Hai ngày đã trôi qua, vào cuối thời hạn đó ông nhận được một lời nhắn của Guildea, mời ông tới gặp ông ta ngay buổi chiều hôm đó, nếu có thể. Ông bị cản trở không tới được vì ông bị giữ lại bởi một cuộc hội họp ở khu Đông. Ngày hôm sau là ngày Chủ nhật, ông viết thư nói rằng ông sẽ tới vào ngày thứ Hai, và sau đó ít lâu ông nhận được một bức điện tín: :Được, ngày thứ Hai mời cha tới dùng bữa lúc bảy giờ ba mươi. Guildea”. Lúc bảy giờ rưỡi, ông đã đứng trước số nhà 100.
Pittng mở cửa cho ông. - Pitting này, ông giáo sư vẫn hoàn toàn khỏe mạnh chứ? Ông cha vừa hỏi vừa cởi bỏ cái áo lễ của ông ra. - Thưa ông, tôi tin rằng ông ấy vẫn khỏe ạ. Ông ấy không phàn nàn gì cả - người đầu bếp trả lời một cách trịnh trọng lễ phép. Thưa ông, ông có muốn lên trên lầu không ạ? Guildea tiếp đón họ ở cửa phòng đọc sách. Ông rất nhợt nhạt và có vẻ ảm đạm, ông nắm lấy bàn tay người bạn một cách lơ đãng. - Dọn bữa ăn tối cho chúng tôi. Ông nói với Pitting. Khi người đầu bếp ra khỏi, Guildea đóng cửa lại với sự thận trọng. Chưa bao giờ cha Murchison nhìn thấy ông bối rối như thế. - Ông đang lo lắng, ông Guildea, rất lo lắng. - Phải, thật vậy. Hiệu ứng của chuyện này bắt đầu làm cho tôi cảm thấy một cách nghiêm trọng. - Vậy là ông vẫn khăng khăng một mực tin vào sự hiện diện của một người nào đó trong nhà ông? - Chắc chắn vậy. Phải, tôi không còn có một chút nghi ngờ nào về việc này. Buổi tối mà tôi ra khỏi nhà để đi tới tận công viên thì một vật nào đó đã vào trong nhà. Nhưng vật đó là cái quỉ quái gì vậy? Tôi vẫn thấy không thể phát hiện ra nó. Nhưng trước khi chúng ta đi xuống dùng bữa, tôi muốn tiết lộ với cha một vài điều về vấn đề cái bằng chứng này mà tôi đã hứa với cha. Cha có nhớ không? - Dĩ nhiên là nhớ chứ. - Cha không có ý nghĩ nào về vật đó có thể là cái gì chứ? Cha Murchison ra dấu hiệu là không. - Xin cha hãy nhìn trong căn phòng. Guildca nói. Cha trông thấy những gì? - Không có gì khác thường cả. Chắc ông sẽ không nói với tôi rằng đã có một con ma nào đó... - Ồ! Không, không. Không có ma dưới hình dạng thông thường được che phủ bằng màu trắng và thoảng như khói, như hơi, nhờ ơn Chúa độ trì, tôi không bị đọa đày đến thế đâu. Giọng nói của ông bộc lộ một sự bực bội cao độ. - Cha hãy nhìn nữa đi! Cha Murchison nhìn ông, rồi quay lại phía mà cái nhìn của Guildea đang gắn chặt, và cha thấy con két màu xám đang leo trong cái chuồng một cách chậm chạp và bướng bỉnh. - Làm sao? Ông nói một cách nôn nóng. Bằng chứng tới từ chỗ đó à? Ông giáo sư gật đầu xác nhận. - Tôi tin vào việc đó, ông nói. Bây giờ chúng ta hãy xuống ăn bữa tối đã. Tôi rất cần phải nắm lấy một vật gì. Họ đi xuống phòng ăn. Trong lúc họ ăn và Pitting đứng hầu họ, vị giáo sự nói về loài chim, về những tập tục của chúng, về sự tò mò của chúng, về những nỗi sợ sệt của chúng, và về những năng khiếu bắt chước của chúng. Rõ ràng là ông đã nghiên cứu vấn đề này đến