Ít nhất nó có thể nhìn thấy cái vịnh. Nó có một cái bút và một tập giấy trong tay. Nó cần phải gửi Cái quần đi cho Carmen, nhưng ngày hôm nay thật khó viết thư quá.
Nó đang ngồi đó, cắn cắn cái đuôi bút thì Eric xuất hiện. Anh ngồi lên tấm rào chắn.
“Mọi sự thế nào?” anh hỏi.
“Bình thường,” nó nói.
“Em đã bỏ lỡ trận đấu rồi,” anh nói. Anh không chạm vào nó. Anh không nhìn nó. “Đó là một trận hay. Diana đã xé tan sân cỏ.”
Họ đang vặn ngược đồng hồ. Anh đang trở lại thành một huấn luyện viên nhân từ, và nó là trại viên không thể kiềm chế được. Anh đang xin phép nó để giả vờ như không có gì xảy ra.
Nó không chắc nó muốn đồng ý. “Em mệt. Đêm qua là một đêm cực quan trọng.”
Mặt anh đỏ lên. Anh giơ tay ra và nhìn vào lòng bàn tay mình. “Nghe này, Bridget.” Anh có vẻ đang lựa chọn một cụm từ rất khó diễn đạt. “Lẽ ra anh nên để em đi tối qua. Lẽ ra anh không nên đi theo em khi thấy em đi ngang cửa... Anh đã sai rồi. Anh xin nhận trách nhiệm.”
“Chính em muốn đến mà.” Làm sao anh dám lấy đi sức mạnh của nó?
“Nhưng anh lớn hơn em. Anh là người... Anh chính là người sẽ gặp rắc rối to nếu mọi người biết.”
Anh vẫn không nhìn nó. Anh không biết nói gì nữa. Anh muốn đi. Nó có thể nhìn thấy điều đó rõ ràng. “Anh xin lỗi,” anh nói.
Nó ném cây bút vào phía sau anh. Nó ghét anh vì anh đã nói thế.
Carmen thân yêu,
Cái quần đây. Tớ đang rất lộn xộn. Nếu tớ nghe lời khuyên của cậu về cảm nhận tốt, có lẽ tớ sẽ không như thế này.
Vậy thì tớ gửi nó lại cho cậu. Cảm nhận tốt sẽ thống trị tất cả. Tớ ước gì tớ có một chút cảm nhận như thế.
Yêu cậu,
Bee
“Tibby, tắt camera đi.”
“Carma, làm ơn đi. Làm ơn?”
“Chị có thể mặc Cái quần cho buổi phỏng vấn được không?” Bailey hỏi.
Carmen nhìn cô bạn đầy căm ghét. “Tớ sẽ không trả lời phỏng vấn. Các cậu là ai mới được chứ? Anh em nhà Coen à?” nó độp lại.
“Carmen, làm ơn trật tự và hợp tác một lần trong đời cậu đi,” Tibby nói một cách rất khó chịu nhưng không có vẻ gì có ý xấu, nếu như điều đó là có thể.
Mi gây thù chuốc oán với mọi người. Carmen tự nhắc mình. Mi sẽ lớn lên thành một bà cô già cay đắng. Mi sẽ đánh son chệch khỏi đường môi và quát tháo bọn trẻ con trong các nhà hàng.
“Được thôi,” nó nói. Nó mặc Cái quần vào, sau đó ngồi xuống và chăm chú nhìn Bailey khi cô bé bắt đầu sắp xếp các máy quay. Cô bé ăn mặc gần như y hệt Tibby. Đó là một Tibby mini với một chiếc mic và tay cầm mic. Những vòng màu tía phía dưới mắt nó thậm chí cũng giống Tibby. Carmen nhanh chóng tự hỏi tại sao Tibby lại chơi với một cô nhóc mười hai tuổi, nhưng thôi, thế nào cũng được. Đó không phải là lỗi của Tibby nếu tất cả các bạn nó đều đi vắng cả.
Căn phòng trở nên yên tĩnh. Tibby đang đi ra đi vào với thiết bị ánh sáng. Cả hai nhà làm phim đều trở nên vô cùng nghiêm túc. Nó nghe thấy tiếng Bailey thổi vào chiếc mic cứ như một nhà quay phim thực thụ. “Carmen Lowell là bạn thân của Tibby kể từ khi họ...”
Điều này làm Carmen cảm thấy không thoải mái. “Ừm... em biết đấy, Tibby và chị đang cãi nhau ngay lúc này.”
Tibby dừng quay. Bailey nhìn lên vẻ cáu kỉnh. Cô bé đánh tan đi sự tranh cãi với một cú hất cổ tay. “Hai người yêu quý nhau. Tibby yêu quý chị. Điều đó chẳng ảnh hưởng gì cả.”
Carmen nhìn chằm chằm vào cô bé không tin nổi. “Ô này? Em mới mười hai tuổi.”
“Thế thì sao? Em nói vẫn đúng,” Bailey trả đũa.
“Chúng ta có thể quay lại với công việc được không nhỉ?” Tibby hỏi.
Từ khi nào Tibby có được đạo đức nghề nghiệp của một người hành hương mộ đạo như thế nhỉ?
“Tớ chỉ nói thật là kỳ quặc nếu tiếp tục quay mà không nhắc đến việc cậu và tớ đã cãi nhau to, Tibby ạ,” Carmen nói.
“Được thôi, cậu cứ nhắc đến nó đi,” Tibby nói.
H u hết mọi người đều tránh xung đột. Carmen bắt đầu lo rằng nó khao khát xung đột như một kẻ nghiện đánh nhau. Mi gây thù chuốc oán với mọi người, nó lại tự nhắc mình. Nó nhét hai tay vào túi quần, các ngón tay cảm thấy có cát trong túi.
“Em sẽ đặt câu hỏi,” Bailey nói. “Chị cứ là chị bình thường thôi.”
Làm thế nào mà thế giới hiện đại này lại có thể tạo nên một đứa nhóc mười hai tuổi tự tin đến thế nhỉ? Có ai đó cần phải xem xét triệu chứng ảo tưởng Ophelia của cô nhóc này ngay. “Thôi được,” Carmen nói. “Liệu chị có cần phải nhìn vào ống kính không?”
“Nếu chị muốn, chị có thể nhìn,” Bailey nói.
“Được.”
“Sẵn sàng chưa?”
“Sẵn sàng.”
Ngồi trên chiếc giường đã soạn gọn gàng, Carmen vắt tréo chân.
“Vậy là Tibby kể cho em nghe rằng bố chị sắp sửa lấy vợ mới vào mùa hè này,” Bailey bắt đầu.
Carmen mở to mắt. Nó xoáy một cái nhìn buộc tội về phía Tibby, người đang nhún vai.
“Phải,” Carmen trả lời cứng đơ.
“Khi nào?”
“Ngày 19 tháng Tám. Xin cảm ơn đã quan tâm.”
Bailey gật đầu. “Chị sẽ đi dự chứ?”
Carmen cắn môi. “Không.”
“Tại sao không?”
“Vì chị không cảm thấy muốn,” Carmen trả lời.
“Chị cáu bố chị à?” Bailey hỏi.
“Không, chị không cáu bố chị.”
“Vậy tại sao chị không đi?”
“Vì chị không thích gia đình mới của bố. Họ rất khó chịu.” Carmen biết mình nói như một đứa trẻ hay hờn dỗi và được nuông chiều vậy.
“Tại sao chị không thích họ?”
Carmen bồn chồn. Nó đổi chân. “Chị không hợp.”
“Tại sao không?”
“Vì chị là người Puerto Rico. Chị có cái mông bự.” Carmen mỉm cười trái với ý định.
“Vậy là chị nói chị không thích họ hay họ không thích chị?”
Carmen gục gặc đầu. Nó dừng lại. “Chị cho là cả hai.”
“Thế còn bố chị thì sao?”
“Em muốn nói gì?” Carmen hỏi.
“Ý em là, liệu ông ấy có đóng vai trò gì không?” Bailey hỏi.
Carmen đứng lên và vẫy tay với Tibby. “Dừng lại đã. Dừng lại. Phim ảnh gì mà thế này?” nó chất vấn.
“Đó là một bộ phim tài liệu,” Tibby nói.
“Đúng, nhưng về cái gì?” Carmen hỏi.
“Về con người thôi. Những gì quan trọng đối với họ,” Bailey trả lời.
“Ái chà, em có thật sự nghĩ rằng có ai đó sẽ quan tâm đến chị và bố chị không?”
Bailey nhún vai. “Nếu chị quan tâm,” nó nói.
Carmen chăm chú ngó các ngón tay của mình. Chúng bị cắn cụt ngủn, chỉ còn lại một ít móng để trang trí bên viền.
“Vậy tại sao chị lại ném đá?” Bailey tiếp tục. “Chị hẳn là đã rất cáu.”
Miệng Carmen há hốc. Nó nhìn chằm chằm Tibby. “Xin cảm ơn. Cậu đã kể cho nó tất cả?”
“Chỉ những gì quan trọng thôi,” Tibby đáp lại.
Vì một lý do nào đấy, Carmen cảm thấy nước mắt đang dâng lên trong mắt. Nó không dám chớp vì sợ sẽ làm rớt nước mắt ra và bị quay được. “Chị không cáu với bố chị,” nó nói đầy nghị lực.
“Tại sao không?”
Nước mắt bắt đầu tràn lên. Đôi khi việc có nước trong mắt khiến bạn bắt đầu cảm thấy tủi thân và thấy cần khóc thêm nữa. “Chỉ đơn giản là không thôi,” Carmen nói. “Chị không cáu với bố chị.”
Chẳng ăn thua gì. Nước mắt bắt đầu tràn ra. Giọt nọ nối giọt kia lăn xuống má, xuống cằm. Lờ mờ nó nghe thấy tiếng lách cách và nhìn thấy chân mic và chiếc mic trên sàn nhà. Bailey đang ngồi gần nó, gập hai khuỷu tay lại trong một động tác có lẽ đầy thông cảm, hơn là Carmen có thể hiểu. “Thôi được,” Bailey nói nhẹ nhàng.
Carmen sụp xuống. Nó để đầu mình song song với đầu Bailey. Có lẽ nó nên kể chuyện sao cho cô bé này bối rối, nhưng nó đã không làm thế. Nó đã quên mất chiếc máy quay và bộ phim, và Tibby và kể cả thực tế rằng nó có chân tay và rằng trái đất này đang quay.
Không lâu sau, Tibby đến ngồi bên cạnh nó, vòng tay ôm quanh hông nó.
“Chị có quyền cáu mà,” Bailey nói.
*
* *
Đó là lúc 4 giờ 7 phút, và Bailey vẫn chưa đến cửa hàng Wallman. Tibby nhìn cái đồng hồ to tướng trên tường phía sau quầy tính tiền chỉ để cho chắc. Nó đâu nhỉ? Cô bé này không bao giờ đến muộn một phút sau khi ca của Tibby kết thúc vào lúc 4h.
Tibby đi ra cánh cửa tự động, cảm thấy hơi nóng và nheo mắt nhìn sang phố vào gian hàng tạp hóa Seven-Eleven. Đôi khi Bailey chơi trò Chúa Rồng với Brian trong khi chờ Tibby tan ca. Hôm nay Brian chơi một mình. Cậu ta nhìn lên và nó vẫy cậu. Cậu vẫy lại.
Đến 4 giờ 18 phút, Tibby bắt đầu cảm thấy thật sự chán nản. Lúc nào nó cũng mong chờ Bailey đến với nó mọi khoảnh khắc trong ngày. Nó đã coi đó là chuyện đương nhiên. Chắc chắn lúc đầu nó đã thấy phiền, nhưng giờ thì khác rồi.
Liệu Bailey có gặp vấn đề gì ở nhà, chờ Loretta cho vào nhà thì mới lấy được đồ quay phim? Hay cô bé tự dưng chán bộ phim của chúng?
Biết rõ Bailey, nó không tin chắc lắm, nhưng nghĩ về điều đó thì thời gian trôi qua nhanh hơn. Nó đi lòng vòng thêm tám phút nữa và nhảy lên chiếc xe đạp của mình. Nó kiểm tra nhà mình trước. Không có Bailey. Nó vòng xe quay lại cửa hàng Wallman. Sau đó nó đến nhà Bailey.
Chẳng ai ra mở khi Tibby gõ cửa. Nó bấm chuông vài lần. Nó đứng đó giữa lối đi đằng trước, nhìn lên cửa sổ phòng Bailey, cố tìm dấu hiệu sự sống nào đó thì bỗng nhiên một người hàng xóm đi ngang qua.
“Cháu đang tìm nhà Graffman à?” người phụ nữ hỏi, dừng lại ở cửa trước nhà Graffman.
“Vâng. Cháu tìm Bailey,” Tibby trả lời.
“Cô nghĩ họ đã đến bệnh viện vài tiếng trước,” người phụ nữ nói. Trông cô có vẻ đau đớn.
Tibby cảm thấy nỗi lo lắng bắt đầu dâng lên trong lồng ngực. “Mọi sự ổn chứ ạ?” nó hỏi.
“Cô thật sự không biết,” người phụ nữ trả lời. “Họ đang ở bệnh viện Sibley.”
“Cảm ơn cô,” Tibby nói, quay lại chiếc xe đạp. Nó đi theo hướng bệnh viện Sibley và bắt đầu đạp nhanh.
Có lẽ Bailey chỉ đến khám như bình thường thôi. Tibby nghĩ. Có lẽ họ sẽ lấy ra một ít máu để đảm bảo rằng bệnh bạch cầu không gây tác hại như nó thường gây ra. Bailey rõ ràng rất bình thường. Những đứa trẻ ốm phải nằm trên giường chứ. Bailey lúc nào cũng ở ngoài đường.
Nếu thực tế đây là một buổi khám bệnh, sẽ hơi kỳ quặc nếu mình xuất hiện ở đó, Tibby nhận ra điều đó khi đi dọc theo hành lang điều hòa mát lạnh, mồ hôi đầm đìa.
Nó đi qua hành lang, cân nhắc các lựa chọn, sau đó nhìn thấy bà Graffman đang đi vào cửa lớn của bệnh viện. Bà mặc quần áo trang trọng và mang một chiếc túi hiệu McDonald.
“Chào cô Graffman,” Tibby nói, xuất hiện ngay trước mặt bà Graffman. “Cháu là bạn của Bailey.” Nó lờ mờ nhớ ra hàng tuần liền nó đã cố cưỡng để gọi Bailey và nó là bạn bè.
Bà Graffman gật đầu và thoáng mỉm cười. “Dĩ nhiên cô biết cháu là ai.”
“Ưm, mọi việc tốt chứ ạ?” Tibby hỏi. Nó nhận ra chân mình đang run run. Ôi trời, ở đây bật điều hòa lạnh quá. Nếu bạn chưa ốm thì họ sẽ khiến bạn ốm mất. “Em ấy đang khám bệnh hay làm gì đó ạ?” Tibby đi ngay cạnh mẹ của Bailey, mặc dù không được mời. Ai là người đi lén theo đây?
