàn ông lực lưỡng, mắt đỏ kè, hai cánh tay cuộn gân của anh ta đẩy mạnh cánh cổng ập vào. Anh ta khoác một cái túi làm bằng bao cát trĩu nặng. Rõ là anh ta vừa uống rượu ở đâu đó ghé qua. Tôi cố nhớ xem mình đã gặp anh chàng này ở đâu, nhưng trí nhớ của tôi chỉ còn cảm thấy loáng thoáng là có gặp cũng đã lâu lắm rồi. Anh ta lầm lũi bước vào, chìa tay cho tôi bắt, không nói không rằng ngồi xuống bực thềm. Tôi cảm thấy vui vui khi anh ta lấy mũ vải che miệng, ngáp rất to, rồi hỏi tôi xin thuốc hút bằng tiếng Gia Rai. Tôi vội vàng vào nhà lấy thuốc ra mời anh, và tất nhiên, tôi cũng hỏi anh ta bằng tiếng Gia Rai:
- Anh tới có việc gì không?
Anh ta nhìn tôi một lượt rồi nói:
- Có chứ sao không?
Im lặng một lúc. Anh ta bật diêm hút thuốc, rồi lại nhìn tôi, nói:
- Mày là thằng Thương nhà báo phải không?
- Sao anh biết tôi? Vậy anh tên là gì nhỉ?
- Tao là tao, em ạ.
Tôi lúng túng mời anh ta vào nhà uống nước, anh ta cười:
- Ngồi đây với vào nhà hơn nhau cái gì? Con người ta không hơn nhau chỗ ngồi đâu em ạ. Mày không nhớ tao, còn tao nhớ mày- chợt anh che miệng cười- Mày tức cười lắm, em ạ. Mày không nhớ hôm cưới anh mày, tôi mặc khố cho mày múa hát à?
- Nhớ ra rồi!- Tôi reo lên- Anh Siêu Nho!
- Nho với lại Nhọ cũng thế thôi. Người ta gọi anh là Siêu Nhọ rồi em ạ.
Tôi cười vui, nắm tay anh:
- Nghe nói anh về hưu non, làm đàn t' rưng bán cho Công ty vật tư văn hóa, "trúng quả" ghê lắm?- Tôi làm ra vẻ thông thạo hỏi. Anh nhổm dậy lừ lừ nhìn tôi:
- Trúng gì? Một tháng chui rúc trong rừng, làm được hai cái đàn, không đủ tiền hút thuốc chứ trúng gì? Mà có làm nhiều cũng chả ai mua. Người ta không đuổi con gà, con chim bằng đàn t' rưng đâu em ạ.
- Anh cứ nói thế- Tôi nói và ngồi xuống bên anh- Thế anh làm tăng âm cho ống đinh-yơng chưa?
- Không tăng tiền làm sao tăng âm được?
- Thế à?- Tôi hỏi ngớ ngẩn.
- Bây giờ anh không nghiên cứu nghiên coọc gì hết. Làm việc khác rồi, làm chủ bản thân rồi, em ạ.
- Sao vậy, anh?
- Nghiên cứu thì ăn gì? Xuống buôn làng ăn xin đồng bào, về cơ quan ăn cơm nhà bếp liên cơ, vay tiền tăng âm cho K' Lông Pút, cho t'rưng, cho đàn goong để nhận lương trả nợ không đủ. Vay mười ngàn được thù lao một ngàn, còn chín ngàn con kiến nó trả nợ cho à? Dẹp!
- Làm nghệ thuật mà tính thế thì gay nhỉ? Tôi nói.
- Sao không tính? Nghệ thuật không cần ăn à?
- Thế giờ anh làm gì?
- Thiếu gì việc.- Anh nghiêng người mở túi lấy ra những tệp vỉ đan bằng giang và những mẩu tre, gỗ, xếp rất nhanh thành cái nhà rông và nói:- Tao bán một cái một ngàn đồng. Một ngày hai ngày là xong ba cái.
