Sáp Huyết
Tác giả: Mặc Vũ
Quyển Thượng: Nghê Thường Khúc
-----oo0oo-----
Chương 5: Kinh diễm.
Dịch Giả: Thiên Kim
Biên Tập: Anh Thư
Nguồn: Tàng Thư Viện
Xuân đi xuân đến, mai rụng tuyết tàn.
Thời gian như nước tẩy sạch những dấu vết của tháng năm. Trận đánh ở Thung lũng Phi Long, tuy là trời long đất lở, quỷ khốc thần sầu, nhưng thời gian cũng đã qua lâu, ngoại trừ những người trong cuộc ra thì đã không còn mấy ai nhớ được tình cảnh thảm liệt và quỷ dị lúc đó.
Nhưng chỉ cần là người đã từng trải qua thì cả đời này sẽ không quên được tất cả những sự việc đã xảy ra khi đó!
Cuối xuân năm nay, cây cối xum xuê, là mùa đàn chim oanh bay hót, trong và ngoài Anh Vũ lâu ở Khai Phong phủ ồn ào xôn xao không ngớt, cấm quân qua lại nhộn nhịp như những chú kiến.
Bởi vì mấy ngày này là lúc tổ chức Ma Khám cấm quân rất lớn, cho nên cấm quân kinh thành đến tham gia sát hạch rất đông.
Đại Tống trọng văn khinh võ, khoa cử thường xuyên được tổ chức nhưng nếu không phải thời kì đặc biệt thì rất ít khi tổ chức võ cử. Quân nhân nếu không có lai lịch xuất thân tốt, trong triều không có người nói giúp thì chỉ có thể từ con đường nhỏ là sương quân bổ sung vào cấm quân, còn muốn thăng chức thì con đường duy nhất đó chính là tham gia Ma Khám. Người có thể đi vào trong Anh Vũ lâu thi diễn võ nghệ, chức vị ít nhất cũng phải là Phó Đô Đầu trở lên, mà phần lớn quan quân cấp thấp nếu muốn thăng chức, đều chỉ có thể ở Bát Đại doanh bên ngoài Anh Vũ lâu tiến hành sát hạch.
Trong Kiêu Vũ doanh thuộc Bát Đại doanh, có quan khảo thí kêu to nói: "Vương Khuê thi tiễn."
Một người ra khỏi hàng. Mọi người thấy người này mặt đen như than, tuổi tác cũng không lớn lắm, vừa bước lên đứng ở trên võ trường thì cả người đã phát ra một luồng khí tức lẫm liệt dũng mãnh. Lúc này có người đưa cho hắn một chiếc cung cứng, hai tay Vương Khuê dùng sức đã kéo căng cung cứng khiến cho mọi người phấn khích ủng hộ không ngớt.
Đám cấm quân chỉ trỏ, một người nói: "Nếu lần này, Vương Khuê vượt qua được khảo hạch, sẽ trở thành Phó Đô Đầu rồi. Sau này chúng ta sẽ không còn nhìn thấy hắn ở đây nữa rồi."
"Đương nhiên rồi, ngươi cho là ai cũng giống như ngươi sao? Nhìn ngươi xem, mấy năm nay chẳng có tiến bộ một tí gì, chín năm qua chưa vượt qua được một cuộc khảo hạch nào, đến bây giờ cũng chỉ là một tên Thừa Cục mà thôi. Người nhà Vương Khuê không có ai ở trong triều mà hắn lại có được chí khí như vậy, mỗi một cuộc khảo hạch đều vượt qua, một cơ hội nhỏ cũng không bỏ lỡ, từ một quân nhân tầm thường đã tiến lên được Quân Đầu, thoắt cái lại muốn trở thành Phó Đô Đầu rồi, thật đúng là một hán tử."
Người kia bị chất vấn nên bất mãn nói: "Vậy thì sao chứ? Coi như là một Đô Đầu, bên trên còn có Đô Ngu Hầu và Chỉ Huy Sứ. Chỉ Huy Sứ ở trong kinh thành thì được coi là cái gì? Nếu như ngươi không vào được Tam Ban thì cả đời này sẽ chỉ là quân nhân thấp kém. Chỉ có gia nhập vào Tam Ban sứ thần thì mới tính là người có triển vọng. Vương Khuê kia dù có dũng mãnh đi chăng nữa, nếu muốn gia nhập vào Tam Ban sứ thần thì sợ rằng râu mép đã mọc trắng rồi? Nỗ lực như thế để 'chui' vào Tam Ban nhưng mà cũng đã sắp về trời rồi, tội gì phải làm khổ mình chứ?"
Người nọ vừa nảy thở dài, rồi lại nói: "Lời tuy nói như thế, nhưng mà được thăng chức bao giờ cũng là chuyện tốt, giống như Tương Ngu Hầu dù sao cũng tốt hơn so với Thừa Cục." Nói xong hắn đắc ý cười. Vốn dĩ người này đem cấp quan Tương Ngu Hầu so sánh với Thừa Cục thì cao hơn một bậc để châm chọc đối phương.
Người kia bị châm biếm hơi đỏ mặt, phẫn nộ nói: "Lão tử là Thừa Cục thì sao nào? Lão tử dù sao cũng là bằng vào nỗ lực của bản thân mình mà thăng chức, chứ không giống với một số người, chỉ biết khoác lác, chỉ biết bưng bít mà vượt qua kiểm tra. Hằng năm, lão tử dặm chân tại chỗ là chính xác, ngược lại có một số người hình như hằng năm đều rút lui. Nhưng người ta là Thập Tương so với Ngu Hầu của ngươi còn cao hơn một bậc đó."
Người nọ vừa nảy cười nói: "Người ngươi muốn nói là Địch Thanh hả?"
"Không phải sao, tên khoác lác kia từ trên trời rơi xuống, không gì làm không được, nghe nói giết được một tên Tăng Trưởng Thiên Vương gì đó. Vốn tưởng rằng Quách Tuân ở trong cấm quân cũng coi như là một người không đến nỗi nào, không ngờ rốt cuộc cũng chỉ là hạng người dùng người theo cảm tính. Tên Địch Thanh kia trước đây ngay cả sương quân cũng không được xếp vào, thế mà Quách Tuân vì Địch Thanh thỉnh công, để hắn trực tiếp gia nhập cấm quân, hơn nữa còn một bước lên làm Thập Tương... Nhưng Địch Thanh bản lĩnh cái rắm gì cũng không có, thật là khiến cho người ta tức chết mà." Tên Thừa Cục này căm giận nói.
Tên Tương Ngu Hầu kia nói tiếp: "Ngươi tức giận là bởi vì Quách Tuân không phải là người thân thích của ngươi sao? Hắc hắc, nói vậy Tăng Trưởng Thiên Vương kia chỉ là Bồ Tát làm từ đất sét, nên mới có thể để cho hắn một chiêu thành công nhỉ?" Hai người đều cười hắc hắc.
Lúc này, trong doanh truyền đến một tràng hò reo ủng hộ, thì ra Vương Khuê kéo cung khai nõ xong, phi thân lên ngựa, tay kéo trường cung, bắn một tiễn trúng hồng tâm, khiến cho mọi người trầm trồ khen ngợi ầm ầm.
"Đây mới là bản lĩnh thật sự!" Tương Ngu Hầu khen ngợi.
"Đương nhiên rồi, ai như tên Địch Thanh kia, thực là làm mất mặt đồng đội." Thừa Cục tiếp lời nói.
Lúc này quan khảo thí xướng nói: "Vương Khuê loại tốt, Địch Thanh thi tiễn."
Hai người Thừa Cục và Tương Ngu Hầu kia nhìn xung quanh bốn phía, cùng nói: "Không biết hắn ngày hôm nay dám hay không dám xuất hiện để khỏi phải mất mặt vì xấu hổ?" Nhìn xung quanh một hồi lâu thì bỗng nghe được từ phía sau có một người nói: "Tránh đường." Hai người quay đầu lại nhìn, không khỏi lấy làm xấu hổ, vội vàng hấp tấp né sang một bên, hóa ra người lên tiếng chính là Địch Thanh, vừa nãy đứng ở phía sau bọn họ.
Thời gian đã qua vài năm, Địch Thanh vóc người cao lớn hơn nhưng cơ thể đã gầy đi nhiều. Trên cái trán của hắn có một vết sẹo nhỏ giống như là nốt ruồi màu hồng, bên trái má có xăm hai chữ "Kiêu Vũ", dưới hàm râu ria mọc tua tủa, dung mạo rất là tiều tụy.
Thấy hai người tránh ra, Địch Thanh chậm rãi đi tới phía trước quan khảo thí, đưa lệnh bài ở thắt lưng ra. Quan khảo thí kiểm tra tỉ mỉ, xác nhận là thật, liền gật đầu nói: "Địch Thanh thi tiễn." Có người đưa cung tên tới, Địch Thanh chậm rãi nhận lấy, nhìn trường cung với vẻ mặt phức tạp, tay cũng có chút run run.