Mẹ Bailey dừng lại một lát, và Tibby sắp sửa chạy ngang qua cô. “Cháu có muốn ngồi xuống với cô một lát không?” cô Graffman hỏi.
“Vâng ạ,” Tibby nhìn mặt người phụ nữ. Mắt cô trông đỏ và mệt mỏi. Miệng cô trông hơi giống miệng Bailey.
Cô Graffman để Tibby ngồi cạnh mấy chiếc ghế trong một góc yên tĩnh. Cô ngồi xuống. Không có chiếc ghế nào trước mặt cô nên Tibby có thể ngồi ngay cạnh và tựa ra sau thoải mái.
“Tibby này, cô không rõ cháu biết bao nhiêu về tình trạng của Bailey. Cô biết nó không nói về chuyện đó.”
Tibby đờ đẫn gật đầu. “Em ấy không nói về chuyện đó.”
“Cháu biết đấy, em bị bệnh bạch cầu. Ung thư máu.”
Tibby gật đầu lần nữa. Có vẻ như nói như thế rất ảm đạm. “Bệnh đó chữa được phải không cô? Trẻ con mắc b nh đó sẽ đỡ chứ?”
Đầu cô Graffman có vẻ nghiêng về một bên như quá nặng. “Bailey được chẩn đoán mắc bệnh này khi em mới bảy tuổi. Năm ngoái em đã trải qua tám vòng hóa trị liệu, chiếu tia và cấy tủy xương. Phần lớn thời gian trong đời Bailey sống trong một trung tâm chữa trị ở Houston, Texas.” Cô khẽ thở ra và sau đó tiếp tục. “Dù chúng tôi có làm gì đi nữa, bệnh vẫn tái phát.”
Tibby lạnh đến nỗi răng va vào nhau lập cập. Tất cả lông trên tay nó dựng đứng lên. “Chắc là có những cách chữa trị khác mà họ có thể thử đúng không cô? Có không cô?” Giọng Tibby trở nên to hơn và thô lỗ hơn ý định của nó.
Mẹ của Bailey nhún vai với đôi vai gầy nhỏ. “Chúng tôi muốn cho em một vài tháng sống như một đứa trẻ bình thường.”
“Cô đang nói cô sẽ để em ấy chết à?” Tibby hỏi gặng.
Cô Graffman chớp mắt vài lần. “Gia đình cô không biết... phải làm gì nữa,” cô nói, giọng khàn khàn. “Bailey bị rất nặng. Nhà cô cầu nguyện cho cơ thể em có đủ sức để chống lại căn bệnh đó.” Cô nhìn lên qua đôi mắt giàn giụa nước và sưng húp. “Cô lo lắm. Cháu cần phải biết điều đó.”
Bỗng nhiên ngực Tibby đau nhói. Nó không thở được. Tim nó dường như nhảy loạn lên không theo nhịp nào.
“Bailey rất ngưỡng mộ cháu,” cô Graffman nói tiếp. Những nếp nhăn dọc theo khóe miệng cô trễ xuống. “Cháu đã khiến hai tháng qua trở thành khoảng thời gian đặc biệt nhất trong đời em. Bố em và cô thật sự rất cảm kích trước những gì cháu đã làm.”
“Cháu phải đi thôi,” Tibby thì thầm. Tim nó sắp nổ tung và chính nó cũng sắp chết, và nó không muốn chết trong bệnh viện.
Một buổi sớm tháng Tám, Lena lặng lẽ ăn sáng với Bapi, sau đó thu xếp đồ vẽ và trèo lên ngọn đồi. Nó sẽ quay lại với rặng ôliu của nó. Không. Rặng ôliu của anh ấy.
Khi đến nơi, nó thấy màu sắc cảnh vật đã thay đổi từ tháng Sáu. Có thêm nhiều màu vàng trên cỏ hơn, nhiều loài hoa dại hơn. Những quả ôliu trên cây đã to hơn - bây giờ chúng đã sắp chín rồi. Gió mạnh hơn. Gió meltimi, như bà nội nó gọi.
Có lẽ nó đã hy vọng được gặp anh ở đó; nó không chắc lắm. Nhưng việc vẽ đã khiến nó không nghĩ đến việc gì khác. Hàng tiếng đồng hồ, nó say sưa tập trung trộn màu và vẽ và nheo mắt nhìn và lại vẽ. Nếu mặt trời quá nóng, nó cũng không nhận biết được. Nếu tay chân quá mỏi, nó cũng không cảm thấy được.
Khi bóng râm trên tranh đã quá lớn, nó quay lại với cuộc sống bình thường. Lúc này nó nhìn bức tranh của mình qua đôi mắt phê phán và thực tế. Nếu không phải là nó thì nó sẽ mỉm cười, nhưng vì nó chính là nó nên nó chỉ cảm thấy nụ cười đó thôi.
Bây giờ nó biết bức tranh này để làm gì. Nó sẽ tặng bức tranh này, bức tranh đẹp nhất của nó, cho Kostos.
Nó tuyệt vọng vì không đủ dũng cảm nói cho anh biết nó cảm thấy gì. Nó hy vọng bức tranh này sẽ kể với anh, bằng ngôn ngữ của Lena, rằng nó nhận thấy đó là một nơi đặc biệt của anh, và rằng nó rất tiếc.
Tibby gọi đến cửa hàng Wallman xin nghỉ ốm. Nó bị chuột rút ở chân. Nó bị đau ở mắt. Cái lỗ khuyên ở mũi nó bị nhiễm trùng. Nó chỉ muốn đi ngủ.
Nó không muốn đi làm và để Bailey ở bệnh viện. Nó thậm chí không muốn quên dù chỉ một giây phút và phải nhớ lại khi Bailey đã không đến lúc 4h. Việc quên và phải nhớ lại luôn luôn là phần tồi tệ nhất.
Nó nhìn đầy mong mỏi vào chiếc lồng thủy tinh của Mimi. Mimi có vẻ ngủ nhiều hơn bình thường. Nó thậm chí còn không động đến đồ ăn. Mimi sống rất chậm rãi, ấy thế mà vòng đời của nó còn quay nhanh hơn vòng đời của Tibby. Tại sao thế? Tibby mong đợi nó sẽ tiếp tục như thế.
Tibby đi ra và chạm vào chiếc lồng thủy tinh. Nó cảm thấy một sự thất vọng to lớn đến không ngờ khi Mimi có thể ngáy ngủ bất chấp nỗi đau buồn này. Nó vươn tay vào lồng và chạm vào cái bụng mềm của Mimi bằng ngón tay trỏ.
Có gì đó không ổn. Mimi không ổn. Nó không ấm. Nó chỉ lạnh bằng nhiệt độ căn phòng. Hoảng hốt, Tibby túm chặt lấy con chuột. Mimi nằm sóng sượt trên tay Tibby. Nó thậm chí không xù lông lên. “Mimi, thôi nào,” Tibby muốn phát khóc vì giục giã, cứ như Mimi đang chơi một trò đùa chuột lang ngu ngốc nào đấy. “Dậy đi chứ.”
Tibby túm chặt và giơ cao con chuột bằng một tay. Mimi ghét như thế. Nó thường cào những móng sắc vào cổ tay Tibby.
Dần dần Tibby nhận ra đây không phải là Mimi nữa. Đây chỉ còn là cái xác của Mimi thôi.
Đâu đó trong đầu nó có một bức tường được dựng lên, một bức tường ngăn cách mọi suy xét xa hơn về những gì đã xảy ra ở đây. Suy nghĩ của Tibby gắn chặt với một khu vực nhỏ trong não bị bỏ quên. Có vẻ như đó là những mệnh lệnh từ một tháp chỉ huy nào đó chứ không phải là suy nghĩ thật sự.
Đặt Mimi lại vào lồng. Không, đừng. Có lẽ nó sẽ bắt đầu có mùi. Mang nó ra sân sau.
Không thể nào. Tibby nổi giận với tháp chỉ huy. Nó sẽ không làm điều đó.
Liệu có nên gọi điện cho mẹ ở chỗ làm không? Liệu có nên gọi điện cho bác sỹ thú y không? Không, nó biết bọn họ sẽ nói gì rồi.
Nó có một ý khác. Nó đi xuống nhà. Có lẽ đây là lần duy nhất trong đời căn nhà lại yên tĩnh thế này. Không nghĩ gì nhiều hơn việc cần phải làm, nó đặt Mimi vào một cái túi nâu, buộc túm đầu lại cho kín và để vào tủ lạnh.
Bỗng dưng Tibby hình dung ra cảnh tượng khủng khiếp, Loretta đang rã đông Mimi và cho lên một cái chảo nướng. Tibby mở cánh cửa tủ lạnh ra và giấu Mimi sau phần còn lại đã đông cứng của chiếc bánh Thánh của Katherine, chiếc bánh mà không ai ăn hay vứt đi.
Ở đó. Ổn rồi. Mimi đã không... thế nào cũng được. Nó sẽ đông cứng lại. Có công nghệ nào đó cho việc này. Có một ngành khoa học nào đó. Tib by chắc chắn thế. Có lẽ sẽ phải mất một thập kỷ để hoàn thiện ngành khoa học này, nhưng Tibby sẽ không mất kiên nhẫn về việc đó. Có thời gian mà.
Lên trên gác nó đổ sụp xuống giường. Nó lấy một chiếc bút và một cuốn sổ trên bàn ngủ đầu giường để viết một bức thư cho Carmen hoặc Bee hoặc Lena, nhưng nó nhận ra rằng mình chẳng có gì để nói.
Carmen thân,
Ngày nào ở Hy Lạp tớ cũng ăn sáng với ông nội, mà tớ và ông chẳng hề nói gì với nhau. Thế có kỳ lạ không? Liệu ông có nghĩ tớ là đồ lập dị không nhỉ? Tớ thề ngày mai tớ sẽ học ít nhất ba câu tiếng Hy Lạp và nói chúng. Tớ cảm thấy như là một thất bại nếu mùa hè qua mà tớ và ông vẫn không nói câu nào với nhau.
Khi bọn tớ quay lại, cậu có nghĩ cậu có thể chỉ cho tớ một vài bí quyết để làm một người bình thường không? Tớ có vẻ không biết bí quyết nào.
Yêu cậu,
Lena
Thoải mái và thư giãn, Carmen lăn ra giường và để mẹ xoa lưng.
“Con yêu của mẹ,” Christina lẩm bẩm.
“Con đã cáu với bố,” Carmen tuyên bố, một nửa người trong chăn.
“Dĩ nhiên con đã làm thế.”
Carmen hơi nhỏm dậy. “Tại sao con lại khó có thể nói ra như thế? Con cáu với mẹ chẳng có vấn đề gì cả.”
“Mẹ biết.”
Mẹ Carmen im lặng một lúc, nhưng Carmen biết bà có gì đó muốn nói.
“Con có nghĩ rằng người ta sẽ dễ dàng cáu với những người họ tin tưởng không?” mẹ nó hỏi rất nhẹ nhàng.
Con tin bố chứ. Carmen sắp sửa nói ra như thế mà không nghĩ gì cả. Sau đó nó bắt đầu nghĩ. “Tại sao lại thế?”
“Bởi vì con tin rằng dù con làm thế người ta vẫn yêu thương con.”
“Bố yêu con,” nó nói rất nhanh.
“Đúng,” mẹ nó đồng ý. Bà chờ thêm một lúc, nhưng với một cái nhìn đầy ngụ ý trong mắt. Bà nằm xuống bên cạnh Carmen trên giường. Bà thở một hơi dài trước khi tiếp tục.
“Mọi sự đã rất khó khăn với con khi bố đi.”
“Đúng vậy ư?” Carmen nhớ lại mình hồi còn bảy tuổi, bắt chước lại những gì bố nói với nó khi có ai đó hỏi. “Bố phải đi làm việc. Nhưng chúng tôi vẫn sẽ gặp nhau nhiều như thường. Đó là điều tốt đẹp nhất cho tất cả chúng tôi.” Nó có thật sự tin những thứ như thế không? Tại sao nó lại nói như thế?
“Con từng tỉnh dậy giữa đêm và hỏi mẹ rằng bố có biết con rất buồn không?”
Carmen cuộn tròn sang một bên và để tay lên cằm. “Mẹ có nghĩ bố biết không?”
Christina dừng lại. “Mẹ nghĩ bố đã tự nhủ rằng con đã ổn.” Bà lại im lặng. “Đôi khi người ta sẽ tự nhủ những điều mà người ta cần nghe.”
“Tibby, ăn tối thôi!” Đó là giọng bố nó. Ông đã về nhà.
Trời lạnh khủng khiếp. Tibby run lên trong cái áo sơ mi và quần ngủ. Hẳn là bố nó đã bật máy điều hòa lên. Mặc dù bố mẹ nó đã lắp máy điều hòa trong nhà, họ để cho căn nhà kín mít trong khoảng bốn đến năm tháng một năm.
“Tibby?”
Cuối cùng thì nó nhận ra rằng nó sẽ phải trả lời bố.
“Tibby ơi!”
Nó mở hé cửa ra. “Con ăn rồi,” nó nói qua khe cửa.
“Tại sao con không xuống ăn với bố mẹ nhỉ,” bố gọi. Bố nói cứ như thể một lời gợi ý, vì thế nó cho là nó có thể phớt lờ lời mời này. Nó đóng cửa phòng lại. Nó biết rằng chỉ vài giây nữa, Nicky sẽ bắt đầu ném các hạt đậu và Katherine bắt đầu trớ - em bé mắc chứng trớ của trẻ sơ sinh - và bố mẹ sẽ quên ngay Tibby, cô gái tuổi vị thành niên ủ rũ này.
Nó chạm tay vào tóc. Chỉ da đầu mới không bị nhờn thôi. Tóc thì nhờn từ ngọn đến chân. Nó sẽ để lại một vết loang trên vỏ gối.
“Tibby, con yêu?” Vẫn là bố nó. Ông không dễ dàng bỏ cuộc.
“Con sẽ xuống ăn tráng miệng!” nó gào lên. Nếu nó gặp may thì đến lúc đó bố sẽ quên mất.
Lúc đó là 7h. Nó có thể xem các trò chơi trên TV cho đến khi chương trình WB bắt đầu. Sau đó chương trình này sẽ kéo dài đến 10h. Không như những chương trình lấp chỗ trống khác, nó biết chương trình WB chẳng liên quan gì đến đời sống thật cả. Có hàng tiếng đồng hồ phim tư liệu hoành tráng trên kênh VH1 về những ban nhạc Rock đã chết vì dùng thuốc quá liều từ trước khi nó sinh ra. Những thứ đó sẽ ru nó ngủ tốt.