- Khéo quá!- Tôi reo lên.
- Còn đây nữa.- Anh rút ra một pho tượng người con gái ở trần bằng cái chai lớn, đặt trên một bệ gỗ.
- Hai ngàn cái này.- Anh nói.
- Đẹp quá!- Tôi nói- Nhưng anh bán ngoài chợ à?
- Sao lại bán ngoài chợ- Anh thu các thứ cho vào túi, nói- Tao đem bán cho anh Rót mua sáng kiến đấy.
- Thật à?
- Thật. Nó mua mẫu, mai mốt mua nhiều, mình làm hợp đồng. Không nghiên cứu thì làm thợ, lo gì? Thứ này nghe nói dưới thành phố lớn, người ta bán cho người nước ngoài, ăn lắm.
- Đúng. Nhưng anh làm thật à?- Tôi hỏi nghi ngờ.
- Chớ còn ai? Mày tưởng tôi bình thường à? Tôi đã đi khắp thế giới, đánh t'rưng cho khắp thế giới nghe. Thế giới biết Tây Nguyên qua tiếng đàn t'rưng của tôi chớ mày tưởng bình thường à?
- Anh tài thật đấy.
- Tài giỏi gì? Mày nói tôi tài mà phải đến xin việc anh mày à? Người tài bây giờ không phải dễ sống đâu, em ạ. Anh về hưu non, làm tầm bậy tầm bạ, kiếm tầm bậy tầm bạ. Tay làm cho miệng nó nhai. Nhai đi nhai lại cho hai tay làm...
Anh cười ngặt nghẽo và sau đó rất nhanh trở lại nghiêm giọng:
- Nhiều lúc anh ngồi anh nghĩ, em ạ. Mình đi cách mạng lâu năm, về quê, thâm nhập với đồng bào. Đồng bào quý mình, nhưng cứ coi mình như khách. Muốn hòa vào mà không hòa được. Có thể thông cảm cho nhau. Mình thông cảm với bà con, bà con thông cảm cho mình. Nhưng mình vẫn là cán bộ, là khách! Khách với chủ là hai con người, là hai chỗ ngồi khác nhau, muốn ngồi chung cũng không được... Đến lúc về cơ quan, anh em cơ quan quý mình. Bây giờ được nói anh cũng nói thật. Cơ chế cũ nó có thương mình đâu? Đi thực tế một tháng, về lo trả nợ hai ba tháng. Muốn làm gì im miệng mà làm, nói ra thế nào cũng phạm chính sách. Chính sách ở đâu? Ở trong lỗ miệng những thằng ngồi một chỗ, không cần làm, không cần gì hết, chỉ cần vâng dạ với cấp trên, nịnh hót cấp trên, sau đó đứa nào làm gì mà nói, nhất định là thằng bướng, thằng vô ý thức tổ chức kỷ luật. Phải hiền lành, ngoan ngoãn em ạ. Không cần làm chỉ cần ngoan, thế là người tốt, bằng khen giấy khen tơi tới. Lên cấp lên chức tùm lum. Còn làm mà lại to miệng như thằng Rơ Lan Thương à? Phải phấn đấu, rèn luyện về phẩm chất hiểu chưa em? Phẩm chất đạo đức là cái gì? Là thằng Thái đấy! Lúc nào cũng có sẵn những cặp phạm trù đút trong túi nhé. Lúc nào cũng có bài phát biểu về công lao lãnh đạo sáng suốt của tỉnh, đảng bộ nhé, của cấp trên nhé. Nó cứ làm như Đảng chỉ của riêng nó. Ngoài nó ra không ai có quyền yêu, không ai có quyền xây dựng! Anh đã bảo con H' Thoan rồi. Phải vạch mặt nó ra. Phải đốt đuốc gí vào mặt nó cho người ta nhìn rõ. Đảng ta không phải của nó. Nó chui vào Đảng để làm con dòi con bọ. Vậy mà con H' Thoan cứ nói phải chờ mày về, hỏi thêm ý kiến mày em ạ. Anh không chờ đâu. Anh đã làm đơn đề nghị xem xét lại mặt nó có đúng là mặt người không. Ban kiểm tra Đảng, thanh tra chính quyền đã làm việc với anh rồi, không phải bình thường đâu em ạ. Từ ngày nó đến đây nó làm được những gì? Anh hỏi cấp trên thế. Nó ở Tây Nguyên mười năm, biết được mấy tiếng dân tộc? Không nhé. Chẳng biết nửa chữ, chưa bao giờ ra khỏi thị xã mà cũng bảo là ở Tây Nguyên à? Nó lên mấy bậc lương? Ai xét cho nó lên năm bậc lương? Lại cả đi học tại chức, lao động tiên tiến, cái gì nó cũng có, chỉ mỗi lương tâm là nó không có thôi, phải không?