Quan quân cấp bậc thấp muốn thăng chức, cần phải thi bốn loại kĩ thuật là đứng bắn, cưỡi ngựa bắn, võ nghệ và khai nỏ , Địch Thanh nếu muốn từ Thập Tương thăng lên làm Quân Đầu, nhất định phải đứng bắn kéo cung sáu đấu lực, khai nỏ một tạ bảy đấu lực, cưỡi ngựa bắn ba tiễn trúng đích, thi diễn võ nghệ, lúc này mới tùy thuộc vào quan giám thị xét duyệt, quyết định xem có được thăng chức hay không.
Đứng bắn kéo cung sáu đấu lực trước đây đối với Địch Thanh mà nói, không khó chút nào, hắn mặc dù võ nghệ không cao, nhưng suốt ngày đi tới lò rèn giúp đỡ đập sắt, cơ bắp rất mạnh, trước đây cho dù Quách Tuân bất ngờ ra tay cũng không thành công tóm lấy tay hắn. Nhưng mà hiện giờ kéo cung sáu đấu lực đối hắn mà nói là vấn đề vô cùng khó khăn.
"Địch Thanh thi tiễn." Quan giám thị thấy Địch Thanh còn chưa có kéo cung, mà đang trầm ngâm, nên không kiên nhẫn được nữa. Mọi người thấy thế, thốt ra tiếng khinh bỉ, có người kêu lên: "Không được thì trở về ôm con đi, đừng để làm lãng phí thời gian của mọi người. Phía sau có có người chờ đó!"
Địch Thanh âm thầm cắn răng, hét lớn một tiếng, hai tay dùng sức, chỉ nghe "Răng rắc" một tiếng vang lên, hai cánh trường cung đã bị hắn kéo gãy làm đôi. Mọi người cảm thấy kính nể, mặt mang vẻ sợ hãi. Nhưng sau đó hai chân Địch Thanh lảo đảo, mềm nhũn vô lực ngã xuống xuống. Nắm tay ở một tay hắn, móng tay đâm vào thịt, vẻ mặt vô cùng đau đớn.
Mọi người đều xôn xao, không biết chuyện gì đã xảy ra. Thừa Cục than thở: "Kéo cung lại có thể làm cho mình hôn mê, đúng là việc chưa bao giờ xảy ra."
"Ngươi nếu như không nói lời nào, không ai cho rằng ngươi câm đâu." Một người lạnh lùng nói.
Thừa Cục vừa quay đầu lại nhìn, thấy phía sau có một người mũi to như mũi sư tử, bên môi râu mọc rậm rạp làm cho vẻ mặt hắn rất có uy thế. Thừa Cục cuống quít thi lễ nói: "Chỉ Huy Sứ, sao người lại đến nơi đây?" Người kia không để ý tới Thừa Cục, đi tới bên người Địch Thanh và gật đầu ra hiệu với quan giám thị rồi tự mình cõng Địch Thanh ra khỏi đại doanh.
Tương Ngu Hầu thấy người có lỗ mũi sư tử kia đã đi xa, không nhịn được hỏi: "Người kia là ai vậy, cuồng ngạo ghê nhỉ?"
Thừa Cục đem mồ hôi lạnh lau sạch nói: "Người này tên là Vương Tín, chính là Chỉ Huy Sứ của Thần Vệ quân, cũng là bằng hữu của Quách Tuân. Chỉ Huy Sứ ngươi biết không? Cái loại Tương Ngu Hầu như ngươi thì chưa đủ tuổi để mà so sánh đâu."
Tương Ngu Hầu hít một hơi khí lạnh, chỉ có thể lắc đầu nói: "Tên Địch Thanh này số mệnh tốt thật, lại có quan to như Quách Tuân và Vương Tín chiếu cố. Ai... Nếu như ngươi và ta có thể được bọn họ chiếu cố thì nói không chừng đã sớm trở thành một Đô Đầu oai phong rồi."
Trong khi hai người đang ra sức than thở thì Vương Tín đã đem Địch Thanh đặt nằm dưới bóng râm ở bên ngoài quân doanh.
Địch Thanh tỉnh táo lại, nhìn thấy Vương Tín thì vội vàng vươn người đứng dậy nói: "Vương đại nhân, lại là người cõng ta ra đây sao?"
Vương Tín nói: "Nếu như không thể thì cần gì phải miễn cưỡng chứ?"
Khóe miệng Địch Thanh nở ra một nụ cười chua chát, nói rằng: "Ta chính là người lỗ mãng, suy nghĩ không được tỉ mỉ lắm."
Vương Tín nhìn hắn một lúc lâu, lúc này mới nói: "Ta còn có việc, đi trước một bước." Hắn xoay người rời đi, chờ khi Địch Thanh không còn nhìn thấy bản thân nữa, lúc này mới lắc đầu lẫm bẩm nói: "Haiz ... đáng tiếc cho một hán tử như hắn."
Địch Thanh ngồi trở lại dưới tán cây, vẫn còn cảm thấy trong đầu nổ ầm ầm, cảm giác đau đớn mơ hồ, ngẩng đầu nhìn mưa lả lướt bay lất phất, vẻ mặt buồn bã, lẩm bẩm: "Lẽ nào Địch Thanh ta cả đời này cứ mãi là kẻ vô tích sự như thế sao?"
Vốn dĩ Địch Thanh bị Đa Văn Thiên Vương làm tổn thương não bộ, sau khi tỉnh lại đến giờ vẫn di chuyển rất khó khăn mệt mỏi, không thể xuất khí lực được.
Mấy năm nay nhờ có Vương Duy Nhất hết lòng châm cứu nên Địch Thanh mới tránh khỏi trở thành phế nhân, nhưng cây ngân châm trong đầu hắn thì Vương Duy Nhất cũng bó tay không lấy ra được.
Mặc dù Địch Thanh có thể đi lại được nhưng hơi dùng sức một tí là trong đầu lại đau đớn và nhức nhối vô cùng, cho nên hai năm nay hắn tham gia Ma Khám đều thất bại ở giai đoạn kéo cung khai nỏ. Hôm nay nghe thấy người khác bàn tán về mình, mặc dù ngoài mặt bình tĩnh nhưng trong lòng hắn rất căm uất, thực sự không muốn Quách Tuân vì mình mà bị chỉ trích nên liều mạng dùng hết sức để kéo cung, mặc dù kéo gãy trường cung nhưng trong đầu lập tức như bị thiết chùy đánh vào, đau đớn không chịu nổi mà ngất đi.
Ngày đó Quách Tuân đi vào thung lũng Phi Long, ý định ban đầu là muốn rèn luyện cho Địch Thanh nhưng không ngờ lại khiến hắn bị trọng thương, thiếu chút nữa thì mất mạng. Trong lòng Quách Tuân hổ thẹn nên đem hơn một nửa công lao ở thung lũng Phi Long đẩy qua cho Địch Thanh, lại cố gắng giúp Địch Thanh lên tới chức quan Thập Tương. Nhưng Quách Tuân có thể làm đến Điện tiền chỉ huy sử, chịu trách nhiệm hộ vệ hoàng thượng, không chỉ bởi vì võ công cao cường mà còn nhờ vào gia thế tốt. Địch Thanh xuất thân tầm thường mà đến được chức Thập Tương thì đã là năng lực cực hạn Quách Tuân rồi.
Tuy rằng chức quan Thập Tương không cao nhưng nhìn chung áo cơm không cần phải lo, mặc dù Quách Tuân vẫn còn áy náy nhưng Địch Thanh không hề có mảy may ý nghĩ trách hận Quách Tuân, có trách thì chỉ có thể trách số mệnh của mình không tốt mà thôi.
Trong lúc Địch Thanh còn đang đau lòng thì có một thiếu niên hoạt bát chạy đến nói: "Địch nhị ca, thế nào rồi?" Người này chính là Quách Quỳ, chỉ trong một thời gian ngắn mà nó cũng đã cao lớn hơn nhiều, nhưng vẫn không thoát khỏi tính trẻ con. Nó gọi Quách Tuân là đại ca, cho nên gọi Địch Thanh là nhị ca. Mấy năm qua, Địch Thanh sống ở kinh thành cùng với huynh đệ họ Quách vô cùng vui vẻ.
Địch Thanh lắc đầu, Quách Quỳ thấy Địch Thanh có vẻ chán nản, vội vàng an ủi: "Địch nhị ca, đệ biết hết rồi, huynh không cần phải nói nữa." Thấy có mấy người từ Anh Vũ lâu đi ra, đều mang vẻ mặt nghênh ngang kiêu ngạo, Quách Quỳ nói lảng sang chuyện khác: "Địch nhị ca, huynh đừng nghĩ mấy kẻ này tài trí hơn người, thật ra bọn chúng đều là ỷ vào công trạng của phụ thân cả thôi. Phụ thân của bọn chúng không phải nhậm chức ở trong tam ban thì cũng là quan to hai viện. Những người này chỉ như là đống phân, ấy mà lại có thể vào thẳng Anh Vũ lâu. Huynh so với bọn chúng còn giỏi hơn nhiều."