Điện thoại reo. Lần đầu tiên mẹ Tibby có bầu, Tibby đã đã có đường điện thoại riêng. Lần thứ hai, Tibby có TV riêng. Khi điện thoại ở đây reo, nó sẽ biết đó là điện thoại của nó. Nó bò vào sâu hơn trong lớp vỏ trú ẩn của mình.
Những lần bạn ở trong bếp và muốn Carmen gọi lại, chiếc máy trả lời tự động sẽ tự động chạy sau ba giây. Vậy mà khi bạn chỉ cách chiếc máy độ vài mét, nó kêu hàng tiếng liền mà không được trả lời. Cuối cùng thì máy trả lời tự động cũng hoạt động.
“Chào Tibby? Bailey đây.”
Tibby cứng người lại. Nó rúm người tránh chiếc điện thoại.
“Số của em là 555-4648. Gọi cho em nhé.”
Tibby run rẩy dưới lớp chăn. Nó tập trung vào đoạn quảng cáo trên TV. Nó muốn ngủ thiếp đi.
Nó nghĩ đến Mimi ở dưới nhà, đang đông cứng trong chiếc hộp nhỏ và nó ở đây, đang đông cứng trong chiếc hộp to của nó.
Bridget phải mất một lúc lâu mới mặc quần áo xong để chuẩn bị cho trận đấu. Các cô gái khác trang trí áo phông của họ với những hình hoa lá bánh taco. Đó là những thứ mà Bridget hẳn sẽ rất thích nếu nó không kiệt sức.
Cả hai đội đều có những dây băng giấy trang trí treo trên cầu môn. Có một chi ếc bàn đầy những dưa ở bên cạnh sân đấu.
Dây giày của nó có vẻ lỏng. Bridget biết nó đã sụt cân. Quá trình trao đổi chất của nó cần ăn uống thường xuyên. Nhưng chân mà cũng có thể sụt cân ư?
“Bridget, em đã ở đâu?” Molly hỏi. Brdiget biết sáng nay đã có một số những lời chỉ trích không chính thức.
“Nghỉ ngơi để chuẩn bị cho trận đấu quan trọng,” Bridget nói.
Molly đã không đủ nhạy cảm để có thể cảm thấy gì đó khác, và Bridget không muốn chị ta làm thế.
“Thôi được rồi, nào đội Tacos,” Molly nói. “Chúng ta sẽ có một trận gay go đây. Los Cocos đang tập dượt. Như các em thấy hôm qua, họ đều rất phấn chấn. Chúng ta sẽ phải cố hết sức để thắng trận này.”
Bridget có một lưu ý trong đầu rằng đừng bao giờ nói “hãy cố hết sức.”
Molly quay sang nó, mặt chị tràn đầy sự thông cảm. “Em sẵn sàng chưa Bee? Em hãy làm việc của mình. Hôm nay tất cả các em hãy cố gắng nhé.”
Toàn đội, trừ nó, đều reo hò hưởng ứng. Bridget chỉ đứng đó. Nó bị kẹt trong hàng hậu vệ. Bị kẹt trong cầu môn. Hét lên khi nó rê bóng ra hơn hai mét. “Em không biết liệu em còn nhớ không,” nó nói.
Ngay từ giây phút đầu tiên, Bridget đã rất chậm. Nó không cả quyết. Nó không chạy sau trái bóng. Khi bóng đến chân nó, nó chỉ đá đi. Điều đó khiến đội của nó bối rối và bơ phờ. Họ đã quen với việc xây dựng mọi thứ dựa trên sự sôi động của nó. Los Cocos ghi được hai bàn chỉ trong năm phút đầu.
Molly ra dấu cho trọng tài nghỉ hội ý. Chị nhìn Bridget cứ như thể một người lạ. “Nào Bridget. Chơi đi chứ! Có vấn đề gì với em vậy?”
Lúc đó Bridget thật sự ghét Molly khủng khiếp. Chị ta sẽ không bao giờ vĩ đại với quyền hành được. “Chị đã lãng phí tôi khi tôi chơi tốt. Ngay bây giờ thì tôi không phong độ nữa. Xin lỗi.”
Molly điên lên. “Em đang trừng phạt tôi đấy à?”
“Chị đã trừng phạt tôi phải không?”
“Tôi là huấn luyện viên, nghe rõ chưa! Tôi chỉ cố gắng biến em từ một người khoe khoang thành người chơi bóng thực thụ thôi!”
“Tôi là một người chơi bóng thực thụ,” Bridget nói, và đi khỏi sân bóng.
Trước tiên Tibby mang chiếc hộp bánh rán Entenmann lên, sau đó những mẩu vụn bánh rán khiến nó nhớ đến những viên ruột bánh mì cho con chuột, vì thế nó chạy xuống bếp và giấu chúng phía sau tủ bát đĩa.
Sau đó nó nghĩ đến kem, nhưng lại không muốn đi đến chỗ có kem. Thay vào đó nó lấy một hộp bánh hoa quả khủng long - món ăn ưa thích của Nicky - và mang lên gác. Mắt nó dính chặt vào chương trình Ricki Lake và nó nhai một cách có hệ thống tám gói kẹo gôm khủng long, vứt tám gói giấy ra sàn nhà.
Khi xem đến chương trình Jerry Springer nó uống hai lít bia gừng. Sau đó nó tiếp tục với Technicolor. Sau đó nó xem mạng lưới mua sắm một lúc.
Ba phần tư thời lượng phát sóng chương trình Oprah đã qua, điện thoại của nó lại reo. Tibby bật to tiếng TV lên. Nó ghét phải bỏ lỡ dù chỉ một từ. Oprah thật hết sức thông cảm.
Cố gắng tránh né, Tibby vẫn có thể nghe thấy giọng nói trong chiếc máy trả lời tự động: “Ừ Tibby. Cô là Robin Graffman, mẹ của Bailey.” Dừng một lúc lâu. “Cháu có nghĩ mình có thể gọi điện hay chạy qua một lúc không? Số của chúng tôi là 555-4648. Phòng 448. Tầng 4, rẽ trái khi ra khỏi thang máy. Bailey sẽ rất vui khi gặp cháu.”
Tibby cảm thấy cơn đau lại dâng lên trong ngực. Tim nó không ổn. Nỗi đau bùng nổ trong thái dương. Nó đang bị đau tim và phình mạch máu não cùng một lúc.
Nó nhìn lồng của Mimi. Nó muốn cuộn tròn trong đống vỏ bào mềm mại đó và hít thở mùi chuột lang mằn mặn của Mimi và ngủ đến khi chết. Có vẻ không khó khăn lắm.
Carmen bấm số. Nó gần như gác máy khi nghe tiếng một phụ nữ trả lời, nhưng nó đã không gác máy. “Cô Lydia, cháu Carmen đây ạ. Cháu có thể nói chuyện với bố cháu được không?”
“Dĩ nhiên,” Lydia nói vội vàng. Liệu Carmen có nghiêm túc nghĩ rằng Lydia sẽ đem lại điều gì đó không vui không?
Giọng bố nó trong máy rất nhanh. “Xin chào,” nó nghe cả sự nhẹ nhõm và lo ngại trong giọng bố.
“Bố ơi. Con Carmen đây.”
“Bố biết. Bố rất vui khi con gọi.” Nghe giọng bố gần như có vẻ là bố thực sự vui. “Bố đã nhận được bưu phẩm, bố đánh giá suy nghĩ của con rất cao.”
“Ồ... tốt,” Carmen nói. Nó cảm thấy chính mình đang bị lôi kéo vào một vùng dễ chịu. Nó có thể xin lỗi. Bố sẽ hiểu mà. Trong chưa tới hai phút tất cả sẽ lại tỏa sáng như cũ. Cuộc sống sẽ tiếp tục.
Nó phải tiếp tục chiến đấu. “Bố, con cần nói cho bố nghe một chuyện.”
Nó cảm thấy áp lực không lời từ phía ông rằng đừng nói. Hoặc đó chính là áp lực của nó? “Được thôi.”
Nào nói đi nói nói nói, nó tự ra lệnh. Đừng có nhìn lại. “Con đã cáu bố,” nó nói với một vẻ hơi đứt quãng. Nó rất mừng là bố đã im lặng.
Nó lấy hơi và bấm sâu vào vùng da quanh ngón tay cái. “Con đã rất... thất vọng, bố biết đấy. Con nghĩ chúng ta sẽ ở cùng nhau mùa hè, chỉ bố và con thôi. Con thật sự đã ước gì bố nói cho con biết trước về việc bố đã ở cùng với gia đình cô Lydia.” Giọng nó nghe thật run rẩy và thô.
“Carmen, bố... xin lỗi. Bố ước gì đã nói cho con biết trước. Đó là lỗi của bố. Bố rất xin lỗi.”
Ông kết thúc với một giọng như để kết thúc vấn đề. Bố lại kết thúc mọi việc rồi. Làm chai vết thương trước khi có thêm chỗ chảy máu nào khác.
Nó không hợp tác với ông đâu. “Con chưa nói xong,” nó tuyên bố. Ông im lặng.
Nó cho mình nghĩ vài giây để cho giọng hết run. “Bố đã tìm cho mình một gia đình mới, và con không thật sự thích hợp với gia đình ấy.” Giọng nó trở nên cao hơn và khó nghe. “Bố đã có cho riêng mình một gia đình mới với những đứa trẻ mới... V...vậy còn con?” Bây giờ nó đã hoàn toàn trật khỏi đường ray và lao đi rất nhanh. Các cảm xúc mà nó chưa từng nhận ra rằng nó có đang bay vèo qua. “Có vấn đề gì với con và mẹ nào?” Giọng nó vỡ nửa chừng một cách đau đớn. Nước mắt rơi lã chã. Nó thậm chí cũng không quan tâm liệu ông có còn nghe nó nói hay không, nó chỉ cần phải nói thôi.
“Tại sao gia đình cũ của bố không đủ tốt? Tại sao bố lại dọn đi? Tại sao bố lại hứa với con... chúng ta sẽ lại gần gũi hơn bao giờ hết?” Nó ngừng lại nửa chừng vì không thở được. “T...tại sao bố vẫn nói rằng chúng ta sẽ gần gũi, mặc dù điều đó là không đúng?” Bây giờ thì nó đang hết sức thổn thức. Những câu của nó lên xuống theo nhịp tiếng khóc. Nó nghĩ không hiểu bố thậm chí có hiểu nó đang nói gì không.
“Tại sao Paul đi thăm người cha say xỉn của anh ta hàng tháng, còn bố thì thăm con hai hay ba lần mỗi năm? Con đã không làm gì sai trái, đúng không?”
Nó dừng lại không nói gì một lúc, chỉ khóc, có lẽ khá lâu; nó không chắc lắm. Cuối cùng thì nó yên lặng hơn. Liệu bố còn ở đó không?
Khi nó áp ống nghe vào sát tai và lắng nghe, nó nghe thấy một âm thanh bị nghẹn lại. Tiếng thở. Không khô, hơi ẩm ướt.
“Carmen, bố xin lỗi,” ông nói. “Bố rất xin lỗi.”
Nó cho rằng nó tin ông, vì nó nhận ra lần đầu tiên trong đời, ông cũng đang khóc.
Buổi chiều hôm sau, Tibby đang chìm sâu vào giấc ngủ thì một tiếng gõ cửa vang lên. “Đi đi!” nó gào lên. Có thể là ai nhỉ? Bố mẹ nó đều đang ở chỗ làm, và Tibby sợ rằng Loretta sẽ thành công trong việc giữ nó ở xa mãi mãi.
“Tibby?”
“Đi đi,” nó lại nói.
Cánh cửa mở hé ra. Cái đầu của Carmen xuất hiện. Khi nhận ra vẻ ngoài kinh khủng của Tibby và hàng đống giấy rác trên sàn nhà và giường, mặt Carmen trở nên lo lắng.
“Tibby, đang xảy ra chuyện gì thế?” nó hỏi với một giọng nhẹ nhàng. “Cậu ổn không?”
“Tớ bình thường,” Tibby cáu kỉnh đáp lại, vùi sâu hơn vào đống chăn phủ. “Làm ơn đi đi.” Nó lại bật tiếng TV to lên. Oprah lại trở lại sau một phần quảng cáo ngắn.
“Cậu đang xem cái gì thế?” Carmen hỏi.
Với cái bóng đang đổ xuống, chẳng có gì nhiều để có thể nhìn ngoài chiếc TV và hàng đống lộn xộn.
“Chương trình của Oprah. Bà ấy rất là thông cảm, cậu biết mà,” Tibby trả lời nhát gừng.
Carmen đi qua đống lộn xộn và ngồi lên giường Tibby. Đó là bằng chứng cho thấy sự quan tâm, vì Carmen ghét tất cả những mớ lộn xộn không do chính nó gây ra. “Tibby này, hãy nói cho tớ biết điều gì đang xảy ra. Cậu làm tớ sợ.”
“Tớ không muốn nói chuyện.” Tibby lạnh lùng nói. “Tớ muốn cậu đi đi.”
Điện thoại lại reo nữa. Tibby nhìn cứ như thể đó là một con rắn. “Đừng có chạm vào,” nó ra lệnh.
Beep, đó là chiếc máy trả lời tự động. Bỗng nhiên Tibby điên cuồng tìm kiếm phần chỉnh âm thanh. Nó làm rơi hết các thứ lên trên thảm.
Giọng nói trong máy trả lời vẫn xuất hiện rất to và rõ. “Tibby. Cô là mẹ của Bailey đây. Cô muốn cháu biết điều gì đang xảy ra ở đây. Bailey không ổn lắm. Nó bị nhiễm trùng và...” Tibby có thể nghe tiếng cô nấc lên trong không khí. Phổi cô ấy nghe như toàn nước. “Nhà cô... nhà cô rất muốn cháu đến với em. Sẽ rất có ý nghĩa với Bailey.” Cô thổn thức một lúc và sau đó gác máy.
Tibby không thể nhìn Carmen. Nó không muốn nhìn cái gì cả. Nó có thể cảm thấy đôi mắt Carmen đang đào xới từng rãnh nhỏ trong đầu nó. Nó cảm thấy vòng tay của Carmen quanh vai nó. Tibby quay đi. Một loạt những giọt nước mắt bắt đầu lơ lửng nơi mí mắt nó.
“Làm ơn đi đi,” giọng Tibby run run.
Carmen, đúng là Carmen, hôn bên đầu của Tibby và đứng lên đi ra.
“Cảm ơn,” Tibby thì thầm đằng sau Carmen.
Không may là Carmen, vẫn đúng là Carmen, đã quay lại phòng Tibby khoảng một tiếng sau mà không được mời. Lần này thậm chí còn không gõ cửa. Chỉ xuất hiện bất thình lình.
“Tibby, cậu cần đi gặp con bé,” Carmen nói nhẹ nhàng, bay lượn mờ ảo ở bên cạnh giường trong cơn nửa tỉnh nửa mê của Tibby.
“Cậu đi đi,” Tibby chếnh choáng ra lệnh. “Tớ không động đậy được.”