Chợt anh dừng nói, bật diêm hút thuốc. Tôi cảm thấy anh đang nóng, nên muốn xoa dịu:
- Hồi trước anh là đoàn trưởng đoàn văn công của chị H' Thoan em ạ?
- Đoàn trưởng rồi ra Bắc học. Rồi về lại làm đoàn trưởng. Rồi lại ra Bắc học. Đi các nước biểu diễn, rồi lại về...
- Tối nay anh ký hợp đồng với anh Rót à?
- Anh đem hàng mẫu tới cho nó. Nó đem về huyện còn phải họp bàn ký kết với thành phố, sau đó mới lại làm việc với anh chớ. Không phải bình thường đâu.
- À ra thế- Tôi nói- Anh chịu khó thật.
- Không chịu khó thì ăn gì? Mình làm việc quen chân quen tay rồi, ngồi không ngứa ngáy lắm em ạ. Ngồi không nghĩ tầm bậy tầm bạ, hư người. Mọi thói hư tật xấu của con người đều bắt đầu từ bệnh lười, bệnh ngồi không. Vì ngồi không nên chây lười, ngu dốt, chẳng nghĩ ngợi được gì, thế là sinh ra đủ thứ suy nghĩ hôi thối. Anh cũng bảo thằng Rót thế đấy. Nó làm cán bộ to mà nghe những thằng lười nịnh thì rồi cũng không nên người đâu. Không phải dân tộc mình bình thường đâu em ạ. Anh đọc cho nó nghe câu nói của ông già làng anh dặn con cháu khi con cháu ra khỏi làng thế này: "Đã muốn thì làm. Đã làm thì không sợ sai. Nếu sợ sai thì đừng muốn".- Anh cười và tiếp- Không phải bình thường đâu...
Anh lại bảo tôi lấy thuốc, châm cho anh hút, rồi anh nói cho mà nghe. Tôi nhanh nhẹn làm theo yêu cầu của anh, anh tiếp:
- Anh bảo với thằng Rót, anh rể mày ấy. Giờ lên bí thư huyện ủy, to rồi. Nhưng to mà không biết đến quyền lợi của người khác thì vứt đi! Ai cũng có quyền, em ạ. Không lao động thì mất quyền hết. Còn lao động thì còn quyền ăn, quyền nói...
Tôi cắt ngang lời anh:
- Sao anh lại bảo anh Rót là anh rể em?
- Ơ, thế mày không biết gì à?
- Không.
- Nó cưới con H' Tữk- chị mày rồi.
Tôi sững người. Siêu Nho cười vang, rồi nói:
- Ông già còn ở lại chữa bệnh, em ạ. Nó cưới rồi còn lo công việc chung, không phải bình thường đâu.
Tôi vẫn thừ người, Siêu Nho chỉ vào mặt tôi, nói:
- Mày giận nó à?
- Không.
- Sao ngồi như tượng nhà mồ thế?
- Là em nghĩ sao anh Rót không chờ ba em...