Địch Thanh thầm nghĩ: "Bây giờ mình còn không thể so với đống phân nữa." Hắn bèn nói lảng đi: "Tiểu Quỳ, đệ tìm huynh có chuyện gì?" Hắn ngáp một cái, hứng thú tan hết.
Ánh mắt Quách Quỳ chuyển động, nói rằng: "Thiếu chút nữa quên nói cho huynh một chuyện, đại ca của đệ lại phải rời kinh rồi."
Địch Thanh lo lắng nói: "Huynh ấy đi đâu vậy, có nguy hiểm không?" Thì ra Quách Tuân tuy là Điện tiền chỉ huy sứ nhưng bởi vì võ công cao cường, làm việc trôi chảy nên thường xuyên bị Tam Nha điều đi hỗ trợ Khai Phong phủ cùng quan phủ địa phương xử lý một số vụ án phức tạp, vì thế Quách Tuân hiếm khi có mặt ở kinh thành.
Quách Quỳ nói: "Huynh còn nhớ ba người Quách Mạc Sơn, Trương Hải và Vương Tắc không?"
Địch Thanh vô cùng kinh ngạc nói: "Đương nhiên là nhớ. Ba người này trước đây chính là thuộc hạ của Quách đại ca, sau này mất tích ở thung lũng Phi Long, Quách đại ca lúc nào cũng nhớ mãi không quên... Ba người bọn họ làm sao vậy?"
"Quách Mạc Sơn và Trương Hải tạo phản ở Thiểm Tây rồi." Quách Quỳ nhíu mày nói: "Thanh thế bọn họ bây giờ không nhỏ, đã trở thành tai hoạ ngầm của triều đình. Đại ca biết tin bọn người Quách Mạc Sơn tạo phản, lập tức xin lệnh đi trước tới Thiểm Tây dẹp loạn. Đây dù sao cũng là thuộc hạ của huynh ấy, không rõ vì sao những người này không trở về kinh thành mà lại muốn tạo phản nhỉ?"
Địch Thanh không muốn suy nghĩ nhiều, cười khổ nói: "Chỉ hy vọng Quách đại ca mọi chuyện đều thuận lợi. Tiểu Quỳ, huynh đi dạo một tí." Hắn không được như ý nên muốn tìm một nơi thanh tịnh để tĩnh tâm. Quách Quỳ kêu lên: "Được rồi, Địch nhị ca, đại ca của huynh sợ huynh ở kinh thành thiếu tiền tiêu nên nhờ người mang đến đây ba lượng bạc cho huynh. Này, đây này." Nó nói xong chìa tay đưa tới ba lượng bạc, Địch Thanh không nhận, hỏi: "Có thư không?"
Nhãn châu Quách Quỳ xoay động, cười nói: "Đại ca của huynh không phải không biết chữ à, làm sao lại có thư được?"
Địch Thanh nói: "Tiểu Quỳ, đệ không cần gạt ta nữa, đây là Quách đại ca cho ta đúng không?" Thấy Quách Quỳ không nói, Địch Thanh vỗ vỗ đầu vai Quách Quỳ, nói rằng: "Tiểu Quỳ, huynh chỉ giúp Quách đại ca một lần, huynh ấy thật sự không nợ huynh cái gì hết, hai người đối với huynh quá tốt, huynh còn chưa báo đáp được nữa là."
Quách Quỳ cố gắng ưỡn lồng ngực gầy gò nói: "Chúng ta có phải huynh đệ không nào? Nếu là phải thì không cần nói ra những lời này."
Địch Thanh không nhịn được cười, dí mạnh cái mũi nó nói: "Nhìn bộ dạng của đệ thật giống như một anh hùng hảo hán vậy. Huynh thật sự không thiếu tiền để dùng đâu, huynh có chức quan Thập Tương này, tuy là không làm gì được nhưng bổng lộc của triều đình thì cũng đủ cho huynh không cần lo chuyện ăn uống nữa. Được rồi ... Còn phải làm phiền đệ một việc, huynh có tích góp được mấy lượng bạc, đệ quen biết nhiều, xem thử có thể giúp huynh chuyển số tiền này đến Phần Châu, đưa cho đại ca huynh hay không. Huynh ấy đã một thời gian dài không có tin tức của huynh, e rằng sẽ lo lắng đấy." Địch Thanh móc từ trong lồng ngực ra thỏi bạc nhỏ, trong lòng ít nhiều cũng có chút chua xót.
Trước đây, Địch Vân đánh thức được Địch Thanh xong, thấy em trai quá yếu ớt nên hết sức lo lắng cho Địch Thanh, nhưng trong lòng lại nhớ thương Tiểu Thanh. Địch Thanh đương nhiên biết tâm sự của đại ca nên ra sức thôi thúc hắn trở về. Quách Tuân càng vui vẻ, đề nghị Địch Vân đưa Tiểu Thanh lên sống tại kinh thành luôn, nhưng Địch Vân lại từ chối do không quen sinh hoạt ở kinh thành, bảo rằng kinh thành tốt thì tốt thật nhưng hắn không thích, hơn nữa quê nhà ở Tây Hà, gốc rễ ở Tây Hà, nên không muốn đến kinh thành. Vì thế sau khi Địch Vân thấy đệ đệ đã khỏe hơn thì liền quay về Tây Hà. Quách Tuân hơi có phần khó hiểu nhưng trong lòng Địch Thanh lại biết, đại ca bởi vì chân què, không muốn em trai mình bị mất mặt nên lúc này mới khăng khăng phải quay về. Cũng may Địch Vân sau khi trở về Tây Hà thì cùng Tiểu Thanh làm buôn bán nhỏ, sống qua ngày cũng không đến nỗi nào.
Quách Quỳ nhìn thỏi bạc kia, thầm nghĩ: "Địch nhị ca quả là rất có tính cách, yếu mà không đuối." Không muốn khiến cho Địch Thanh khó xử nữa, nó nhận lấy bạc, nói: "Được, đệ nhất định sẽ chuyển giúp huynh."
Sau khi tạm biệt Quách Quỳ, Địch Thanh cứ thế lững thững bước đi, thấy ven đường có cửa hàng rượu bèn đi vào kêu một cân rượu thường mà uống. Trong lòng hắn thầm tính toán, nếu ở lại kinh thành thì quá nửa là không phát triển được gì, còn muốn quay về Tây Hà thì lại càng không được. Trên mặt mình đã bị xăm chữ, cũng chẳng khác gì phạm nhân rồi, gia nhập cấm quân không dễ, rời khỏi cấm quân lại càng khó khăn hơn. Gã than nhẹ một tiếng, bỏ lại mười văn tiền rồi đi ra khỏi quán, nhất thời chẳng biết gì xung quanh, chỉ thấy tơ liễu bay bay, giống như bông tuyết nhẹ nhàng rơi xuống, phố xá náo nhiệt vô cùng, nhưng đều là tiếng ồn ào rầm rĩ của người ta, chẳng hề liên quan đến bản thân hắn.
Chợt nghe ở phía trước có tiếng trầm trồ khen ngợi, Địch Thanh lúc này mới phát hiện ra mình đã đi qua Châu Kiều, đến chỗ Đại Tướng Quốc Tự. Nơi này có câu lan nhà ngói, ca hát biểu diễn, đúng là cực kỳ náo nhiệt.
Phố phường người qua kẻ lại, hôm nay quả là tiên hoa tranh diễm, vạn vật rộn ràng giữa tiết xuân, hai bên đường tràn đầy cửa hàng và chợ hoa, muôn hồng nghìn tía, hương hoa len lỏi khắp không gian.
Địch Thanh dừng chân nghỉ ngơi, trong lòng đầy phiền muộn. Lúc này phía trước vọng đến vài tiếng chiêng, có một đội kỵ mã chạy trước mở đường, phía sau chạy theo một đoàn văn nhân cưỡi ngựa, mỗi người đường làm quan đều rộng mở, vó ngựa gõ nhẹ trên đường đá..
Có một người dân tấm tắc nói: "Mau nhìn, mau nhìn kìa, thiên tử môn sinh đang dạo phố kìa."
Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua, mới nhớ rằng hôm nay không chỉ là ngày quân nhân tham gia Ma Khám, mà còn là ngày khai bảng khoa cử của văn nhân, mỗi lần vào ngày khoa cử công bố kết quả xướng tên ban thưởng, sĩ tử thi đậu đều được triều đình bố trí tập trung lại một chỗ, tổ chức dạo phố và kỳ tập(1) để an ủi khổ cực mười năm gian khổ học hành.