nơi đến chốn với một lương tâm vốn đã là đặc tính của ông trong mọi công việc mà ông đã làm. Những con két có trí khôn phi thường về sự quan sát, ông nói sau một lúc yên lặng. Đáng tiếc là năng khiếu diễn đạt lại những gì chúng nhìn thấy lại quá hạn hẹp. Nếu không, tôi tin chắc rằng sự bắt chước các điệu bộ của chúng cũng sẽ tuyệt diệu như sự bắt chước tiếng nói của chúng vậy. - Nhưng chúng thiếu những bàn tay. - Phải, nhưng chúng làm rất nhiều việc bằng cái đầu, ngày trước tôi có biết một bà già ở gần Goring, bên sông Tamise. Bà ấy mắc bệnh bại liệt co giật chân tay. Lúc nào bà ấy cũng để đầu gục xuống và lúc lắc nó từ bên phải sang bên trái. Người con trai bà là một thủy thủ, anh ta mang về, sau một trong các chuyến hành trình cho bà một con két, con vật này diễn đạt lại một cách rất đúng cử động của cái đầu của người bị bại liệt. Những con két màu xám này lúc nào cũng rình rập. Guildea nói ra câu sau cùng này một cách thong thả và quả quyết. Trong khi phóng ra bên trên cốc rượu của ông một cái nhìn sắc bén vào cha Murchison, nghe ông nói, ông hốt nhiên tỉnh ngộ. Ông mở miệng để nói một lời nhận xét ngắn gọn. Guildea quay cái nhìn long lanh của ông về phía Pitting giữa lúc người này mang một cách ân cần những đĩa phô-mai mà y vừa lấy từ cái máy nâng hàng nối liền phòng ăn với nhà bếp. Nhưng một lát sau đó, khi người đầu bếp đã đặt xong những trái táo lên trên bàn, đã bày biện một cách tỉ mỉ những cái bình pha lê, nhặt hết những mảnh bánh vụn và biến dạng, thì ông nói một cách sôi nổi: - Tôi bắt đầu hiểu. Cha có nghĩ rằng con Napoléon nhìn thấy sự hiện diện này không? Tôi biết điều đó. Nó đã không ngưng rình mò người khách từ buổi tối mà hắn tới. Vị linh mục đã có một linh cảm khác. - Đó là lý do tại sao ông đã che kín nó bằng tấm vải vào một buổi tối nào đó phải không? - Đúng là vậy. Do sự nhút nhát. Thái độ của nó bắt đầu làm tôi khó chịu. Guildea mím cặp môi mỏng của ông lại, hạ thấp đôi chân mày xuống, dáng điệu này tạo cho bộ mặt của ông một sắc thái đau khổ bất thần. - Nhưng bây giờ thì tôi lại muốn theo dõi nó trong các sự quan sát của nó. Ông nói thêm trong khi nét mặt ông lấy lại sắc thái tự nhiên. - Tuần lễ mà tôi đã để mất đi ở Westgate, thì nó đã không để mất đi ở đây, tôi đoan chắc với cha điều này. Mời cha ăn một quả táo. - Không, cám ơn. Ông cha nói lời từ khước mà không nhận ra việc đó. Guildea đẩy cái ghế ra. - Vậy thì chúng ta hãy lên trên lầu. - Không cám ơn, ông cha nhắc lại. - Xin lỗi, cha nói gì thế? - Tôi vừa nói gì nhỉ? Ông cha nói lớn trong khi đứng dậy. Tôi đang nghĩ về cái vụ kỳ dị này. - A! Cha đã bắt đầu quên giả thuyết của bệnh thần kinh rồi à? Họ đi ra ngoài hành lang. - Ông đã hết sức khách quan về tất cả những gì dính líu tới vụ này. - Tại sao lại không ? Đây là một việc rất kỳ lạ và không bình thường đã xảy ra trong cuộc sống của tôi. Ta phải có một thái độ thế nào nếu không phải