Carmen thở dài một hơi. “Cậu có thể chứ. Tớ mang cho cậu Cái quần đây.” Nó đặt cái quần xuống phía dưới chân Tibby. Đó là nơi duy nhất trong phòng không bị sự lộn xộn chiếm mất. “Mặc vào và đi đi.”
“Không,” Tibby nói giọng khó chịu.
Carmen biến mất phía ngoài cửa.
Tibby lẩm bẩm và run rẩy. Carmen không hiểu rằng tim nó không làm việc và não nó đang phình động mạch và cái lỗ khuyên mũi nó bị nhiễm trùng sao?
Nó thiếp đi trong một cơn ngủ uể oải hàng giờ liền và tỉnh dậy thấy Cái quần trong ánh sáng lờ mờ của chương trình The Tonight Show with Jay Leno. Cái quần cho nó biết rằng nó là một con người kinh khủng, và cái quần nói đúng. Nó lại vùi sâu trong chăn, cảm thấy sức nặng của cái quần lên chân và mắt cá. Có vẻ như nặng đến gần chục cân. Ai có thể đi được với cái quần nặng như thế chứ? “Hãy tự làm cho mình ngạc nhiên đi,” Jay Leno nói với nó. Nó trừng trừng nhìn ông ta. Ông ta đâu có nói thế nhỉ.
Nó nhảy ra khỏi giường, sợ hãi, trái tim loạn nhịp lại nhảy nhót. Nếu không kịp nữa thì sao? Nếu em ấy đã đi rồi thì sao?
Nó cởi quần ngủ ra và mặc Cái quần vào. Nó nhét chân vào một đôi tất len. Tóc nó bẩn đến độ rối tinh lên khỏi chi c bờm giữ tóc.
Nó nhận ra ngay rằng nó đang ở trên đường vào khoảng gần nửa đêm và vẫn đang mặc áo ngủ. Ai ở bệnh viện sẽ cho nó gặp Bailey vào lúc gần nửa đêm thế này? Có phải 8h là hết giờ thăm bệnh nhân không nhỉ?
Nó quay lại theo lối cũ và lấy chiếc xe đạp từ gara mở cửa. Nó không có nhiều thời gian. Bailey sợ thời gian.
Nó phi như điên qua phố. Đèn giao thông trên đại lộ Wisconsin đang bật đèn vàng.
Lối vào thông thường của bệnh viện gần như tối đen, nhưng lối vào cấp cứu còn sáng. Tibby bước vào và đi qua một số người khốn khổ đang ngồi trên ghế nhựa. Kể cả những ca cấp cứu cũng trở nên buồn chán sau khi người ta đã chờ đến hàng tiếng ở nơi này.
May thay người phụ nữ ở bàn lễ tân đang nghiêng sang một bên. Tibby đi qua ngay. Nó tìm một chiếc thang máy.
“Cô có thể giúp gì được cháu?” một y tá đi ngang qua hỏi.
“Cháu, ừm, cháu đang đi tìm, ừm, mẹ cháu,” Tibby nói dối rất dở. Nó tiếp tục đi. Người y tá không đi theo nó. Nó đi đường cầu thang cứu hỏa lên tầng chính, đứng trên chiếu nghỉ cầu thang cho đến khi không còn ai xung quanh, sau đó quay lại thang máy.
Có một bác sĩ trông rất mệt mỏi trong thang máy. Tibby vắt óc nghĩ xem có lý do nào hợp lý cho mình không, cho đến khi nó nhận ra rằng ông bác sỹ chẳng chú ý xem nó đang làm gì. Rõ ràng ông có nhiều thứ để nghĩ hơn là an ninh bệnh viện.
Nó dừng lại ở tầng bốn và ngay lập tức cúi xuống tìm cửa. Tầng này rất yên tĩnh. Khu tiếp tân ở bên trái, nhưng một cái biển cho thấy phòng 448 ở bên phải. Có một khu dành cho y tá ở xa hơn phòng đợi bên phải. Nó gần như không thở được khi di chuyển dọc bức tường như một con nhện. Lạy trời, phòng 448 rất gần. Cánh cửa hé mở. Nó lẻn vào trong.
Nó đứng trân trân trong phòng để quần áo. Từ đó nó có thể nhìn thấy Jay Leno trên chiếc TV gắn trên trần nhà đang nói trong im lặng. Nó có thể thấy không có vị phụ huynh nào trong những chiếc ghế gần cửa sổ. Nó cần phải đi vào.
Nó đã sợ rằng nó sẽ nhìn thấy một Bailey khác, một cái vỏ của Bailey. Nhưng cô bé đang ngủ trên giường kia chính là cô bé nó biết. Chỉ có điều trên cổ tay và mũi cô bé có các ống dẫn. Tibby nghe thấy tiếng thở nhẹ từ cổ họng mình. Có những cảm xúc đang dồn dập mà nó có thể kìm lại.
Bailey trông thật nhỏ bé dưới lớp chăn. Tibby nhìn thấy động mạch phập phồng nơi cổ cô bé. Nhẹ nhàng Tibby nắm lấy tay Bailey. Cứ như là làm bằng xương chim vậy. “Chào Bailey, chị đây,” nó thì thầm. “Cô gái từ cửa hàng Wallman.”
Bailey nhỏ bé đến độ vẫn còn chỗ cho Tibby ngồi trên giường ngay cạnh. Mắt Bailey vẫn nhắm. Tibby để tay Bailey lên ngực mình và giữ ở đó. Khi mí mắt nó bắt đầu rũ xuống, nó rón rén nằm lùi lại phía sau, đặt đầu lên gối cạnh đầu Bailey. Nó cảm thấy những sợi tóc mềm mại của Bailey cọ vào má. Nước mắt bắt đầu chảy từ mắt nó xuống tai và vào tóc Bailey. Nó hy vọng như thế sẽ không sao.
Nó sẽ vẫn cứ ở đó nắm tay Bailey mãi, để Bailey khỏi sợ rằng sẽ không đủ thời gian.
Đêm đó là đêm tổ chức lễ Koimisis tis Theotokou, Lễ Đức mẹ Lên trời. Đó là kỳ nghỉ chính thống sau Lễ Phục sinh. Cả Lena và Effie đều đi cùng ông bà đến ngôi nhà thờ nhỏ, giản dị và đáng yêu để tham dự buổi lễ. Sau đó là một buổi diễu hành nhỏ, và rồi cả thị trấn bận rộn tiệc tùng.
Bà nội tham gia nhóm phụ trách món tráng miệng, vì thế bà và Effie làm hàng tá khay bánh baklava với những hạt dẻ ngon lành đắp nổi. Bà đã liên tục huấn luyện Effie các mục này vì mùa hè sắp hết.
Lena có một ly rượu vang đỏ mạnh và có vị sốc, và rượu khiến nó cảm thấy mệt và buồn bã. Nó lên phòng và ngồi cạnh cửa sổ trong bóng tối, nơi nó có thể quan sát bữa tiệc từ xa. Đó là cách nó thưởng thức một bữa tiệc.
Ở phía dưới kia, trong trung tâm mua bán nhỏ cách nhà Kostos không xa, sau hoàng hôn bữa tiệc càng trở nên ồn ào. Các ông uống hàng lít rượu ouzo và trở nên hết sức cởi mở khi nhạc bắt đầu chơi. Ngay cả Bapi cũng cười một nụ cười rất tươi và buồn cười.
Effie tự lấy cho mình vài ly rượu vang. Ở Hy Lạp không có quy định chính thức nào về tuổi được phép uống rượu. Thực tế là ông bà đã ép Lena và Effie uống chút rượu vang vào những dịp đặc biệt, điều này có lẽ khiến Effie giảm bớt hứng thú với việc uống rượu hơn bình thường. Tuy nhiên đêm nay Effie mặt khá đỏ và khá hồ hởi. Lena nhìn em gái nhảy một vài điệu với Andreas - anh chàng bồi bàn và sau đó lẩn vào một ngõ nhỏ với anh ta. Lena không lo lắng. Effie uống kha khá, nhưng dù có thế thì đấy cũng là người tỉnh táo nhất mà Lena biết. Effie tôn thờ các cậu trai, nhưng ngay từ tuổi mười bốn, nó vẫn sẽ không từ bỏ chính mình vì họ.
Đêm nay Oia có hai vầng trăng tròn sáng như nhau, một trên trời và một dưới biển. Nếu Lena không biết rõ thì có lẽ sẽ nhầm lẫn không biết đâu là trăng thật mất.
Dưới ánh trăng, nó nhìn thấy khuôn mặt của Kostos. Anh không có vẻ chú ý đến sự vắng mặt của Lena hay quan tâm đến điều đó. Nó cảm thấy chắc chắn như vậy.
Em ước gì anh có quan tâm, Lena nói với anh theo kiểu thần giao cách cảm, và sau đó lại muốn rút lại câu ấy.
Nó nhìn thấy anh tiến lại gần bà nội nó. Kiễng chân lên, bà Valia ôm và hôn anh nồng nhiệt. Lena nghĩ thầm không biết bà có làm anh ngạt thở không. Kostos trông rất vui vẻ. Anh thì thầm điều gì đó vào tai bà Valia khiến bà mỉm cười. Và họ bắt đầu khiêu vũ.
Những đợt pháo hoa nhỏ bắt đầu bắn lên bầu trời. Theo một cách nào đó thì đó là màn trình diễn pháo hoa tuyệt vời nhất, Lena khẳng định với một chút rùng mình. Không giống như pháo hoa rất đa dạng ở công viên Disney, pháo hoa tự chế này có một vẻ nguyên sơ êm ái nào đó mà bạn có thể cảm nhận thấy. Chúng cho thấy nỗ lực và sự nguy hiểm, trong khi màn trình diễn bắn pháo hoa hoành tráng ở thành thị không thể thể hiện những điều đó.
Kostos xoay bà nội vòng vòng. Bà cười lớn, vẫn giữ được thăng bằng. Anh kết thúc điệu nhảy bằng một cú xoay ngoạn mục, nghiêng người bà ra phía sau. Lena chưa bao giờ nhìn thấy bà nội vui như thế.
Lena nghiên cứu kỹ gương mặt các cô gái ngồi bên sàn nhảy. Có thể đoán được rằng Kostos là niềm say mê của khá nhiều cô gái trẻ ở Oia, nhưng anh lại nhảy với tất cả các bà cụ, tất cả những người đã nuôi nấng anh, trao cho anh tình yêu thương mà họ đã không thể trao cho con cháu đi vắng xa của họ. Đó là một thực tế đau lòng của cuộc sống ở đảo này, khi tất cả các thế hệ đều phải xây dựng một cuộc sống thực ở những nơi khác.
Lena mặc cho nước mắt lăn xuống cằm và cổ. Nó không biết rõ tại sao nó lại khóc.
Thậm chí sau khi trời đã khuya, khi tiệc đã tàn, Lena cũng vẫn không ngủ được. Nó ngồi bên cửa sổ ngắm trăng. Nó chờ cho cơn gió nhẹ thổi qua làm xao động viền vầng trăng dưới biển. Nó tưởng tượng tất cả những cư dân hạnh phúc của Oia đều đang thiếp đi trong một giấc ngủ sâu say sưa.
Nhưng khi nó nhìn ra phía bên kia cửa sổ, nó nhận ra một đôi khuỷu tay khác ở một cửa sổ phía xa của tầng hai. Đó là đôi khuỷu tay xương xẩu của Bapi. Ông cũng đang ngồi bên cửa sổ ngắm trăng như nó.
Nó mỉm cười, cả trên miệng và trong lòng. Nó đã học được một điều ở Santorini. Nó không giống bố hay mẹ, cũng không giống em gái, nhưng nó giống Bapi - kiêu hãnh, im lặng, lo sợ. May cho ông nội là ông đã tìm thấy sự dũng cảm một lần trong đời để nắm được cơ hội yêu thương từ một người biết cách trao tình yêu thương.
Lena cầu nguyện với hai vầng trăng để nó cũng có được sự dũng cảm như thế.
Lena ngủ thiếp đi vào sáng hôm sau. Thực ra nó đã không ngủ say. Nó nằm hàng giờ trên giường sau khi tỉnh dậy, vì nó không biết nên làm gì với mình. Nó thật thất thường, vừa đầy sinh lực vừa thờ ơ.
Effie kết thúc buổi sáng hôm ấy khi nó lao vào tấn công tủ áo của Lena để tìm cái gì đó. “Chị làm sao thế?” Effie ngoái lại hỏi trong khi lục lọi một cách trơ tráo tủ áo của Lena.
“Chị mệt,” Lena thừa nhận.
Effie trông đầy nghi hoặc.
“Tối qua thế nào em?” Lena hỏi để đánh lạc hướng sự chú ý.
Mắt Effie sáng trưng. “Thật là không thể tin được,” nó hổn hển. “Andreas là người hôn giỏi nhất thế giới. Hôn giỏi hơn bất cứ anh chàng người Mỹ nào.”
“Em nói chuyện đó rồi,” Lena chua chát nhận xét. “Với lại em mới có mười bốn tuổi thôi đấy.”
Bỗng nhiên Effie ngừng lục lọi. Nó hoàn toàn không cử động.
“Cái gì thế?” Lena gặng hỏi. Effie làm nó lo lắng bất cứ khi nào con bé trở nên im lặng.
“Ôi trời ơi,” Effie thở ra.
“Cái gì!” Le 11ff8 na quát.
Nó co rúm lại khi nghe thấy tiếng loạt soạt của giấy và nhìn thấy Effie đang cầm cái gì. Đó là bức tranh nó vẽ Kostos.
“Ôi trời ôi,” Effie lặp lại, lần này chậm hơn. Con bé quay sang Lena, cứ như đang nhìn chị nó qua một đôi mắt mới “Em không thể tin được chị.”
“Cái gì?” vốn từ của Lena có vẻ như chỉ còn có mỗi một từ.
“Em không thể tin được chị.”
“Cái gì?” Lena hét lên lần nữa, ngồi bật dậy.
“Chị yêu anh Kostos,” Effie buộc tội.
“Không, không phải.” Nếu trước đây Lena không biết nó yêu Kostos, thì giờ đây nó đã biết. Vì nó biết nói dối thì như thế nào.
“Chị cũng thế. Và điều đáng buồn là chị quá nhát gan đến độ chẳng biết làm gì, chỉ biết ngồi đó và than khóc.”
Lena lại chìm vào vỏ bọc của mình. Như mọi khi, Effie kết luận về tình trạng tinh thần phức tạp và đau khổ của nó chỉ bằng một câu.
“Thừa nhận đi,” Effie ra lệnh.
Lena sẽ không thừa nhận. Nó khoanh hai tay trước ngực vẻ bướng bỉnh. “Thôi được, thế thì thôi,” Effie nói. “Dù sao thì em cũng biết sự thật là như thế.”
“Ôi, em sai rồi,” Lena nói vẻ rất trẻ con.