Nhưng mười năm khổ cực này cũng xứng đáng, bởi vì vinh quang từ nay về sau có thể bù đắp tất cả. Những người này ngoại trừ tiến hành kỳ tập ở Đại Tướng Quốc Tự ra, đêm nay còn có thể đến Quỳnh Lâm Uyển, triều đình mở tiệc rượu, đích thân thánh thượng cùng thái hậu sẽ tới, vinh quang vô cùng. Sau đó những người này sẽ được phái đi tới khắp nơi nhậm chức, dựa vào thành tích để quyết định có được trọng dụng hay không.
Những người này tốc độ thăng chức cực nhanh, quân nhân hoàn toàn không thể so với họ được. Trước đây, Thái Tông sau khi lên ngôi thì hằng năm đều mở khoa cử tuyển chọn học trò, hai người thi đậu là Lữ Mông Chính và Trương Tề Hiền chỉ trong thời gian đúng bảy năm đã tiến vào hai phủ, nhậm chức phó tướng, mà Lữ Mông Chính lại chỉ cần mười hai năm đã ngồi vào vị trí tể tướng, có thể nói là "dưới một người, trên vạn người!"
Thời gian mười hai năm, bảo ngắn cũng không ngắn lắm, nhưng có thể làm cho một người học trò bần hàn ngồi vào vị trí được vạn người chú ý thì sao mà không khiến sĩ tử nghèo khổ trong thiên hạ thèm thuồng cho được? Cũng chẳng trách người trong thiên hạ đều nói, "Nhất cử thủ đăng long hổ bảng, thập niên thân đáo phượng hoàng trì!"
Địch Thanh nhìn cảnh thiên tử môn sinh, cúi đầu nhìn lại bản thân, tự giễu mà cười. Hắn đến kinh thành đã được gần một nửa của mười hai năm rồi, nhưng hôm nay vẫn còn đang lang thang khắp phố phường ngõ hẻm.
Lại một hồi chiêng vang lên, những văn nhân này cưỡi ngựa đi qua, ai nấy đều cười tủm tỉm, bất giác đều ngẩng đầu nhìn về phía trước. Bọn họ không cần phải nhìn bên cạnh và cũng không cần nhìn xuống dưới, bởi vì người nơi nào cũng phải ngẩng đầu lên nhìn bọn họ. Bọn họ chỉ nhìn về phía hai sườn lầu các, nhìn những bóng hồng xuân sơn trong phấn lâu kia.
Tài tử giai nhân vốn đã là giai thoại, bọn họ khổ cực mười năm, bỏ rất nhiều thời gian chẳng phải là vì một đoạn giai thoại này hay sao?
Lúc này đã có không ít giai nhân bước ra khỏi lầu các, hi hi cười nói, ngăn cản đầu ngựa, hướng về phía các tài tử đòi trâm hoa lưu niệm. Quan nhân cũng không ngăn cản, ngược lại còn vui vẻ chấp nhận. Có tài tử được người đẹp ưu ái, vẫn còn rụt rè, cũng có người đã tháo hoa cài trên đầu ném cho người nhìn trúng, giai nhân nhận lấy đều thẹn thùng không nói gì mà chỉ xuống lầu các, mặt tài tử có chút ửng đỏ làm dân chúng một trận cười vang, chỉ chỉ trỏ trỏ, vang lên tiếng tấm tắc.
Hóa ra những giai nhân này đều là nữ tử thanh lâu, nhưng Đại Tống xưa nay không cấm việc này, ngược lại còn được coi là chuyện phong lưu thường tình, vẫn là đề tài chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu(2).
Dân chúng chỉ chỉ trỏ trỏ, thảo luận sôi nổi. Có người nói: "Ê, chú em, trước đây nếu ta không làm thợ nguội, chú không bán đậu hũ, thì chúng ta cũng giống như bọn họ rồi, thật phong lưu nhỉ. Nhìn đám nữ tử này thường ngày làm bộ thanh cao không thể kết thân, vậy mà bây giờ đã nhìn trúng tài năng của mấy người này rồi." Người bạn của hắn cười khẩy nói: "Ngươi đòi giống như thế kia hả, đếm lại xem số chữ mà ngươi biết có được một trăm chưa?"
Lúc này có một phụ nữ chỉ những tài tử này rồi lại len lén chỉ Địch Thanh, dạy dỗ đứa con bướng bỉnh nói: "Con trai, con sau này cần phải đọc sách, đừng có học người kia đi làm lính, 'Nam nhi chẳng việc gì phải tham gia quân ngũ, tham gia quân ngũ chính là lầm lỡ suốt đời', nếu như sau này con đi làm lính thì coi như cả cuộc đời này đã bị hủy hoại rồi."
Đứa bé nghiêm túc gật đầu, sùng kính nhìn tài tử, khinh miệt ngó Địch Thanh. Địch Thanh đứng ở trong đám đông ồn ào, nghe được giọng mỉa mai của người phụ nữ kia, nhìn thấy đám tài tử đã đi xa, tiếng ồn ào rầm rĩ cũng xa dần theo, đột nhiên nhớ tới một câu nói mà mẫu thân thường nói.
Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy!
Địch Thanh đã tiều tụy.
Những năm nay đã trôi qua như nước chảy, cái nghĩa khí nhiệt huyết làm việc năm đó của Địch Thanh giờ đã tiều tụy, tâm cũng mỏi mệt.
Quan cái mãn kinh hoa, nhưng phồn hoa vốn chẳng có quan hệ gì với hắn.
Trước đây sau khi hắn gặp được Quách Tuân, tuy là ép mình tòng quân nhưng cũng mang theo vài phần khát vọng. Hắn khát vọng dựa vào bản lĩnh của chính mình, bằng vào đôi tay mình mà khai phá ra một mảng bầu trời riêng, nhưng trận chiến ở thung lũng Phi Long đã khiến cho hắn bị thương nặng. Hắn biết rõ kéo cung có thể dẫn đến hôn mê nhưng vẫn ngoan cường muốn dùng toàn lực để kéo cung, vì Quách Tuân và cũng vì nỗi phẫn uất cô độc trong lòng.
Hắn từng gặp được mẫu thân lúc đêm khuya, thì thầm căn dặn "Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy; thiên thu vạn tuế danh, tịch mịch thân hậu sự." Đọc đến nỗi rơi lệ ròng ròng...
Địch Thanh khi đó hoàn toàn không hiểu được gì, nhưng vào thời khắc này, sầm uất cùng hiu quạnh, tương phản to lớn, làm cho hắn bỗng dưng cảm nhận được mẫu thân lúc đó thật cô đơn và hiu quạnh.
Địch Thanh muốn khóc, nhưng lại ngẩng đầu lên, đờ đẫn mà bước đi. Trong đầu hắn chợt dần hiện ra khuôn mặt của mẫu thân, nhớ tới mẫu thân nhìn mình, kiên định nói: "Thanh nhi, con sau này nhất định là tể tướng, con hãy tin mẹ. Bởi vì người xem tướng cho mẹ, chính là Trần Đoàn năm đó cùng Thái Tổ chơi cờ." Địch Thanh nghĩ tới đây, lẩm bẩm nói: "Mẹ ... Con tin mẹ, nhưng con không phải không làm, mà là không thể."
Một tiếng chuông khánh vang lớn, Địch Thanh giật mình tỉnh khỏi giấc mộng mấy năm trước. Hắn lúc này mới phát hiện ra mình đã đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự. Trong lòng Địch Thanh bỗng nhiên khẽ động, ý niệm trong đầu dâng lên muốn đi vào bên trong xem thử.
nguồn truyện t u n g h o a n h . c o m
Đại Tướng Quốc Tự là chùa của hoàng thất Đại Tống, quy mô cực lớn, nguy nga lộng lẫy, ánh sáng mặt trời chói lọi, khiến cho mây màu mất sắc. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự có vạn người đến viếng, hơn nữa còn có thiên tử môn sinh tụ họp cho nên người dân xung quanh tham quan điều mới lạ có thể nói là vai sát vai, chen chúc vô cùng.
Địch Thanh đến kinh thành đã nhiều năm nhưng chưa bao giờ vào Đại Tướng Quốc Tự tham quan, bởi vì hắn không phải là người thích náo nhiệt. Nhưng hôm nay vô thức đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự, lại nhớ tới lời nói của Quách Tuân mấy năm trước, hắn bèn vượt qua đoàn người vòng qua phía sau Đại Hùng bảo điện, tới được phía trướcThiên Vương điện.
Bên trong Thiên Vương điện có Tứ Đại Thiên Vương, Di Lặc phật chủ!