- Chờ làm gì? Lấy vợ cũng phải có thời cơ. Có thời cơ rồi thì phải xốc tới. Lấy vợ cho mình mà chờ hết mọi người, chờ ý kiến mọi người, không phải việc tập thể đâu em ạ.
- Em cũng không ngờ- Tôi nói.
- Thôi em ơi!- Anh kéo tay tôi lại. Mở nút áo trên ngực tôi, xoa xoa vào vết sẹo- Mày không phải bình thường đâu. Lo mà lấy vợ cho anh uống rượu.
Tôi nắm tay anh không nói gì. Đúng lúc ấy chị
H' Thoan đẩy cánh cổng, dắt xe vào. Sau chị là một cô gái trẻ. Chị tôi thấy Siêu Nho liền bĩu môi, nói:
- Anh Nho lại uống rượu, sai lời hứa rồi nhé.
- Sai gì? Anh vừa ở làng Plei-ku-ró về. Làng xã tiễn mấy đứa đi bộ đội, không uống không được.
- Lúc nào anh chẳng có lý do.
- Sao không lý do? Không lý do thì Siêu Nhọ em ạ.
Và anh cười hồn nhiên, tới bên chị tôi nhún nhún mông nhảy. Chị tôi gạt anh ra, nói:
- Mệt anh quá.
- Mệt thì nghỉ, để anh nấu nướng cho- Siêu Nho đỡ cái làn từ tay chị, xách xuống nhà bếp. Chị tôi bảo tôi vào nhà nghỉ, chị đi đón cháu, chút về ngay. Nhưng tôi bảo chị ở nhà để tôi đi đón cháu thay. Tôi muốn thay đổi không khí. Buổi chiều trên thị xã cao nguyên se se lạnh. Có cái gì đấy thật phấn kích cứ rạo rực mãi trong lòng tôi.
Tôi nhận ra chiếc xe con chở Rơ Chăm Rót lướt qua trước mặt khi tôi bước ra khỏi cổng. Rơ Ô Toa lượn vòng, áp xe sát bờ giậu rồi dừng lại. Rơ Chăm Rót bật cửa nhào ra ôm chặt tôi vào lòng. Rơ Ô Toa nhận đi đón cháu thay tôi.
Chị tôi vừa vào phòng, mọi vật rất nhanh đổi khác. Bây giờ tôi mới nhận ra tấm rèm dù hoa ngăn cách phần trong của căn phòng chị tôi mới vén lên, có pho tượng anh tôi. Đó là pho tượng do chính cha tôi lặng lẽ đục đẽo suốt mấy tháng qua, bây giờ được chị tôi và Rơ Chăm Rót đem về, đặt đúng chỗ của nó. Cả tôi và Rơ Chăm Rót cùng lặng im nhìn vào anh tôi. Tôi ấp úng kéo Rơ Chăm Rót ngồi xuống. Hai anh em tôi cùng lúc nhìn nhau, rồi bất chợt cùng cúi xuống.
- Cậu kể chuyện Hà Nội đi.
Tôi bật cười khi nghe anh gọi tôi là "cậu", và tôi đứng lên lấy phích nước, nói:
- Em muốn nghe chuyện nhà trước, anh Rót ạ!
Rơ Chăm Rót cũng đứng dậy, nói:
- Mình ăn xong về huyện ngay được không?
- Được thôi. Nhưng sao vội thế?
- Không phải lúc nào cũng nhàn nhã đâu, cậu Thương ạ.
- Kể cả lúc này? Tôi hỏi.
- Kể cả lúc này- Anh nhắc lại.
Và chúng tôi cùng cười vui, kéo nhau xuống bếp.
1985-1986
1. Can: đơn vị đo rượu cần, khoảng nửa lít
1. Prơơng: chùm ống nứa khô
1. Đinh yơng: nhạc cụ bằng nhiều ống nứa ghép lại, dùng cho phụ nữ thổi
1. Gưng-ga: một loại cây nêu.
1. Mí Thương: Mẹ Thương.
1. Áo ló- loại áo ba lỗ dành riêng cho phái nữ.