Effie ngồi xuống giường. Mặt con bé giờ trông rất nghiêm trọng. “Lena này, chị nghe em nhé? Chúng ta đâu có nhiều thời gian ở đây đâu. Chị đang yêu. Em chưa bao giờ nhìn thấy điều gì như vậy trước đây. Chị cần phải dũng cảm lên, nhé? Chị cần phải gặp và nói cho Kostos nghe chị cảm thấy gì. Em thề với Trời rằng nếu như chị không làm thế, chị sẽ hối hận suốt quãng đời còn lại của chị đấy.”
Lena biết thế. Effie đã đánh trúng trọng tâm một cách hiển nhiên, Lena thậm chí còn chẳng buồn bác lại. “Nhưng Ef này,” nó nói, giọng thể hiện nỗi buồn đau sâu sắc. “Thế nếu anh ấy không thích chị thì sao?”
Effie cân nhắc. Lena chờ đợi, trông đợi, hy vọng sự khẳng định. Nó muốn Effie nói dĩ nhiên Kostos sẽ thích nó. Làm sao lại không cơ chứ? Nhưng Effie không nói thế.
Thay vì vậy con bé nắm tay Lena. “Đó là điều mà em muốn nói khi nhắc đến việc dũng cảm.”
Khi tỉnh dậy vào sáng hôm sau trên giường bệnh viện, Tibby thấy Bailey đang nhìn mình. Cả cô y tá đang mang bữa sáng của Bailey đến cũng vậy. Bailey trông rất vui vẻ. Cô y tá thì trông hơi cáu.
“Hy vọng cháu ngủ ngon,” cô y tá nói, nhìn lên Tibby từ dưới đôi lông mày và cười với nó một nụ cười nửa miệng.
Tibby bật khỏi giường. “Xin lỗi,” nó nói lảo đảo. Nó đã để lại một vệt dãi trên gối Bailey.
Cô y tá lắc đầu. Mặt cô không có vẻ gì là ghê gớm. “Bà Graffman đã khá ngạc nhiên khi thấy cháu ở đây đêm qua,” cô nói với Tibby. “Lần sau cô khuyên cháu nên thử đến vào giờ thăm bệnh theo quy định xem sao.” Cô nhìn từ Tibby sang Bailey. “Cô nghe nói cháu biết quý cô trẻ tuổi này.”
Bailey gật đầu. Cô bé lại nằm yên, nhưng mắt thì rất lanh lợi.
“Cảm ơn,” Tibby nói.
Cô y tá kiểm tra tấm giấy khám ở chân giường Bailey. “Cô sẽ quay lại đây trong vòng vài phút nữa đề phòng cháu cần gì đó.” Cô ra dấu với đôi mắt về phía khay đồ ăn sáng.
“Cháu không cần gì cả,” Bailey nói.
Cô y tá nhìn Tibby một cái sắc lạnh trước khi rời phòng. “Đừng có mà ăn bữa sáng của em nó đấy.”
“Cháu sẽ không ăn đâu,” Tibby hứa.
“Quay lại đây nào,” Bailey nói, vỗ nhẹ tay lên giường.
Tibby quay lại. “Chào,” nó nói. Nó suýt nữa thì nói “Em cảm thấy sao rồi?” nhưng đã kìm lại được.
“Chị đang mặc Cái quần phải không?” Bailey nhận xét.
“Chị cần sự giúp đỡ,” Tibby giải thích.
Bailey gật đầu.
“Mimi chết rồi,” Tibby không thể tin được nó lại nói câu ấy. Không hề báo trước, những giọt nước mắt to bắt đầu rơi trên má nó.
Một giọt đã tìm được đường rơi trên mặt Bailey. “Em đã biết là có gì đó không ổn mà,” cô bé nói.
“Chị xin lỗi,” Tibby nói. Bailey lắc đầu đáp lại lời xin lỗi. “Em biết đêm qua chị đã ở đây. Như thế nên em mới mơ những giấc mơ rất đẹp.”
“Chị rất vui.”
Bailey nhìn đồng hồ. “Chị phải đi đi. Chỉ mười ba phút nữa ca của chị sẽ bắt đầu.”
“Cái gì cơ?” Tibby khá bối rối.
“Công việc ở Wallman.”
Tibby lau lau một bên tay. “Chả quan trọng.”
Mặt Bailey nghiêm trọng. “Không quan trọng à. Đó là công việc của chị. Duncan trông cậy vào chị, chị biết mà. Đi đi.”
Tibby nhìn con bé không thể tin nổi. “Em thật sự muốn chị đi?”
“Vâng.” Con bé nói nhỏ lại. “Nhưng em muốn chị quay lại đây.”
“Chị sẽ quay lại,” Tibby nói.
Khi đi ra đến hành lang, Carmen đang ngồi ở đó. Nó đứng lên khi nhìn thấy Tibby và ôm chầm lấy. Tibby ôm lại.
“Tớ phải đi làm đây,” Tibby lúng búng nói.
Carmen gật. “Tớ sẽ đi cùng cậu một quãng.”
“Tớ có xe đạp mà.”
“Thế thì tớ sẽ đi cùng cậu và xe của cậu,” Carmen nói.
“Ôi chờ đã,” Carmen dừng lại ngay phía trong cửa quay tự động. “Tớ cần Cái quần.”
“Ngay bây giờ à?”
“Tớ nghĩ thế,” Carmen nói.
“Nhưng mà hình như tớ đang mặc nó mà,” Tibby nói rõ.
Carmen vòng tay kéo nó vào trong buồng vệ sinh. Nó cởi cái quần màu xanh lơ và đưa cho Tibby.
Cái quần đã chứng minh sự kỳ diệu của nó thêm lần nữa khi Carmen trông thật tuyệt vời với Cái quần, còn Tibby thì trông thật ngớ ngẩn buồn cười trong cái quần xanh lơ của Carmen.
Mặc dù Carmen sáng nào cũng ngủ đến ít nhất 10h sáng trong suốt hai tuần qua nhưng vào buổi sáng ngày 19 tháng Tám, nó đã bật dậy khỏi giường khi mặt trời mọc. Nó biết nó phải làm gì. Nó mặc Cái quần, cảm thấy yêu quý sự ấm áp và vừa vặn của Cái quần. Có cảm giác như Cái quần yêu quý nó. Nó nhét chân vào đôi giày in hình báo và nhanh chóng cài khuy cái áo sơ mi đen có cổ. Nó xổ mớ tóc dài rậm vẫn còn sạch sau khi gội tối qua. Nó đeo đôi khuyên vòng to tướng vào tai.
Nó để lại lời nhắn cho mẹ trên bàn bếp và nghe tiếng điện thoại reo khi đi về phía cửa. Đó là ông Brattle, nó nhìn thấy số của ông ta trên màn hình hiển thị. Nó kệ cho điện thoại kêu. Nó sẽ không hành hạ ông ta hôm nay.
Nó bắt chuyến xe bus đi về sân bay, nơi nó lấy vé cho một chuyến bay khứ hồi đắt tiền mà nó đã đặt tối qua bằng thẻ tín dụng “dành cho những trường hợp khẩn cấp và để mua sách học” của bố nó.
Nó ngủ một cách bình yên trên ba chiếc ghế trên chuyến bay đến Charleston, chỉ tỉnh dậy để ăn nhẹ. Hôm nay nó ăn táo.
Nó dành đôi chút thời gian để đọc tạp chí ở Sân bay Charleston; sau đó nó đi taxi về nhà thờ Episcopal trên phố Meeting. Lần này các cây sồi và cây hồ đào có vẻ thật quen thuộc.
Nó đến vài phút trước khi buổi lễ bắt đầu. Người chỉ chỗ ngồi đã hoàn thành nhiệm vụ; và giáo đoàn đang tập hợp lại giữa những tràng hoa đỏ và trắng nở rộ. Nó náu mình một cách vô danh vào hàng ghế khuất sau. Nó có thể nhận ra hai người cô ở hàng ghế thứ hai. Mẹ của mẹ kế của nó - người chẳng ai thích cả - ngồi ngay cạnh các cô. Còn lại thì Carmen không biết ai trong dãy ghế của chú rể cả. Thật là buồn khi các cặp chỉ có bạn bè cũng là các cặp vợ chồng và mất những người bạn ấy ngay khi họ không còn là một cặp nữa.
Bỗng nhiên bố nó xuất hiện ở một cửa bên, cao và nổi bật trong bộ lễ phục, với Paul mặc một bộ lễ phục y chang đứng bên cạnh. Paul là phù rể của bố, nó nhận ra thế. Nó chờ để cảm thấy sự cáu kỉnh dâng lên trong nó, nhưng không thấy gì. Paul có vẻ rất nghiêm túc với vai trò phù rể của mình. Albert và Paul trông rất hợp nhau với mớ tóc sáng và chiều cao bằng nhau. Nó biết rằng bố nó rất may mắn.
Nhạc đón dâu bắt đầu. Krista xuất hiện trước tiên, trông như mẩu kẹo trong chiếc váy. Carmen quyết định là trông cô bé rất được. Da cô bé xanh xao đến độ trong suốt. Nhạc có vẻ to lên đi vào cao trào, một khoảng lặng hết sức ấn tượng trôi qua, và Lydia xuất hiện.
Có điều gì đó đặc biệt với các đám cưới. Chẳng quan trọng gì dù Lydia đã bốn mấy tuổi và mặc một chiếc váy dở hơi. Cô ấy trông rất duyên dáng khi đi dọc hàng ghế và Carmen cảm thấy xúc động đúng như lẽ ra nó phải thế. Nụ cười của Lydia là một nụ cười cô dâu hoàn hảo, ngượng ngùng nhưng chắc chắn. Mắt bố nó thì say mê ngắm nhìn vẻ hoàn hảo của cô dâu. Khi cô ấy đến bên ông, cả gia đình bốn người của họ tạo thành một đám đứng vòng quanh bệ thờ.
Carmen cảm thấy nhói đau trong khoảnh khắc khi nhìn thấy gia đình ấy đứng như vậy. Họ cũng muốn mày ở đó. Lẽ ra mày phải ở đó.
Carmen để cho chính mình bị cái cần chơi cello, mùi nến thơm và giọng đều đều của mục sư thôi miên. Nó quên khuấy rằng nó là con gái của chú rể và rằng nó đang ăn mặc không hợp lắm. Nó rời khỏi cơ thể mình và du hành lên tít những khung vòm trên cao kia, nơi nó có thể nhìn thấy mọi thứ, toàn bộ bức tranh lớn.
Không phải cho đến khi họ đi xuống dọc hàng ghế thì bố nó mới nhìn thấy mắt nó và kéo nó từ trên trần nhà trở xuống cơ thể của nó. Cái nhìn của ông làm nó chỉ muốn ở lại trên đó.
Diana dù sao cũng đã làm xong món bánh sôcôla hạnh nhân trong bếp của trại. Ollie đã cố gắng cho nó một miếng sườn. Emily đề nghị cho Bridget mượn chiếc phone đĩa của mình.
Họ đều lo lắng cho nó. Nó nghe thấy họ thì thầm khi họ nghĩ nó đã ngủ.
Nó ra ăn tối với họ vào buổi tối hôm sau, chỉ vì nó đã chán với việc nhìn họ đi xung quanh nó và trao tặng hàng núi quan tâm săn sóc. Có một mớ thức ăn tướng đang thiu đi dưới giường nó kia.
Sau bữa tối, Eric đến và yêu cầu nó đi dạo cùng. Điều này làm nó ngạc nhiên, vì đó là người đàn ông không bao giờ bị bắt quả tang. Nó đồng ý.
Họ thả bộ dọc theo bãi đất chính đến bãi biển Coyote. Họ đi trong yên lặng đến một nơi xa xôi tận cùng của bãi biển, nơi các cây cọ và xương rồng chiếm hết chỗ của cát. Hoàng hôn đang ở phía sau họ.
“Anh đã rất lo cho em. Sau trận đấu hôm qua và mọi chuyện...” Mắt anh cho thấy anh nói thực lòng.
Nó gật đầu. “Em không phải lúc nào cũng chơi tốt.”
“Nhưng em có một tài năng xuất chúng, Bridget. Em cần phải biết điều đó. Em cần phải biết rằng mọi người nghĩ em là một ngôi sao.”
Bridget thích những lời khen cũng như người đang khen nó, nhưng nó không cần cái này. Nó biết nó thế nào.
Anh sục chân sâu xuống cát. Anh miết thẳng cạnh những chiếc hố mà anh tạo ra. “Anh đã lo rằng chuyện đã xảy ra giữa hai chúng ta... Anh đã lo rằng em bị tổn thương. Có lẽ nhiều hơn những gì anh hiểu vào lúc đó.”
Nó lại gật đầu.
“Em chưa có nhiều kinh nghiệm hẹn hò phải không?” anh hỏi. Giọng anh thật nhẹ nhàng. Không có vẻ gì là chất vấn cả. Anh đang cố giúp đỡ.
Nó lại gật đầu.
“Ôi, ước gì anh đã biết trước.”
“Em đã không kể cho anh. Làm sao anh biết được?”
Anh mở rộng hố trên cát. Sau đấy lại lấp nó đi. “Em biết đấy Bridget, khi lần đầu tiên anh gặp em, em thật tự tin và... thật gợi cảm với anh. Anh nghĩ em già hơn tuổi của em. Bây giờ thì anh hiểu hơn rồi. Em đã không có nhiều kinh nghiệm. Em là một cô bé mười sáu tuổi ngây thơ.”
“Em mười lăm tuổi.”
Anh ta rền rĩ. “Đừng có nói với anh như thế.”
“Xin lỗi. Chỉ là nói sự thật mà thôi,” nó nói.
“Tại sao trước đây em không thể trung thực?”
Miệng Bridget run run. Trông anh ấy rất hối lỗi. Anh đến gần nó hơn và vòng tay quanh vai nó.
Anh tiến lên phía trước. “Đây là điều mà anh muốn nói với em. Chúng ta có lẽ sẽ không thể nói lại nữa, vì vậy anh muốn em nhớ những gì anh sắp nói. Được chứ?”
“Được,” nó lầm bầm.
Anh thở ra một hơi dài. “Thật là một lời thừa nhận khó khăn từ một người được mọi người trông đợi là một huấn luyện viên ở đây, vậy nên em hãy nghe đây.” Anh nhìn lên bầu trời như cầu cứu. “Mùa hè này em đã làm anh choáng váng. Đêm nào em cũng xuất hiện trong giấc mơ của anh từ ngày anh gặp em.” Anh đặt tay lên tóc nó. “Ngày mà chúng ta bơi cùng nhau. Chạy cùng nhau. Khiêu vũ cùng nhau. Xem em chơi bóng... Anh biết anh là một cầu thủ bóng đá, Bee, nhưng nhìn em chơi đúng là rất tuyệt vời.”
Nó mỉm cười một chút.
“Đó là lý do tại sao em làm anh rất sợ. Vì em quá xinh đẹp và em quá gợi cảm và em quá trẻ đối với anh. Em cũng biết điều đó, đúng không nào?”