Trong đầu Địch Thanh hiện lên lời Quách Tuân năm ấy, "Di Lặc giáo thực ra có lai lịch từ xa xưa, lúc Lương Vũ đế sáng lập Tùy Đường thì đã thành lập. Ngay cả Đại Tướng Quốc Tự trong kinh thành cũng có pho tượng phật Di Lặc, mặt mày hiền hậu, ngồi ở trên đài sen." Địch Thanh sau khi tới kinh thành rồi mới nghe nói, phật Di Lặc này vốn là do thái hậu xây dựng.
Hắn nhớ tới Tứ Đại Thiên Vương, ma xui quỷ khiến thế nào lại nảy sinh ý định tiến vào tham quan Thiên Vương điện. Đến giữa điện, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua thì thấy giữa điện quả nhiên có phật Di Lặc đang ngồi ngay ngắn trên đài sen, mỉm cười mà nhìn con dân bên dưới. Địch Thanh đột nhiên nhớ tới phật Di Lặc âm hiểm ở thung lũng Phi Long, không khỏi rùng mình một cái.
Địch Thanh chưa bao giờ gặp qua người nào âm hiểm, hung ác như vậy, hắn và Quách Tuân sau đó đã đem mọi thứ phát sinh ở thung lũng Phi Long thảo luận qua mấy lần nhưng đều không rõ vì sao Di Lặc phật chủ phải khiến cho tín đồ tự tàn sát lẫn nhau. Mấy năm nay, Diệp Tri Thu lần theo dấu vết từ Đông Hải đến đại mạc, từ thảo nguyên tới Giang Nam, nhưng vẫn không thể đem phật Di Lặc ra công lý.
Phật Di Lặc dường như đã biến mất rồi vậy.
Địch Thanh có linh cảm phật Di Lặc tuyệt đối sẽ không mai danh ẩn tích như thế. Phật Di Lặc ẩn nấp được càng lâu chứng tỏ hắn càng có thể đang bày ra một mưu đồ kinh thiên động địa.
Hồi lâu, ánh mắt Địch Thanh lại rơi vào Tứ Đại Thiên Vương hai bên phật Di Lặc, hắn chỉ có thể nói rằng Tứ Đại Thiên Vương nhìn thấy ở thung lũng Phi Long trước đây, dù là trang phục, mặt nạ hay binh khí so với Tứ Đại Thiên Vương ở giữa điện đều cực kỳ giống nhau.
Địch Thanh nhìn cây tán của Đa Văn Thiên Vương kia, khóe miệng lộ ra một tia cười cay đắng, lẩm bẩm nói: "Nếu các ngươi thật sự tốt thì đương nhiên sẽ có dân chúng thờ phụng, nhưng nếu các ngươi giống như đêm đó, ta vẫn còn muốn giết các ngươi."
Địch Thanh ngơ ngẩn nhìn Đa Văn Thiên Vương, không biết đã qua bao lâu, lúc này mới xoay người lại. Người bên trong điện không nhiều lắm, một người mới vừa rồi đứng ở bên cạnh Địch Thanh hướng về phía phật Di Lặc hành lễ. Khi Địch Thanh xoay người lại thì người đó đã rời khỏi.
Ở trong khoảnh khắc chớp mắt này, Địch Thanh phảng phất trông thấy được khóe miệng người kia hình như lưu lại một nét cười nhưng mà vẻ mặt rất lạnh.
Địch Thanh bị vẻ mặt không hài hoà của người kia hấp dẫn, không khỏi nhìn trộm vài lần. Không ngờ khi người kia vừa tới trước cửa điện thì một cơn gió thổi qua, vén lên trường sam của người đó, Địch Thanh nhìn thấy đai lưng màu xanh biếc của y lộ ra thì bỗng nhiên cảm giác được ngực mình giống như bị đánh một quyền cực mạnh.
Đai lưng màu xanh biếc, ký ức chôn sâu trong lòng Địch Thanh ùa về.
Màu sắc của đai lưng không phải chính là màu trang phục của Đa Văn Thiên Vương kia sao?
Khóe miệng kia hơi mỉm cười nhưng không giống với nụ cười của Đa Văn Thiên Vương ở giữa điện, trong cái từ bi còn mang theo sự lạnh lẽo vô biên.
Địch Thanh nhanh chóng quay đầu lại liếc mắt nhìn tượng phật, càng thêm khẳng định ý nghĩ của mình, xoay người lại lần nữa thì đã phát hiện người kia biến mất không thấy tăm hơi. Địch Thanh cất bước muốn truy đuổi thì đột nhiên cảm thấy trong đầu đau nhức khủng khiếp, lảo đảo muốn ngã, không biết làm sao, nhưng suy nghĩ này trước giờ chưa từng có. Sau lưng người kia không phải đeo theo một cái túi hình dạng dài sao? Ở bên trong đó có thể là cây dù hay không? Người đi đường lưng đeo một cây dù cũng không khác thường lắm, nhưng cây dù của người này đeo chính là vũ khí đã làm cho Địch Thanh đau khổ nhiều năm!
Người kia chính là Đa Văn Thiên Vương!
--------------------------
Chú thích:
(1) kỳ tập: gặp gỡ định kỳ. Đặc biệt chỉ có sĩ tử sau khi thi đậu dựa theo lệ cũ tập trung dạo chơi và tiệc rượu.
(2) trà dư tửu hậu: giờ rỗi rãi (sau khi cơm nước xong)"
Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua, mới nhớ rằng hôm nay không chỉ là ngày quân nhân tham gia Ma Khám, mà còn là ngày khai bảng khoa cử của văn nhân, mỗi lần vào ngày khoa cử công bố kết quả xướng tên ban thưởng, sĩ tử thi đậu đều được triều đình bố trí tập trung lại một chỗ, tổ chức dạo phố và kỳ tập(1) để an ủi khổ cực mười năm gian khổ học hành.
Nhưng mười năm khổ cực này cũng xứng đáng, bởi vì vinh quang từ nay về sau có thể bù đắp tất cả. Những người này ngoại trừ tiến hành kỳ tập ở Đại Tướng Quốc Tự ra, đêm nay còn có thể đến Quỳnh Lâm Uyển, triều đình mở tiệc rượu, đích thân thánh thượng cùng thái hậu sẽ tới, vinh quang vô cùng. Sau đó những người này sẽ được phái đi tới khắp nơi nhậm chức, dựa vào thành tích để quyết định có được trọng dụng hay không.
Những người này tốc độ thăng chức cực nhanh, quân nhân hoàn toàn không thể so với họ được. Trước đây, Thái Tông sau khi lên ngôi thì hằng năm đều mở khoa cử tuyển chọn học trò, hai người thi đậu là Lữ Mông Chính và Trương Tề Hiền chỉ trong thời gian đúng bảy năm đã tiến vào hai phủ, nhậm chức phó tướng, mà Lữ Mông Chính lại chỉ cần mười hai năm đã ngồi vào vị trí tể tướng, có thể nói là "dưới một người, trên vạn người!"
Thời gian mười hai năm, bảo ngắn cũng không ngắn lắm, nhưng có thể làm cho một người học trò bần hàn ngồi vào vị trí được vạn người chú ý thì sao mà không khiến sĩ tử nghèo khổ trong thiên hạ thèm thuồng cho được? Cũng chẳng trách người trong thiên hạ đều nói, "Nhất cử thủ đăng long hổ bảng, thập niên thân đáo phượng hoàng trì!"
Địch Thanh nhìn cảnh thiên tử môn sinh, cúi đầu nhìn lại bản thân, tự giễu mà cười. Hắn đến kinh thành đã được gần một nửa của mười hai năm rồi, nhưng hôm nay vẫn còn đang lang thang khắp phố phường ngõ hẻm.
Lại một hồi chiêng vang lên, những văn nhân này cưỡi ngựa đi qua, ai nấy đều cười tủm tỉm, bất giác đều ngẩng đầu nhìn về phía trước. Bọn họ không cần phải nhìn bên cạnh và cũng không cần nhìn xuống dưới, bởi vì người nơi nào cũng phải ngẩng đầu lên nhìn bọn họ. Bọn họ chỉ nhìn về phía hai sườn lầu các, nhìn những bóng hồng xuân sơn trong phấn lâu kia.
Tài tử giai nhân vốn đã là giai thoại, bọn họ khổ cực mười năm, bỏ rất nhiều thời gian chẳng phải là vì một đoạn giai thoại này hay sao?
Lúc này đã có không ít giai nhân bước ra khỏi lầu các, hi hi cười nói, ngăn cản đầu ngựa, hướng về phía các tài tử đòi trâm hoa lưu niệm. Quan nhân cũng không ngăn cản, ngược lại còn vui vẻ chấp nhận. Có tài tử được người đẹp ưu ái, vẫn còn rụt rè, cũng có người đã tháo hoa cài trên đầu ném cho người nhìn trúng, giai nhân nhận lấy đều thẹn thùng không nói gì mà chỉ xuống lầu các, mặt tài tử có chút ửng đỏ làm dân chúng một trận cười vang, chỉ chỉ trỏ trỏ, vang lên tiếng tấm tắc.