Bridget không chắc nó có quá trẻ với anh không, nhưng nó biết nó quá trẻ với những gì nó đã làm với anh. Nó gật đầu.
“Và bây giờ, sau khi quá gần em, anh không thể nào ở cạnh em mà không nghĩ về những gì mình cảm thấy.”
Nó sắp sửa khóc. Những giọt nước lớn đang tràn lên trong mắt nó.
Anh đặt bàn tay lên hai bên đầu nó. “Bee, nghe anh nói. Một ngày nào đó, có lẽ khi em hai mươi tuổi, anh sẽ gặp lại em. Em sẽ là một ngôi sao bóng đá rất ấn tượng ở một ngôi trường tuyệt vời nào đó, với hàng tá những chàng trai hâm hộ thú vị hơn anh gấp bội. Và em biết không? Anh sẽ gặp lại em và anh sẽ cầu mong rằng em vẫn thích anh.” Anh nắm hai bên đầu nó trong hai bàn tay như thể đó là vật gì quý giá. “Nếu anh có thể gặp lại em, vào một thời điểm khác, trong hoàn cảnh khác, anh sẽ để mình ngưỡng mộ em đúng như em đáng được thế. Nhưng bây giờ thì anh không thể.”
Nó lại gật đầu lần nữa và để nước mắt tuôn lã chã.
Nó muốn anh thú nhận cảm giác của anh khi làm như vậy. Nó thực sự muốn thế. Nó biết anh cũng muốn thế. Dù anh nói thật hay không thì anh đã nghĩ anh có thể làm nó cảm thấy khá hơn, và anh đã thật sự muốn thế.
Nhưng đó không phải là cái nó cần. Cái nó cần lớn như những ngôi sao kia, còn anh thì ở đây, dưới bãi biển này, im lặng đến độ nó khó có thể nghe thấy anh thở.
Dưới mái lều trong sân sau, bố Carmen ôm nó một lúc lâu. Khi ông buông nó ra, mắt ông đầy điều muốn nói. Nhưng nó rất mừng là ông không nói gì. Nó có thể đoán ra ông có ý gì.
Lydia cũng ôm nó. Đó chỉ là nghĩa vụ, nhưng Carmen không quan tâm. Nếu Lydia yêu bố nó như thế, thì cũng tốt thôi. Krista vuốt má nó và Paul bắt tay nó. “Chào mừng em quay lại,” anh ta nói.
Nếu có ai đó chú ý đến việc nó đang mặc quần jeans, họ cũng chẳng nói gì.
“Tiệc cưới! Đã đến lúc chụp ảnh cưới rồi!” người trợ lý chụp ảnh già gọi, không hề chú ý gì đến không khí dễ vỡ này. “Tiệc cưới! Nào hãy đứng dưới những cây hoa mộc lan này!” cô ta hét vào tai Krista. Cứ như có cả một đám đông chứ không phải chỉ có bốn người bọn họ.
Carmen đi ra bàn đồ uống, nhưng bố nó giữ tay nó. “Đến đây,” ông nói “con là một phần của chúng ta.”
“Nhưng con...” nó chỉ cái quần jeans.
Ông gạt mối lo ngại của nó đi. “Trông con rất ổn,” ông nói, và nó tin ông.
Nó đứng chụp ảnh với bốn người bọn họ. Nó chụp ảnh với Krista và Paul. Nó chụp với Lydia và bố. Nó chụp với bố. Người trợ lý chụp ảnh liếc nhìn chê trách cái quần vài lần, nhưng không ai nói gì thêm. Nó không thể không cảm thấy ấn tượng với việc Lydia để cho những bức ảnh đẹp như truyện cổ tích của cô bị làm xấu xí đi vì một con bé da sẫm màu mặc quần jeans.
Phần ăn uống của lễ cưới có vẻ qua rất nhanh. Carmen nói một vài câu chuyện với các cô cho đến khi cô dâu và chú rể bước ra sàn và nhận được những tràng vỗ tay nồng nhiệt. Ngay sau đó, Paul đến chỗ nó ngồi và nói. “Bạn có muốn khiêu vũ không?” anh ta hỏi nó rất trang trọng và hơi cúi mình xuống.
Carmen đứng lên, quyết định không lo lắng rằng nó thực sự không biết nhảy điệu van. Nó vòng tay quanh anh ta. Trên sàn nhảy anh ta bắt đầu đưa nó theo nhịp.
Bỗng nhiên nó nhớ ra người bạn gái của anh ta. Nó bắt đầu nhìn các bàn xung quanh để nhìn xem liệu những cái nhìn độc địa có thể đến từ đâu. Paul có vẻ như cảm thấy sự mất tập trung của nó.
“... đâu rồi ý nhỉ...” Bỗng nhiên Carmen không thể nhớ ra tên thật của cô ta.
“ ‘Bộ xương khô’ phải không?” Paul cứu viện.
Carmen cảm thấy má mình nóng bừng. Paul cười lớn. Anh có một điệu cười nắc nẻ ngọt ngào không ngờ. Liệu nó từng nghe điệu cười ấy trước đây chưa nhỉ?
Carmen cắn môi ngượng ngùng. “Xin lỗi,” nó lẩm bẩm.
“Bọn tôi đã chia tay,” anh ta nói. Anh không có vẻ gì là buồn, dù chỉ một chút.
Khi bài hát hết, anh đi ra chỗ khác, và nó nhìn thấy bố nó lướt qua. Trước khi Paul rời sàn nhảy, anh cúi xuống gần tai nó. “Bạn làm bố bạn rất vui,” anh nói, làm nó ngạc nhiên; vì mỗi khi anh mở miệng là rất đặc biệt.
Bố nó kéo nó đi theo điệu van dọc theo hành lang sàn nhảy.
“Con biết bố sẽ làm gì không?” ông nói.
“Gì ạ?” nó hỏi.
“Từ giờ trở đi, bố sẽ trung thực với con như con đã luôn trung thực với bố,” ông nói.
“Vâng,” nó đồng ý, và để cho ánh sáng mờ lấp lánh trước mắt nhòe đi thành một trận bão.
Đến cuối buổi đêm, trên đường lên phòng đi ngủ, nó chú ý đến cửa sổ phòng ăn. Có một lỗ to trên thủy tinh, khung cửa sổ không được sửa lại, nhưng được dán kỹ bằng băng dính trong và một ít băng xấu hơn dán một cách cẩu thả. Vì lý do nào đó, việc này khiến Carmen vừa ngượng vừa vui.
Lena thân,
Cuối cùng tớ cũng đã làm được một việc đúng đắn khi mặc Cái quần này. Tớ nghĩ Tibby cũng thế. Vì thế bọn tớ sẽ gửi nó đến cho cậu với một chút dấu ấn của Carma này trên đó (heheh). Tớ sốt ruột quá, không thể chờ để kể cho cậu nghe về tất cả mọi thứ khi nào chúng ta gặp lại nhau.
Tớ hy vọng Cái quần này cũng sẽ đem lại nhiều niềm vui cho cậu như nó đã mang lại cho tớ hôm nay.
Yêu cậu,
Carmen.
Tibby đi làm trong cái áo hai dây của nó. Nó cần phải mượn một cái áo khoác. Duncan giả vờ không thân thiện, nhưng nó có thể đoán ông rất vui khi gặp lại nó sau khi nó đã gọi điện xin nghỉ ốm lâu như thế. Ông khen nó mặc cái quần đẹp.
Vào lúc 4h tâm trí nó lại phản bội nó, quay lại với ý nghĩ rằng Bailey sắp sửa đến. Và sau đó Tibby lại phải nhớ lại.
“Bạn cháu đâu?” Duncan hỏi. Bây giờ thì tất cả mọi người ở cửa hàng Wallman đều biết Bailey.
Tibby chạy ra cửa sau để khóc cho thỏa. Nó ngồi trên các bậc xi măng cao và lấy tay che mặt. Chốc chốc nó lại hỉ mũi vào cái áo khoác đi mượn. Da nó đang trở nên nhớp nháp dưới cái áo hai dây.
Có ai đó đang ở đây. Nó nhìn lên. Phải mất một lúc nó mới nhận ra Tucker Rowe.
“Bạn ổn chứ?” anh ta hỏi nó. Bỗng nhiên nó tự nhủ liệu có bao giờ anh ta thấy nóng trong cả bộ đen sì như thế không.
“Không có gì đặc biệt,” nó lại xì mũi vào cái áo khoác.
Anh ta ngồi xuống cạnh nó. Nó đang khóc quá say sưa nên không thể dừng lại được, vì thế nó cứ tiếp tục khóc như thế một lúc. Anh ta chạm tay vào tóc nó một cách vụng về. Nếu nó là nó của mọi ngày, nó có thể điên lên vì anh ta đã chạm vào mái tóc xấu xí của nó. Nhưng bây giờ thì nó chỉ thoáng nghĩ về chuyện đó một chút thôi.
Khi nước mắt cuối cùng cũng rút xuống, nó nhìn lên.
“Tại sao chúng ta không đi uống một cốc cà phê và rồi bạn sẽ kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra nhỉ?” anh ta mời.
Nó nhìn anh ta thật kỹ, không phải qua đôi mắt của nó mà qua đôi mắt của Bailey. Tóc anh ta vuốt quá nhiều keo, và đôi lông mày của anh ta bị thưa ở giữa. Quần áo và danh tiếng của anh ta có vẻ như đều là đồ rởm. Nó không thể nào nhớ ra được tại sao nó từng thích anh ta.
“Không, cảm ơn,” nó trả lời.
“Thôi nào Tibby. Tôi nói nghiêm túc đấy.” Anh ta nghĩ nó từ chối vì cảm thấy không an toàn. Cứ như thể ai đó còn thú vị hơn nó cũng không thể nào từ chối một đặc ân như thế.
“Tôi không thích lắm,” nó nói rất rõ ràng.
Mặt anh ta biểu lộ sự ngượng ngùng.
Tôi từng thích anh, nó nghĩ khi nhìn anh ta bước ra xa. Nhưng giờ thì tôi không thể nhớ ra tại sao tôi lại thích anh nữa.
Không lâu sau khi anh ta đi, Angela, cô gái với những móng tay dài đến với hai túi đầy rác đi đổ. Khi nhìn thấy Tibby cô ta dừng lại.
“Cô bạn nhỏ của em đang ốm thật sự rồi, phải không?” Angela hỏi.
Tibby nhìn lên ngạc nhiên. “Làm sao chị biết được?”
“Chị có một cháu gái nhỏ bị ung thư,” Angela giải thích. “Chị nhớ trông nó đã như thế nào.”
Mắt Angela cũng đầy nước. Chị ta ngồi xuống cạnh Tibby. “Tội nghiệp,” chị ta nói, vỗ lưng Tibby. Tibby cảm thấy những đầu ngón tay nhọn qua lần vải áo.
“Đó là một cô bé ngọt ngào, cô bạn của em ấy,” Angela tiếp tục. “Có một buổi chiều cô bé ấy đang chờ em thì chị đi về trước và cô ấy nhìn thấy chị đang buồn bực thế nào. Cô bé đã mời chị đi uống trà và nghe chị khóc suốt nửa tiếng vì người chồng cũ tồi tệ của chị. Bọn chị đã biến nó thành một nghi lễ vào chiều thứ Tư hàng tuần, Bailey và chị ấy.”
Tibby gật đầu, vừa cảm thấy Bailey thật tuyệt vời vừa thấy thất vọng với chính mình. Tất cả những gì nó chú ý đến Angela chỉ là những ngón tay của chị ấy thôi.
Trong một phép thần kỳ diệu của Cái quần Du lịch, cái quần đã đến Hy Lạp vào ngày cuối cùng của Lena ở đó. Gói đồ trông thật thảm thương, cứ như thể nó đã chu du vòng quanh thế giới và quay lại, nhưng Cái quần thì ở đó - không bị tổn hại gì - mặc dù nó nhàu và mềm hơn và cũ hơn lần trước khi Lena nhìn thấy. Trông cái quần cũng mệt mỏi như Lena, nhưng trông nó cũng cứ như thể nó sẽ chịu đựng được thêm một triệu năm nữa vậy. Cái quần cứ như đang ủy thác cho Lena một nhiệm vụ cuối cùng: đi nói với Kostos đi, cái đồ vô dụng.
Khi nó mặc cái quần vào, cái quần không chỉ đem đến cho nó tội lỗi mà còn cả sự dũng cảm nữa. Theo một cách bí ẩn nào đó, Cái quần đã nắm giữ những tính cách đặc biệt của ba người bạn thân của nó, và may mắn thay dũng cảm chính là một trong những tính cách đó. Nó sẽ trao tặng cho Cái quần những tính cách nó có, nhưng dũng cảm thì nó sẽ lấy từ cái quần.
Nó cũng thấy mình gợi cảm khi mặc Cái quần, điều này không ảnh hưởng gì cả.
Lena đã một lần tham gia một buổi đi bộ nhanh từ thiện và đã đi mười tám dặm xuyên qua Washington và ngoại ô. Thật lạ là quãng đường từ nhà ông bà đến lò rèn lại có vẻ như còn xa hơn.
Nó dự định sẽ đi sau khi ăn trưa, nhưng sau đó nhận ra rằng nó không thể nuốt nổi miếng nào, vậy thì sao lại phải chờ chứ?
Điều đó hóa ra lại hay. Khi nó nhìn thấy căn nhà thấp quanh khúc ngoặt, nó có lẽ đã nôn, nhưng vì nó không có tí thức ăn nào trong bụng nên cuối cùng nó không nôn.
Tay Lena toát mồ hôi đầm đìa đến độ nó sợ sẽ làm nhòe mất bức tranh. Nó cố chùi tay vào Cái quần và đổi tay cầm tranh, nhưng những vệt tay trên cái quần không có vẻ gì là sẽ xác nhận một vị khách hàng thú vị cả.
Tới lối vào sân, nó dừng lại. Đi tiếp đi, nó thầm lặng ra lệnh cho Cái quần. Nó tin tưởng Cái quần còn hơn cả hai chân của nó.
Nếu Kostos đang bận làm việc thì sao? Nó sẽ không thể nào làm phiền anh, đúng không? Cái ý kiến kinh khủng gặp anh ấy ở chỗ làm là của ai thế nhỉ? Phần hèn nhát trong đầu nó (thực ra là một phần rất to và chiếm đa số diện tích) đang muốn biết điều ấy.
Nó đi tiếp. Cái phần dũng cảm bé tí trong đầu nó biết rằng đây là cơ hội duy nhất của nó. Nếu quay đi, nó sẽ mất cơ hội này.
Lò rèn khá tối, chỉ có ngọn lửa đang bùng lên trong chiếc lò phía sau là sáng. Có một bóng người đang làm việc với một mảnh kim loại trong lò, và hình người đó quá cao, không thể là Bapi Dounas được.
Kostos hoặc đã nghe thấy hoặc cảm thấy bước chân của nó. Anh ngoái lại nhìn nó, sau đó cẩn thận và chậm rãi đặt mảnh kim loại đang rèn xuống, cởi găng tay và mặt nạ ra và đi đến chỗ nó. Mắt anh dường như đem theo cả ánh phản chiếu của ngọn lửa. Không có vẻ gì lo lắng trên mặt anh. Có vẻ như đây là nhà nó vậy.
Lena thường quen với những cậu trai căng thẳng xung quanh mình, vì thế nó có thể làm chủ tình thế, nhưng Kostos thì lại không thế.
“Xin chào,” nó nói run run.
“Xin chào,” giọng anh chắc nịch.
Nó ngọ nguậy, cố gắng nhớ lại dòng diễn văn mở bài của nó.
“Em có muốn ngồi không?” anh mời. Ngồi xuống có nghĩa là ngồi lên trên một bức tường gạch thấp ngăn căn phòng với những phòng khác. Nó ngồi xuống. Nó vẫn không nhớ làm thế nào để bắt đầu. Nó nhớ ra tay mình và bức tranh trong tay. Nó giúi cho anh. Nó đã lên kế hoạch để đưa bức tranh một cách hay ho hơn, nhưng thôi thế nào cũng được.
Anh mở bức tranh ra và chăm chú nhìn. Anh không ngay lập tức có phản ứng như phần lớn mọi người; anh chỉ nhìn. Sau một lúc, điều đó khiến nó thấy căng thẳng. Nhưng nó cũng căng thẳng đến độ khó có thể nói chính xác sự căng thẳng này bắt đầu từ đâu.
“Đó là nơi của anh,” nó giải thích cụt lủn.
Anh không rời mắt khỏi bức tranh. “Anh đã bơi ở đó nhiều năm rồi,” anh nói chậm rãi. “Nhưng anh sẵn sàng chia sẻ nó.”
Nó nghe thấy có gì đó gợi ý trong những câu nói của anh - nửa hy vọng là có, nửa hy vọng là không. Cuối cùng nó quyết định rằng không có.
Anh đưa lại cho nó bức tranh.
“Không, tranh ấy là dành cho anh đấy,” nó nói. Bỗng nhiên nó cảm thấy bị mất thể diện. “Ý em là, nếu anh muốn. Anh không nhất thiết phải lấy. Em chỉ...”
Anh cầm lại bức tranh. “Anh muốn bức tranh này,” anh nói. “Cảm ơn em.”
Lena gạt mớ tóc ra khỏi cổ. Ôi trời, ở đây nóng quá. Thôi được, nó tự nói với mình, đã đến lúc nói rồi đấy.
“Anh Kostos, em đến đây để nói với anh một điều,” nó nói. Ngay khi mở miệng ra, nó đã đứng lên, ngọ nguậy đi tới đi lui.
“Được thôi,” anh nói, vẫn ngồi.
“Em đang định sẽ… từ khi... từ khi... từ cái ngày đó, khi...” Làm thế nào để diễn đạt nhỉ? Nó phân vân một cách cáu tiết. “... chúng ta, ừm, gặp nhau ở đầm.”
Anh gật đầu. Có phải có một thoáng mỉm cười nào đó ở khóe miệng anh không?
“Vậy. Ngày hôm đó. Vậy.” Nó bắt đầu đi đi lại lại. Khả năng đi nhanh của bố nó lại là một thứ khác mà nó không được thừa hưởng. “Có một sự nhầm lẫn và có lẽ, anh biết đấy, những ý tưởng nhầm lẫn về những gì đã xảy ra. Và có lẽ đó là lỗi của em. Nhưng em không nhận ra điều gì đã xảy ra cho đến khi nó xảy ra và sau đó...” Nó quên mất mình định nói gì. Nó nhìn lên ngọn lửa. Ngọn lửa cháy rừng rực không phải là một thứ dễ chịu để nhìn cho lắm.
Kostos ngồi im, rất kiên nhẫn.
Khi Lena bắt đầu nói lan man thế này, nó trông chờ người ta sẽ cắt ngang lời nó và cứu nó thoát khỏi sự khốn khổ ấy, nhưng Kostos không làm thế. Anh chỉ chờ thôi.
Nó cố gắng quay lại với câu chuyện, nhưng nó đã quên mất câu chuyện là gì rồi. “Sau khi điều đó xảy ra, đã quá muộn, và tất cả mọi thứ còn trở nên lộn xộn hơn, và em đã muốn nói về chuyện đó, nhưng thực sự em đã không thể tìm ra cách nào để nói, vì em đã quá hèn nhát khiến mọi người nói ra những gì họ nghĩ đã xảy ra, và không giải thích điều họ nghĩ đã xảy ra thực ra không xảy ra, thậm chí em đã không làm thế khi em thực sự muốn làm và em biết em cần phải làm.” Bỗng nhiên nó ước gì nó đang ở trong một bộ phim truyền hình nhiều tập và rằng ai đó sẽ tát nó như họ vẫn làm với những người nói linh tinh mê sảng trên các chương trình TV.
Bây giờ thì nó gần như chắc chắn rằng nó nhìn thấy dấu hiệu của một nụ cười trên mặt Kostos. Đó không phải là một dấu hiệu tốt, đúng không nhỉ?
Nó lấy mu bàn tay lau mồ hôi trên môi. Nó nhìn xuống Cái quần và nhớ ra rằng đó là Cái quần, nó đang cố tưởng tượng nó là Bridget.
“Điều em thực sự muốn nói, đó là rằng em... rằng em đã phạm một sai lầm lớn và rằng tất cả những cãi lộn vớ vẩn giữa ông bà chúng ta đều là lỗi của em và lẽ ra em không bao giờ được buộc tội anh vì đã theo dõi em, vì bây giờ em biết là anh không làm thế.” Đó, thế tốt hơn rồi đấy. Ôi. Nhưng nó đã quên điều gì đó. “Và em xin lỗi,” nó buột ra. “Em rất, rất xin lỗi.”
Anh cho nó thêm một khoảnh khắc để chắc chắn rằng nó đã nói xong. “Anh chấp nhận lời xin lỗi của em,” anh nói và hơi cúi đầu. Cách cư xử của anh khiến tất cả các bà ở Oia tự hào.
Lena thở một hơi dài. Cảm ơn trời phần xin lỗi đã xong. Nó có thể gói ghém đồ đạc và về nhà với chút tự hào vẫn còn nguyên vẹn. Thật hấp dẫn quá. Ôi trời ơi, thật là hấp dẫn.
“Có một điều khác nữa,” nó nói với anh. Nó vừa hoảng sợ vừa ấn tượng với những từ sắp sửa tràn ra trên môi nó.
“Cái gì vậy?” anh hỏi. Có phải bây giờ giọng anh dịu dàng hơn? Hay là nó chỉ tưởng tượng thế thôi?
Nó cố gắng nghĩ những từ hay nhất để nói. Nó nhìn lên trần nhà cầu cứu.
“Em muốn ngồi xuống không?” anh lại mời.
“Em không nghĩ là em có thể,” nó trả lời rất chân thực, vặn tay mình.
Cái nhìn trong mắt anh cho nó biết anh chấp nhận điều đó.
“Ôi, em biết là em đã không thân thiện lắm khi lúc đầu em đến đây,” Lena bắt đầu vòng nói chuyện thứ hai. “Anh đã rất tốt với em, và em đã không tốt lại. Và rằng có lẽ điều đó khiến anh nghĩ em không... rằng em đã không...” Lena bắt đầu đi vòng quanh theo một vòng tròn nhỏ và sau đó quay lại đối diện với anh.
Những vòng tròn mồ hôi to lan rộng từ dưới tay nó đến gần eo. Mồ hôi lấm tấm trên môi trên của nó và rỏ giọt từ mớ tóc trên trán. Sự kết hợp của cái nóng và sự căng thẳng khiến những vệt đỏ nổi khắp nơi trên da nó.
Nó chưa bao giờ tin một cậu trai nào thích nó không phải vì ngoại hình của nó, nhưng nếu hôm nay Kostos cho nó thấy điều vinh dự khó tin rằng anh quan tâm đến nó, nó sẽ biết đó không phải vì vẻ ngoài xinh đẹp của nó.
“Có lẽ anh nghĩ em không thích anh, nhưng thực ra thì...”
Ôi trời ơi. Nó sắp sửa chết đuối trong những nỗ lực của mình. Liệu có thể không?
“Nhưng thực ra thì có lẽ ý em không phải... như thế... chút nào. Có lẽ mọi sự hóa ra lại... hoàn toàn... ừm... ngược lại...” Có phải nó đang nói tiếng Anh không đấy nhỉ? Có phải những câu này đi cùng nhau không?
“Vì thế điều em muốn nói là... em ước gì em đã không cư xử như thế với anh. Em ước gì em đã không cư xử như thể em không... thích anh hoặc không quan tâm, vì em... vì em... thực sự... thực sự... quan tâm... bây giờ thì em... không cảm thấy như có lẽ em có vẻ đã cảm thấy...”
Nó nhìn anh với đôi mắt van nài. Nó đã cố, nó thật sự cố gắng rồi. Nó sợ rằng đó là điều tốt nhất nó có thể làm.
Mắt anh cũng mở to như nó. “Ôi Lena,” anh nói. Anh nắm cả hai bàn tay đẫm mồ hôi của nó trong tay. Anh có vẻ như hiểu rõ đó là điều tốt nhất mà nó có thể làm.
Anh kéo nó gần về phía anh. Anh ngồi trên bức tường và nó đứng, nên cả hai dường như cao bằng nhau. Chân anh chạm vào chân nó. Nó có thể cảm thấy mùi tro từ người anh. Nó cảm thấy như nó sắp ngất.
Mặt anh ở ngay kia, đẹp và khuất trong bóng của ngọn lửa đang reo tí tách. Môi anh ở ngay kia. Với một sự dũng cảm đâu đó không phải trong người nó, nó rướn người về phía trước một chút và hôn môi anh. Đó là một cái hôn và là một câu hỏi.
Anh trả lời câu hỏi bằng cách kéo nó vào lòng anh, ôm chặt nó bằng cả hai tay anh, và cái hôn của anh thật dài và thật sâu.
Nó có một suy nghĩ cuối cùng trước khi ngừng suy nghĩ và thả mình vào cảm xúc. Mình chưa bao giờ tưởng tượng thiên đường lại nóng như thế.
Sau hai đêm thì các y tá bắt đầu đẩy Tibby ra khỏi phòng Bailey khi giờ thăm kết thúc vào lúc 8h. Nó vẫn chưa sẵn sàng để về nhà. Nó gọi điện cho mẹ nói rằng nó sẽ đi xem phim. Mẹ nó nghe có vẻ nhẹ nhõm. Thậm chí mẹ cũng nhận ra rằng thời gian gần đây Tibby đã không vui chơi gì nhiều.
Tibby nhìn thấy ánh đèn của cửa hàng Seven-Eleven từ xa, và dường như ánh đèn ra hiệu cho nó. Trong cửa hàng nó thật vui mừng khi gặp Brian McBrian đang nghiên cứu trò chơi Chúa Rồng.
Khi cậu ta quay ra và thấy nó đang nhìn, cậu ta ngoác miệng cười. “Chào Tibby,” cậu ta nói ngượng ngùng. Thậm chí cậu ta cũng không mảy may chú ý chút nào đến cái áo hai dây hay vẻ ngoài kinh khủng của nó.
“Đến bàn mấy rồi?” nó hỏi.
Cậu ta không thèm che giấu vẻ tự hào. “Bàn 25.”
“Không thể nào!” nó nói một cách ngưỡng mộ.
Nó xem với chút nghi ngờ trận chiến anh hùng của cậu ta qua ngọn núi lửa của bàn 26 cho đến khi cậu ta bị nham thạch vùi mất.
“Ôi,” nó nói.
Cậu ta nhún vai vui vẻ. “Như thế là tốt rồi. Cậu sẽ không thích lúc nào cũng thắng đâu.”
Nó gật đầu. Nó nghĩ một lúc. “Này, Brian.”
“Gì cơ?“
“Cậu dạy tớ chơi trò Chúa Rồng nhé?”
“Được thôi,” cậu ta nói.
Với một sự kiên nhẫn và hăng say của một giáo viên thực thụ, Brian hướng dẫn nó chơi đến bàn 7, chỗ con rồng đầu tiên. Kể cả khi nhân vật anh hùng của nó gục ngã vì bị một thanh kiếm xuyên qua bụng, cậu ta vẫn rạng rỡ tự hào. “Cậu đúng là một tay săn rồng bẩm sinh,” cậu ta khen nó.
“Cảm ơn,” nó nói, cảm thấy thực sự biết ơn vì lời khen.
“Bailey thế nào?” cậu hỏi nó, gương mặt bỗng trở nên trang nghiêm.
“Con bé đang ở trong bệnh viện,” Tibby nói.
Cậu ta gật đầu. “Tớ biết. Tớ đã đến thăm cô bé vào giờ ăn trưa.” Bỗng nhiên cậu ta có một ý tưởng. “Chờ một chút. Tớ muốn cho cậu xem cái này.” Cậu ta rút ra một cái bị xác xơ. “Tớ có cái này cho cô bé.”
Tibby nhìn. Đó là một chiếc máy chơi game Sega Dreamcast và một đĩa trò chơi Chiến binh Rồng, phiên bản chơi ở nhà của Chúa Rồng. “Không hay như trò thật,” cậu ta giải thích, “nhưng nó sẽ giúp cô bé tập chơi.”
Tibby cảm thấy nước dâng lên trong mắt. “Con bé sẽ thích đấy,” nó nói.
Sau đó, khi Tibby đi bộ dọc đường Old Georgetown, nó vẫn còn phấn khích với việc chơi trò Chúa Rồng. Nó thật sự đã nghĩ về bàn 8 của trò chơi. Đó là lần đầu tiên sau nhiều ngày nó cảm thấy thực sự trông đợi cái gì đó.
Nó vừa bước vừa nghĩ, có lẽ Brian McBrian đã chạm tới một điều gì đó quan trọng. Có lẽ hạnh phúc không cần phải xuất hiện trong những hoàn cảnh vĩ đại, đầy nước mắt, và khi tất cả mọi việc trong đời đều hoàn hảo. Có lẽ đó là sự nối kết của rất nhiều những niềm vui nho nhỏ. Việc đi dép và xem thi Hoa hậu chẳng hạn. Ăn một chiếc bánh sôcôla với kem vani. Chơi Chúa Rồng đến bàn 7 và biết rằng còn có hai mươi bàn nữa để chơi.
Có lẽ hạnh phúc chỉ là một vấn đề về những khoảnh khắc vui sướng - đèn giao thông báo hiệu “Đi” ngay khi bạn bước đến đó - và những khoảnh khắc không vui lắm - cái mác làm ngứa ngáy ở phía sau cổ áo chẳng hạn - những gì xảy ra với một con người trong một ngày. Có lẽ tất cả mọi người đều có cùng một cách đo hạnh phúc nào đó trong mỗi ngày.