Hóa ra những giai nhân này đều là nữ tử thanh lâu, nhưng Đại Tống xưa nay không cấm việc này, ngược lại còn được coi là chuyện phong lưu thường tình, vẫn là đề tài chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu(2).
Dân chúng chỉ chỉ trỏ trỏ, thảo luận sôi nổi. Có người nói: "Ê, chú em, trước đây nếu ta không làm thợ nguội, chú không bán đậu hũ, thì chúng ta cũng giống như bọn họ rồi, thật phong lưu nhỉ. Nhìn đám nữ tử này thường ngày làm bộ thanh cao không thể kết thân, vậy mà bây giờ đã nhìn trúng tài năng của mấy người này rồi." Người bạn của hắn cười khẩy nói: "Ngươi đòi giống như thế kia hả, đếm lại xem số chữ mà ngươi biết có được một trăm chưa?"
Lúc này có một phụ nữ chỉ những tài tử này rồi lại len lén chỉ Địch Thanh, dạy dỗ đứa con bướng bỉnh nói: "Con trai, con sau này cần phải đọc sách, đừng có học người kia đi làm lính, 'Nam nhi chẳng việc gì phải tham gia quân ngũ, tham gia quân ngũ chính là lầm lỡ suốt đời', nếu như sau này con đi làm lính thì coi như cả cuộc đời này đã bị hủy hoại rồi."
Đứa bé nghiêm túc gật đầu, sùng kính nhìn tài tử, khinh miệt ngó Địch Thanh. Địch Thanh đứng ở trong đám đông ồn ào, nghe được giọng mỉa mai của người phụ nữ kia, nhìn thấy đám tài tử đã đi xa, tiếng ồn ào rầm rĩ cũng xa dần theo, đột nhiên nhớ tới một câu nói mà mẫu thân thường nói.
Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy!
Địch Thanh đã tiều tụy.
Những năm nay đã trôi qua như nước chảy, cái nghĩa khí nhiệt huyết làm việc năm đó của Địch Thanh giờ đã tiều tụy, tâm cũng mỏi mệt.
Quan cái mãn kinh hoa, nhưng phồn hoa vốn chẳng có quan hệ gì với hắn.
Trước đây sau khi hắn gặp được Quách Tuân, tuy là ép mình tòng quân nhưng cũng mang theo vài phần khát vọng. Hắn khát vọng dựa vào bản lĩnh của chính mình, bằng vào đôi tay mình mà khai phá ra một mảng bầu trời riêng, nhưng trận chiến ở thung lũng Phi Long đã khiến cho hắn bị thương nặng. Hắn biết rõ kéo cung có thể dẫn đến hôn mê nhưng vẫn ngoan cường muốn dùng toàn lực để kéo cung, vì Quách Tuân và cũng vì nỗi phẫn uất cô độc trong lòng.
Hắn từng gặp được mẫu thân lúc đêm khuya, thì thầm căn dặn "Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy; thiên thu vạn tuế danh, tịch mịch thân hậu sự." Đọc đến nỗi rơi lệ ròng ròng...
Địch Thanh khi đó hoàn toàn không hiểu được gì, nhưng vào thời khắc này, sầm uất cùng hiu quạnh, tương phản to lớn, làm cho hắn bỗng dưng cảm nhận được mẫu thân lúc đó thật cô đơn và hiu quạnh.
Địch Thanh muốn khóc, nhưng lại ngẩng đầu lên, đờ đẫn mà bước đi. Trong đầu hắn chợt dần hiện ra khuôn mặt của mẫu thân, nhớ tới mẫu thân nhìn mình, kiên định nói: "Thanh nhi, con sau này nhất định là tể tướng, con hãy tin mẹ. Bởi vì người xem tướng cho mẹ, chính là Trần Đoàn năm đó cùng Thái Tổ chơi cờ." Địch Thanh nghĩ tới đây, lẩm bẩm nói: "Mẹ ... Con tin mẹ, nhưng con không phải không làm, mà là không thể."
Một tiếng chuông khánh vang lớn, Địch Thanh giật mình tỉnh khỏi giấc mộng mấy năm trước. Hắn lúc này mới phát hiện ra mình đã đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự. Trong lòng Địch Thanh bỗng nhiên khẽ động, ý niệm trong đầu dâng lên muốn đi vào bên trong xem thử.
Đại Tướng Quốc Tự là chùa của hoàng thất Đại Tống, quy mô cực lớn, nguy nga lộng lẫy, ánh sáng mặt trời chói lọi, khiến cho mây màu mất sắc. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự có vạn người đến viếng, hơn nữa còn có thiên tử môn sinh tụ họp cho nên người dân xung quanh tham quan điều mới lạ có thể nói là vai sát vai, chen chúc vô cùng.
Địch Thanh đến kinh thành đã nhiều năm nhưng chưa bao giờ vào Đại Tướng Quốc Tự tham quan, bởi vì hắn không phải là người thích náo nhiệt. Nhưng hôm nay vô thức đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự, lại nhớ tới lời nói của Quách Tuân mấy năm trước, hắn bèn vượt qua đoàn người vòng qua phía sau Đại Hùng bảo điện, tới được phía trướcThiên Vương điện.
Bên trong Thiên Vương điện có Tứ Đại Thiên Vương, Di Lặc phật chủ!
Trong đầu Địch Thanh hiện lên lời Quách Tuân năm ấy, "Di Lặc giáo thực ra có lai lịch từ xa xưa, lúc Lương Vũ đế sáng lập Tùy Đường thì đã thành lập. Ngay cả Đại Tướng Quốc Tự trong kinh thành cũng có pho tượng phật Di Lặc, mặt mày hiền hậu, ngồi ở trên đài sen." Địch Thanh sau khi tới kinh thành rồi mới nghe nói, phật Di Lặc này vốn là do thái hậu xây dựng.
Hắn nhớ tới Tứ Đại Thiên Vương, ma xui quỷ khiến thế nào lại nảy sinh ý định tiến vào tham quan Thiên Vương điện. Đến giữa điện, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua thì thấy giữa điện quả nhiên có phật Di Lặc đang ngồi ngay ngắn trên đài sen, mỉm cười mà nhìn con dân bên dưới. Địch Thanh đột nhiên nhớ tới phật Di Lặc âm hiểm ở thung lũng Phi Long, không khỏi rùng mình một cái.
Địch Thanh chưa bao giờ gặp qua người nào âm hiểm, hung ác như vậy, hắn và Quách Tuân sau đó đã đem mọi thứ phát sinh ở thung lũng Phi Long thảo luận qua mấy lần nhưng đều không rõ vì sao Di Lặc phật chủ phải khiến cho tín đồ tự tàn sát lẫn nhau. Mấy năm nay, Diệp Tri Thu lần theo dấu vết từ Đông Hải đến đại mạc, từ thảo nguyên tới Giang Nam, nhưng vẫn không thể đem phật Di Lặc ra công lý.
Phật Di Lặc dường như đã biến mất rồi vậy.
Địch Thanh có linh cảm phật Di Lặc tuyệt đối sẽ không mai danh ẩn tích như thế. Phật Di Lặc ẩn nấp được càng lâu chứng tỏ hắn càng có thể đang bày ra một mưu đồ kinh thiên động địa.
Hồi lâu, ánh mắt Địch Thanh lại rơi vào Tứ Đại Thiên Vương hai bên phật Di Lặc, hắn chỉ có thể nói rằng Tứ Đại Thiên Vương nhìn thấy ở thung lũng Phi Long trước đây, dù là trang phục, mặt nạ hay binh khí so với Tứ Đại Thiên Vương ở giữa điện đều cực kỳ giống nhau.
Địch Thanh nhìn cây tán của Đa Văn Thiên Vương kia, khóe miệng lộ ra một tia cười cay đắng, lẩm bẩm nói: "Nếu các ngươi thật sự tốt thì đương nhiên sẽ có dân chúng thờ phụng, nhưng nếu các ngươi giống như đêm đó, ta vẫn còn muốn giết các ngươi."
Địch Thanh ngơ ngẩn nhìn Đa Văn Thiên Vương, không biết đã qua bao lâu, lúc này mới xoay người lại. Người bên trong điện không nhiều lắm, một người mới vừa rồi đứng ở bên cạnh Địch Thanh hướng về phía phật Di Lặc hành lễ. Khi Địch Thanh xoay người lại thì người đó đã rời khỏi.
Ở trong khoảnh khắc chớp mắt này, Địch Thanh phảng phất trông thấy được khóe miệng người kia hình như lưu lại một nét cười nhưng mà vẻ mặt rất lạnh.