Có lẽ chẳng quan trọng mấy nếu bạn là một người khỏe mạnh nổi tiếng thế giới hay một kẻ lập dị đau đớn. Có lẽ chẳng quan trọng gì nếu bạn của bạn có lẽ đang hấp hối.
Có lẽ bạn sẽ phải vượt qua điều đó. Có lẽ đó là tất cả những gì bạn có thể yêu cầu.
Đó là bữa sáng cuối cùng nó ăn cùng Bapi, buổi sáng cuối cùng của nó ở Hy Lạp. Trong sự bối rối điên rồ khiến nó thức đến sáng, nó đã soạn hẳn một bài hội thoại tiếng Hy Lạp cho nó và Bapi để kết thúc một mùa hè tuyệt vời. Bây giờ thì nó đang nhìn ông vui vẻ ăn món bột ngũ cốc của mình, chỉ chờ thời điểm thuận tiện để bắt đầu.
Ông ngước lên nhìn nó một chút và mỉm cười, và nó nhận ra có điều gì đó rất quan trọng. Đó là điều dĩ nhiên cần phải thế. Đó là cách cả hai ông cháu đều thích. Mặc dù hầu hết mọi người đều cảm thấy được gắn kết và dễ chịu với những cuộc nói chuyện, Lena và Bapi lại là hai người không như thế. Họ gắn kết với nhau bởi thói quen ăn ngũ cốc buổi sáng cùng nhau.
Nó bỗng nhiên quên sạch lời hội thoại đã chuẩn bị và quay lại với món ngũ cốc của nó. Vào một lúc nào đó, khi nó cúi xuống uống sữa, ông nội vươn tay ra đặt lên tay nó “Cháu gái của ông,” ông nói.
Và Lena biết rằng nó chính là cháu của ông.
Hai ngày sau Tibby ngồi ở vị trí thường lệ của nó trên giường Bailey, và nó biết tình trạng của Bailey đang xấu đi. Bailey không có vẻ gì sợ hãi hay nghiêm trang, nhưng các y tá và hộ lý đều có vẻ đó. Họ cụp mắt xuống mỗi khi Tibby nhìn thẳng vào họ.
Bailey chơi Chiến binh Rồng trong khi bố cô bé ngủ trong một chiếc ghế cạnh cửa sổ. Cô bé lại nằm xuống, đặt đầu lên gối, rõ ràng cần được nghỉ. “Chị chơi hộ em nhé,” cô bé yêu cầu Tibby.
Tibby gật đầu và tiếp nhận trò chơi.
“Khi nào thì các bạn chị quay về?” Bailey hỏi bằng một giọng ngái ngủ.
“Carmen thì về rồi. Lena và Bridget tuần sau sẽ về.”
“Hay rồi,” Bailey nói. Mắt nó đang nhắm lại.
Tibby nhận thấy hôm nay có hai màn hình nhấp nháy trong phòng.
“Brian thế nào?” Bailey hỏi.
“Cậu ta tuyệt lắm. Cậu ta giúp chị chơi đến bàn 10,” Tibby nói.
Bailey mỉm cười. Cô bé nhắm mắt lại. “Anh ấy là một anh chàng hay,” cô bé lẩm bẩm.
Tibby bật cười, nhớ lại câu nói của mình. “Đúng thế. Em đã đúng và chị đã sai. Như mọi khi.”
“Không đúng,” Bailey nói. Mặt cô bé trắng như một thiên thần.
“Đúng quá đi chứ. Chị đánh giá người ta mà không biết rõ về họ,” Tibby nói.
“Nhưng chị đã thay đổi,” Bailey nói, giọng cô bé chậm và lơ đãng.
Tibby dừng lại không chơi trò Chiến binh Rồng nữa, nghĩ rằng Bailey đã ngủ.
“Chơi tiếp đi chị,” Bailey thì thầm ra lệnh.
Tibby tiếp tục chơi đến 8h, sau đó các y tá đẩy nó ra.
Lena ơi,
Có điều gì đó đã diễn ra. Không giống như tớ đã tưởng tượng. Tớ cần nói chuyện với cậu, nhưng tớ không thể nói ở đây được. Tớ chỉ... hơi lạ thế nào ấy. Tớ thấy lạ với chính mình.
Bee
Lena ơi,
Tớ không ngủ được. Tớ sợ. Tớ ước gì tớ được nói chuyện với cậu.
Lena đọc những bức thư của Bridget trên chuyến bay khởi hành từ Athens. Cả những bức thư mà nó nhận được suốt mùa hè và những bức nó nhận được từ bưu điện trên đường ra sân bay. Chiếc máy bay bay xuyên qua những múi giờ khác nhau, và tim Lena đi theo một con đường đau đớn từ chiếc lò rèn ở Oia, nơi nó muốn tim mình ở đó, tới một trại hè của đội bóng nữ ở Baja, nơi nó cảm thấy tim nó đang được cần đến.
Lena biết Bee từ lâu, đủ lâu để cảm thấy lo lắng thật sự cho những điều này. Nó biết cuộc sống của Bee đã thay đổi một lần. Từ đó mọi sự đều khác. Bee lao mình vào một dòng thác hoạt động, nhưng đôi khi có gì đó bất ngờ đánh cho cô bạn một cú dữ dội. Nó khiến Bee chậm lại và ít cả quyết. Nó khiến Bee buồn rầu đến độ không thể quay lại với chính mình nữa. Bridget nhiều khi giống một đứa trẻ đang tập đi, quờ quạng tìm sức mạnh, mong muốn nó. Nhưng khi có được rồi thì lại trở lại với chính mình, và điều đó làm cô bạn hoảng sợ. Mẹ đã qua đời, còn bố bạc nhược và thiếu quan tâm, cô bạn cần ai đó trông chừng mình. Bee cần ai đó hứa với nó rằng thế giới này không trống rỗng.
Effie đang ngáy bên cạnh nó. Lena quay sang và đẩy mạnh vai em gái. “Này, Eff? Eff?”
Effie mỉm cười trong mơ. Lena đoán nó đang mơ về anh chàng bồi bàn. Nó lại đẩy mạnh vai em hơn. “Effie, tỉnh lại một phút thôi.”
Càu nhàu, Effie mở mắt. “Em đang ngủ,” con bé càu nhàu, cứ như đó là một sự hy sinh to lớn hay gì đó.
“Em ngủ thật là giỏi, Effie. Chị chắc chắn là em còn ngủ nữa mà.”
“Ha-ha.”
“Nghe này, chị nghĩ chị cần thay đổi kế hoạch du lịch của chị, được không? Chị sẽ để em ở New York, và sẽ cố gắng tìm một chuyến bay đến Los Angeles.”
Effie không phải là một khách đi máy bay vui tươi. Lena biết sẽ chỉ công bằng khi khuyến cáo em gái. “Từ New York tới Washington thật sự chỉ là một chuyến bay ngắn thôi, Eff. Em sẽ ổn mà.”
Effie trông như rúm lại. “Nhưng mà tại sao?”
“Vì chị lo lắng cho Bee quá.” Effie cũng quen Bridget đủ để biết có những thời kỳ suy sụp khiến việc lo lắng về cô gái này không có vẻ gì là chuyện tầm phào.
“Chị ấy đã làm gì?” Effie hỏi, cũng cảm thấy lo lắng.
“Chị chưa biết.”
“Chị có tiền chưa?” Effie hỏi.
“Chị vẫn còn số tiền bố mẹ cho chúng ta,” Lena nói. Bố mẹ hai chị em đã cho mỗi đứa 500 đôla để tiêu trong hè này, và Lena hầu như chẳng tiêu gì.
“Em còn 200 đôla đấy. Chị có thể cầm lấy,” Effie nói.
Lena ôm lấy em. “Ngày mai chị sẽ đưa chị ấy về nhà. Chị sẽ gọi điện cho bố mẹ từ sân bay, nhưng em cũng sẽ giải thích với bố mẹ chứ?”
Effie gật đầu. “Chị đi đi, làm mẹ của chị ấy đi.”
“Nếu chị ấy cần,” Lena nói.
Nó thật vui khi đã đóng gói Cái quần Du lịch trong túi đồ xách tay của nó.
Khi điện thoại kêu vào lúc 10h sáng hôm sau, Tibby đã biết đó là gì. Nó nhấc máy lên và nghe tiếng thổn thức. “Cô Graffman. Cháu biết điều gì đã xảy ra. Cô không cần phải nói gì cả,” Tibby đặt tay lên mắt.
Đám tang diễn ra hai ngày sau, vào một ngày thứ Hai. Nghi lễ tang được cử hành. Tibby đứng với Angela và Brian và Duncan và Margaret. Carmen từ Nam Carolina đã về nhà. Nó đứng phía sau. Tất cả lặng lẽ khóc.
Đêm đó Tibby không thể ngủ được. Nó chờ phim Steel Magnolias trên kênh phim từ 1h đến 3h sáng.
Thực sự là nó đã rất vui nghe tiếng Katherine khóc vào lúc 3 giờ 50 phút. Lặng lẽ, trước khi bố mẹ đang mệt lử của nó tỉnh dậy, nó đi vào phòng trẻ, bế em bé ra khỏi cũi và đi xuống bếp. Nó vòng tay ôm Katherine quanh cái bụng bé xíu và giữ em bé trên vai. Tay kia nó đun nóng bình sữa của em bé. Katherine ư ư những tiếng du dương bên tai nó.
Nó đặt Katherine lại vào giường cùng nó và nhìn em bé thiếp đi giữa bữa sữa sớm. Nó ôm em gái và khóc. Nước mắt rơi vào mớ tóc mềm mại bù xù của em bé.
Khi Katherine đã ngủ say giấc ngủ của trẻ con và không gì khiến em bé tỉnh dậy, dù là tiếng động lớn, Tibby đặt em bé lại cũi.
Bây giờ là 4h sáng. Tibby đi xuống bếp. Nó mở cửa tủ lạnh và tìm thấy gói giấy nâu bên trong có Mimi. Cảm thấy như mình thuộc về một thế giới khác, nó đi ra gara trong bộ pijama và dép lê. Nó buộc túm gói giấy quanh tay lái chiếc xe đạp của mình và đạp nhiều dặm đến nghĩa trang, Mimi lạnh cứng đung đưa dưới cổ tay.
Mặt đất trên ngôi mộ của Bailey vẫn còn mềm. Tibby gạt lớp cỏ sang một bên và đào lớp đất mềm bằng cả hai tay. Nó hôn chiếc túi giấy và đặt Mimi vào chiếc hố đó. Sau đó nó phủ đất lại và để lại cỏ lên trên. Nó ngồi trên cỏ, trên cả hai bọn họ. Nó nhìn vẻ đẹp của mặt trăng trên cao, dần dần lặn về phía chân trời. Một phần lớn trong nó muốn ở lại đây với bọn họ. Nó muốn cuộn tròn lại thành một sinh vật nhỏ nhất, đơn giản nhất và để thế giới này vụt qua đi mà không có nó.
Nó nằm xuống. Nó cuộn người. Và sau đó nó đổi ý.
Nó còn sống và họ thì chết. Nó phải cố gắng để khiến cuộc sống của nó lớn lao. Lớn lao hết mức có thể. Nó đã hứa với Bailey nó sẽ tiếp tục chơi game.
Cảm giác về thời gian và không gian của Lena đã rối loạn nghiêm trọng một cách vô vọng khi nó đến Mulege. Nó phải thuê một chiếc taxi thứ hai để đến khu trại. Mặt trời đã mọc, nhưng không khí vẫn nóng và dày đặc. Nó đang cách Oia hàng trăm dặm, nhưng nó đang thở cùng một thứ không khí ấy.
Lena biết Bridget đã có kế hoạch về vào ngày mai, và nó cần phải ở đây đúng lúc để giúp bạn mình về nhà - dù sẽ gồm những việc gì đi nữa. Nó tìm đường đến phòng quản lý, và từ đó hướng về cabin của Bridget.
Vào trong cabin chiếu sáng lờ mờ, mắt nó ngay lập tức tìm thấy Bridget. Chỉ có một cái đầu tóc vàng ló ra và một cái túi ngủ màu sẫm.
Bridget ngồi dậy. Lena nhìn rõ khuôn mặt bi thảm của cô bạn. Mái tóc huyền thoại của cô. “Kìa Bee,” nó nói, lao đến ôm chặt lấy cô bạn. Bridget không hiểu chuyện gì đang xảy ra, chớp chớp mắt nhìn bạn, nheo mắt, ôm lại Lena cứ như là không biết mình đang ôm ai.
“Làm sao mà cậu đến đây được?” Bridget hỏi trong sửng sốt.
“Trên một chiếc máy bay.”
“Tớ nghĩ cậu đang ở Hy Lạp.”
“Đó là lúc trước. Ngày hôm qua tớ đã nhận được thư của cậu,” nó giải thích.
Bridget gật đầu. “Cậu đã thật sự nhận được.”
Bỗng nhiên Lena nhận ra rằng hàng tá cặp mắt đang nhìn họ tò mò. “Cậu có muốn đi dạo một chút không?”
Bridget chui ra khỏi túi ngủ. Nó dẫn đường ra khỏi cabin, người mặc cái áo phông quá khổ và đi chân đất. Bee chẳng bao giờ quan tâm nhiều đến việc trông nó ra sao.
“Thật là đẹp,” Lena nói, “tớ đã nhìn thấy cùng một vầng trăng kia suốt mùa hè này.”
“Tớ không thể tin nổi là cậu lại đến đây,” Bridget nói. “Tại sao cậu lại đến?”
Lena dúi đầu ngón chân xuống cát. “Tớ muốn cậu biết rằng cậu không cô đơn.”
Mắt Bridget thật là to và sáng trên gương mặt nó.
“Này, nhìn xem tớ mang gì cho cậu đây,” Lena nói, kéo Cái quần ra khỏi túi.
Bridget nắm chặt Cái quần bằng hai tay một lúc trước khi mặc vào.
“Hãy kể cho tớ điều gì đã xảy ra, nhé?” Lena nói, ngồi xuống cát, kéo Bridget ngồi xuống bên cạnh. “Hãy kể cho tớ mọi thứ đã xảy ra, và chúng ta sẽ xem giải quyết chúng như thế nào.”
Bridget nhìn xuống Cái quần, biết ơn vì đã có nó. Cái quần có nghĩa là sự ủng hộ và tình yêu thương, cả bốn đứa đã hứa trang trọng trước nó hồi đầu hè. Nhưng với Lena ở ngay đây, ngay bên cạnh, Bee dường như không cần cái quần nữa.
Bridget nhìn lên bầu trời. Nó nhìn Lena. “Tớ nghĩ có lẽ cậu đã biết được cách giải quyết rồi.”
Hết chương 17. Mời các bạn đón đọc chương 18!