Địch Thanh bị vẻ mặt không hài hoà của người kia hấp dẫn, không khỏi nhìn trộm vài lần. Không ngờ khi người kia vừa tới trước cửa điện thì một cơn gió thổi qua, vén lên trường sam của người đó, Địch Thanh nhìn thấy đai lưng màu xanh biếc của y lộ ra thì bỗng nhiên cảm giác được ngực mình giống như bị đánh một quyền cực mạnh.
Đai lưng màu xanh biếc, ký ức chôn sâu trong lòng Địch Thanh ùa về.
Màu sắc của đai lưng không phải chính là màu trang phục của Đa Văn Thiên Vương kia sao?
Khóe miệng kia hơi mỉm cười nhưng không giống với nụ cười của Đa Văn Thiên Vương ở giữa điện, trong cái từ bi còn mang theo sự lạnh lẽo vô biên.
Địch Thanh nhanh chóng quay đầu lại liếc mắt nhìn tượng phật, càng thêm khẳng định ý nghĩ của mình, xoay người lại lần nữa thì đã phát hiện người kia biến mất không thấy tăm hơi. Địch Thanh cất bước muốn truy đuổi thì đột nhiên cảm thấy trong đầu đau nhức khủng khiếp, lảo đảo muốn ngã, không biết làm sao, nhưng suy nghĩ này trước giờ chưa từng có. Sau lưng người kia không phải đeo theo một cái túi hình dạng dài sao? Ở bên trong đó có thể là cây dù hay không? Người đi đường lưng đeo một cây dù cũng không khác thường lắm, nhưng cây dù của người này đeo chính là vũ khí đã làm cho Địch Thanh đau khổ nhiều năm!
Người kia chính là Đa Văn Thiên Vương!
Sao lại gặp được Đa Văn Thiên Vương ở Đại Tướng Quốc Tự?
Địch Thanh nghĩ tới đây, trong lòng rất đau thương, hai tay nắm chặt, móng tay đã đâm sâu vào thịt. Đau nhức ở lòng bàn tay xua tan cái đau ở trong đầu Địch Thanh, lòng báo thù trỗi dậy, hắn lao ra khỏi Thiên Vương điện, khàn giọng nói: "Chớ có đi!" Lúc đó hắn hoàn toàn không nghĩ đến chuyện mình không phải là đối thủ của Đa Văn Thiên Vương.
Nhưng Địch Thanh vừa mới lao ra khỏi Thiên Vương điện, thì có hai người đang đi đến. Một người đang muốn tiến vào trong điện thì vừa vặn bị Địch Thanh đâm vào, không khỏi "Ai u" một tiếng, ngồi bệt ở trên mặt đất.
Thanh âm như dòng nước xuân ấm áp nhuốm vẻ mỏi mệt, thì ra người bị Địch Thanh đụng vào chính là một cô gái.
Địch Thanh quay đầu lại xin lỗi qua loa rồi vội vàng chạy đi, nghiêng người liếc mắt nhìn nàng kia một cái, chỉ thấy được nàng có một đôi mắt trong veo như hồ thu.
Nha hoàn bên cạnh nàng nói: "Tiểu thư, người này thật vô lễ."
Địch Thanh nghe được lời trách móc này thì trong lòng cảm thấy áy náy, nhưng hắn đang nóng lòng truy tìm Đa Văn Thiên Vương nên không thể quay lại. Chạy vội một hồi thì đã ra khỏi Tướng Quốc Tự, người đi đường rất nhiều, đeo dù cũng nhiều nhưng không có ai thắt đai lưng màu xanh biếc cả.
Địch Thanh dừng bước, ngỡ ngàng nhìn xung quanh, lại đuổi theo về một hướng khác. Hắn giống như con ruồi không đầu, chạy loạn xa khắp nơi nhìn bốn phía xung quanh, không hề để ý đến ánh mắt tràn đầy vẻ kinh ngạc của mọi người xung quanh nhìn hắn. Không biết đã qua bao lâu, tiếng chuông khánh xa xa truyền đến, Địch Thanh lúc này mới dừng lại, đấm một đấm vào cây hòe ở bên cạnh, phát hiện bản thân mồ hôi nhễ nhại, uể oải không chịu nổi.
Tìm không được rồi, tìm không được rồi.
Trong lòng Địch Thanh vang lên tiếng gào thét điên cuồng, trong mắt lửa giận hừng hực, không ngừng nghĩ đến, "Đa Văn Thiên Vương vì sao lại tới nơi này? Hắn tới nơi này một lần, có khi còn trở lại? Nhưng cũng có thể hắn chỉ tình cờ đi qua đây, cả đời này không bao giờ đến nữa!"
Tâm tư của Địch Thanh như nước thủy triều, trong lúc nóng nảy lại chợt nghe thấy giọng nói một thiếu nữ nói: "Tiểu thư, chính là người này đã làm tiểu thư ngã, ánh mắt hắn rất hung ác."
Địch Thanh nghe xong ngẩn ra, quay đầu nhìn lại thì thấy được có hai người con gái đang nhìn mình, nàng bên trái quần áo màu xanh nhạt, trang phục của một nha hoàn, đang dìu đỡ tiểu thư ở bên phải. Tiểu thư này khuôn mặt như tranh, y phục trắng hơn tuyết, màu da so với y phục còn muốn trắng hơn vài phần, thấy Địch Thanh nhìn đến thì sóng mắt trong vắt như nước dời đi, nhỏ giọng nói với nha hoàn, "Đừng có gây sự."
Tâm tư Địch Thanh rối loạn, muốn tới xin lỗi nhưng lại không nghĩ ra được lời nào để nói, bị ánh mắt trong veo của nàng kia quét qua thì càng không được tự nhiên. Dưới tình thế cấp bách này, hắn liền xoay người bỏ đi, nhưng vẫn còn có thể nghe được tiếng lầm bầm của nha hoàn này nói: "Tiểu thư, lần này vốn định đi xem hoa mẫu đơn, nhưng chân của người bị trẹo rồi, còn có thể đi được không?"
Tiểu thư này đáp: "Thật khó khắn lắm mới đi ra ngoài được một lần, ài ... dù sao vẫn muốn đi xem xem." Trong giọng nói nhu nhược của nàng còn mang theo một chút thất vọng.
Nha hoàn nói: "Cũng được, nhưng chỉ sợ ở đây không có hoa gì đẹp nữa, không bằng Diêu Hoàng ở nhà mình..."
Tiểu thư kia than nhẹ một tiếng, cũng không nói gì nữa.
Giọng nói dần dần xa xa, Địch Thanh có chút bất an, muốn quay trở lại nhưng không có dũng khí. Hắn vốn là kẻ không sợ trời không sợ đất, trước đây cho dù đơn độc đối đầu với đám tai sai của Triệu Vũ Đức, lúc dũng cảm đâm Tăng Trưởng Thiên Vương võ công cao tuyệt cũng không có nhút nhát như vậy, chẳng biết vì sao lúc này hắn lại sợ nhìn thấy đôi mắt đen như hạt châu, ánh mắt sáng trong thanh tịnh của nàng kia.
Không biết đã đi được bao xa, phía trước có mùi thơm truyền đến. Địch Thanh nhìn đến thấy ở nơi xa có một lán hoa, hoa mẫu đơn đang nở rộ, bèn tới gần xem thử.
Người bán hoa chính là một ông lão, nếp nhăn trên mặt giống như bùn đất bên trong chậu hoa, tràn đầy tang thương, thấy Địch Thanh đi tới liền chạy đến hỏi: "Khách quan, muốn mua hoa sao?"
"Chỉ xem thôi." Địch Thanh nói cho lấy lệ. Hắn kỳ thật cũng không tính là người thích hoa, văn thần trong triều rất thích trâm hoa, mỗi lúc gặp dịp tiết khánh, cả triều càng trâm hoa, nhưng Địch Thanh dù sao vẫn cho rằng một người nam nhân nhuốm máu đào, ít nhiều cũng có chút không được tự nhiên.
Ông lão thấy khách bên cạnh, nhiệt tình giới thiệu nói: "Khách quan, nơi này có Tử Kim Bàn, Điệp Lâu Thúy, Bạch Ngọc Băng và Mãn Đường Hồng, đều rất đẹp, nếu mua một chậu về nhà bày trí, nhìn sẽ rất đẹp đó." Lán bán hoa này, đều đặt cho những loài hoa một cái tên lịch sự tao nhã, tìm cách thu hút ánh mắt của khách nhân.
Địch Thanh nhìn thấy cái mà gọi là Tử Kim Bàn chính là mẫu đơn màu nâu son viền vàng rất hiếm thấy; Điệp Lâu Thúy là mẫu đơn xanh biếc, cánh hoa trùng điệp, tương đối xinh đẹp; Bạch Ngọc Băng kia tên cũng như nghĩa chính là màu trắng; Mãn Đường Hồng thì toàn thân màu hồng. Mẫu đơn nở rộ, quả thực là tranh kỳ đoạt diễm. Ánh mắt Địch Thanh đảo qua, đột nhiên hỏi: "Có cây gì tên là ... Diêu Hoàng không?"
Ông lão ngẩn ra, lắc đầu nói: "Diêu Hoàng thì cực kỳ quý báu, đường kính hoa này hơn xích, lão cũng chỉ gặp qua một lần mà thôi, nhưng ở đây lại không có bán."
Địch Thanh hỏi: "Ở đâu có bán vậy?"
Ông lão lắc đầu nói: "Ta không biết, nhưng mà loại hoa này ... chỉ có nhà quyền thế phú quý mới có khả năng mua được thôi." Lão thấy Địch Thanh ăn mặc giản dị, nhịn không được mà nhắc nhở nói.
Địch Thanh nghe lão bán hoa nói như vậy, thầm nghĩ nói: "Tiểu thư kia trong nhà có Diêu Hoàng, chắc là người phú quý rồi." Hắn mới vừa rồi chỉ nhìn thoáng qua, bị dung mạo của tiểu thư kia làm cho hấp dẫn nên không dám nhìn lâu, chỉ ngờ ngợ cảm thấy tiểu thư kia cực kỳ xinh đẹp, nhưng y phục như thế nào thì không nhớ.
Đang chìm trong suy tính thì hắn trông thấy có chậu mẫu đơn nở hoa màu vàng óng ánh ở trong bụi hoa thơm cỏ lạ đua sắc có vẻ điềm tĩnh an bình. Địch Thanh chậm rãi đến gần, đứng trước hoa nghỉ chân một lát. Lão hán giới thiệu nói: "Khách quan, hoa này đây là ..."
Chưa kịp nói xong, bên ngoài lán đột nhiên có người hô lớn: "Cao lão đầu, ngươi đã chuẩn bị xong chưa?"
Ông lão quay đầu lại nhìn lên, thấy ba tên du côn đứng ở trước lán, phía bên trái là một người có dáng người ục ịch, ở giữa là một tên đội mũ lệch, phía bên phải là một tên phanh ngực, ở trên mặt xăm một con mãnh hổ dữ tợn, cử chỉ của ba người này vô cùng kiêu ngạo ngang ngược, chỉ thiếu xăm hai chữ "Lưu manh" trên mặt nữa thôi.
Lão Cao thấy thế hoảng sợ bước lên phía trước nói: "Các vị, chuẩn bị cái gì vậy?"
Tên đội mũ lệch nói: "Ngươi giả bộ hồ đồ phải không? Phí bảo vệ lán nên giao nộp rồi phải không nhỉ?"
Lão Cao vội la lên: "Mấy ngày trước không phải đã nộp rồi sao?"
Tên đội mũ lệch cười lạnh nói: "Ngươi vài ngày trước đã ăn cơm rồi, chẳng lẽ ngày hôm nay không cần phải ăn nữa sao?"
Tên xăm mặt kia gật đầu phụ họa nói: "Lão đại nói có lý."
Lão Cao vội la lên: "Lão bán hoa chỉ đủ nuôi bản thân mình, nào có dư thừa tiền đâu? Các vị ... à, tháng sau lại nộp tiền được không?"
Tên đội mũ lệch cười lạnh nói: "Vậy tháng sau ngươi mới ăn có được hay không hả?"
Tên xăm mặt kia lại khen: "Lão đại nói có lý."
Địch Thanh nghe thấy thế đã biết là có chuyện gì đã xảy ra, chậm rãi đi tới lạnh lùng thốt: "Các ngươi có biết nhục không?"
Tên đội mũ lệch nghe vậy cả giận nói: "Ngươi là ai?"
Địch Thanh thản nhiên nói: "Các ngươi dù cho không biết nhục, lẽ nào cũng không biết chữ sao?"
Tên đội mũ lệch kia ngẩn ra, hét lớn: "Đại gia không biết chữ, quan hệ gì với ngươi mà ở đây lải nhải?" Con ngươi tên ục ịch vừa chuyển, nhìn thấy trên mặt Địch Thanh xăm chữ thì biến sắc, nói khẽ với tên đội mũ lệch: "Đại ca, người kia chính là cấm quân." Tên đội mũ lệch chỉ biết đắc ý kiêu ngạo, lúc này mới nhìn thấy trên mặt Địch Thanh có xăm chữ, sắc mặt liền khẽ biến. Bọn chúng dù sao cũng chỉ là du côn, thường ngày chỉ dọa dẫm bắt nạt kẻ yếu mà sống chứ nào dám đắc tội với cấm quân, biết thân phận của đối phương thì ngay lập tức êm ái lại, cười làm lành nói: "Vị đại gia này, tiểu nhân dốt nát, thuở nhỏ nhà nghèo đâu có tiền mời thầy dạy học, nên không biết chữ, không nhận ra đại gia, xin người rộng lượng bỏ qua." Bộ mặt hắn liền thay đổi nói với lão Cao: "Chỉ đùa một chút với lão thôi, đừng có tin là thật nhé!" Dứt lời nháy mắt với hai người huynh đệ, ảo não mà rời đi.
Lão Cao thở phào nhẹ nhõm, nói với Địch Thanh: "Vị quan gia này, đa tạ người đã giúp đỡ. Lúc này kinh thành thuế má không nhẹ, vậy mà còn phải đối phó với đám vô lại này, thật là khiến người ta đau đầu." Dứt lời lão lắc đầu, vẻ mặt bất đắc dĩ.
Địch Thanh cười, quay đầu lại nhìn chậu hoa mẫu đơn màu vàng rực rỡ kia, hỏi: "Hoa kia bán bao nhiêu tiền vậy?"
Lão Cao cười theo nói: "Quan gia nếu như thích thì cứ việc cầm lấy đi là được, một chậu hoa này coi như lão tặng cho ngài."
Địch Thanh cười đáp: "Ta chỉ là một cấm quân tầm thường, không phải là cái gì gia đâu. Nếu ta không trả tiền thì có khác gì bọn du côn kia chứ?" Hắn liền chìa bàn tay đưa tới một vài đồng tiền nói: "Chừng này đủ chưa vậy?"
Lão Cao liên tục gật đầu: "Vậy là đủ rồi, dư nữa, dư nữa."
Địch Thanh bỏ đồng tiền xuống cầm chậu hoa đi ra ngoài, nhưng đột nhiên sửng sốt, hóa ra cô gái áo trắng kia mang theo nha hoàn đang ở bên ngoài lán nhìn mình. Địch Thanh đem chậu hoa này đặt ở trước người nàng, không nói được lời nào, trong nháy mắt xoay người rời đi. Người con gái áo trắng kia vô cùng ngạc nhiên, gọi: "Ê ..." Nhưng giọng nói của nàng yếu ớt như muỗi kêu, Địch Thanh không biết có nghe được hay không, sớm đã lẫn vào trong biển người.
Nha hoàn bĩu môi nói: "Chỉ có một chậu hoa phế phẩm như thế, sao có thể so sánh với Diêu Hoàng trong nhà mình được? Tiểu thư, cô nói xem đúng không? Hắn đụng tiểu thư bị thương, chẳng lẽ muốn bồi thường bằng chậu hoa này hay sao? Nếu không phải tiểu thư rộng lượng, chúng ta đem hắn giao cho Khai Phong phủ, đánh hắn hơn chục hèo! Hừ!"
Vị tiểu thư áo trắng dịu dàng nói: "Hình như lúc nãy hắn có việc gấp đó. Em không thấy hắn giúp đỡ ông lão bán hoa ở đây sao? Nói như vậy ... hắn chính là người tốt." Thì ra mới vừa rồi Địch Thanh đuổi đi ba tên du côn kia, hai người chủ tớ này đều trông thấy.
Lão già nghe nha hoàn nói đây là hoa phế phẩm thì có chút bất mãn nói: "Vị cô nương này, hoa của lão không phải là hoa phế phẩm, cô xem nó nở nhiều hoa đẹp không này. Hơn nữa loại hoa này, không phải lão khoác lác, xung quanh trăm dặm cũng rất hiếm thấy."
Người con gái áo trắng ngồi xuống nhìn chậu hoa kia, đột nhiên nói: "Ông à, hoa này thật kỳ lạ, trên cánh hoa sao lại có vân hình trái tim vậy? Ông thử nhìn hoa văn ở đây này, rất là kỳ quái, nếu như nhìn kỹ sẽ thấy ở cạnh hoa có vẽ một cây sáo bằng ngọc đó." Nàng quan sát cực kỳ tỉ mỉ, nhìn ra được hoa này có chỗ bất thường.
Ông lão tự hào nói: "Đương nhiên rồi, hoa này mặc dù không nổi tiếng nhưng những nơi khác đều không có. Lão đã gặp được một người tao nhã, đặt cho hoa này một cái tên, gọi là Phượng Cầu Hoàng!"