là tìm hiểu nó một cách trầm tĩnh và tới tận cội nguồn? - Thật thế, còn làm thế nào khác hơn được? Ông cha bắt đầu cảm thấy khá bối rối, vì trong một cung cách nào đó, bởi một sự ức chế, ông đã buộc lòng phải dành một sự chú tâm mãnh liệt nhất vào một việc mà ông thấy đáng lẽ ông phải coi là hoàn toàn vô lý. Khi họ bước vào phòng đọc sách, ngay tức thì cặp mắt ông nhìn về phía cái chuồng của con két, với một sự tò mò sâu đậm. Một nụ cười nhẹ nhàng làm cong cặp môi của vị giáo sư. Ông đã nhận thấy hiệu ứng mà ông gây ra cho người bạn của ông. Ông cha nhìn thấy nụ cười mỉm. - Ồ! Ông vẫn chưa làm cho tôi tin được mà. Ông nói như để trả lời. - Tôi biết. Có lẽ tôi sẽ thành công trước khi hết buổi tối. Cà phê đây. Khi chúng ta uống cà phê, chúng ta sẽ tiến hành một thí nghiệm của chúng ta. Đặt cà phê lên bàn, Pitting, và đừng làm rộn chúng tôi nữa. - Thưa ông, vâng ạ. - Tối hôm nay tôi sẽ không uống cà phê đen, ông cha nói. Xin vui lòng cho nhiều sữa vào nhé. Tôi không muốn để người ta có thể đùa cợt với tôi. - Nhưng nếu chúng ta không uống cà phê có được không? Guildea nói. Để cho cha không thể viện cớ là chúng ta đã không ở trong một tình trạng hoàn toàn bình thường. Tôi biết cha lắm, cha Murchison cũng hăng say trong tính hoài nghi như trong nghề nghiệp linh mục của cha. Ông cười lớn và đẩy cái tách của ông ra. - Được lắm, không uống cà phê. - Chỉ một điếu thuốc lá thôi, rồi chúng ta sẽ chuyển sang những chuyện nghiêm chỉnh. Làn khói xám xanh bốc lên cuồn cuộn. - Chúng ta sẽ làm gì đây? Ông cha nói. Ông ngồi rất thẳng, như kiểu đã sẵn sàng để hành động. Thật tình mà nói không có điều gì gợi ý một sự thư giãn trong thái độ của hai người. - Chúng ta ẩn nấp và theo dõi con Napoléon. À, việc này làm tôi nhớ lại... Ông đứng dậy, đi tới một góc của căn phòng, lấy ra một miếng dạ màu xanh và phủ nó lên cái chuồng. - Tôi sẽ nhấc nó ra khi chúng ta đã ẩn nấp rồi. - Trước hết ông hãy nói cho tôi biết phải chăng đã có một sự biểu hiện nào đó của sự hiện diện giả mạo này trong những ngày vừa mới qua đây. - Chỉ đơn giản là sự cảm giác thôi, sự cảm giác mà cường độ luôn luôn gia tăng, là có một cái gì đó ở đây, mà vật này lúc nào cũng quan sát tôi không ngưng nghỉ, nó không ngừng theo dõi tất cả mọi cử chỉ của tôi. - Ông có cảm tưởng là người ta đi theo ông mỗi khi ông di chuyển không? - Không phải lúc nào cũng thế. Cái vật đó đã ở trong căn phòng này lúc cha tới. Bây giờ nó đang còn ở đây, nhưng lúc chúng ta đi xuống nhà ăn tối thì tôi có cảm tưởng là chúng ta đi xa khỏi nó. Tôi kết luận là nó ở lại nơi này. Trong lúc này chúng ta không nói tới nó nữa. Họ nói chuyện về một vấn đề khác trong khi hút hết những điếu thuốc lá của họ. Rồi, khi họ quẳng những mẫu thuốc còn khói nghi ngút đi thì Guildea nói. - Murchison này, bây giờ để hoàn thành mỹ mãn cuộc thí nghiệm này, tôi đề nghị là chúng ta hãy nấp sau những tấm màn, ở mỗi bên cửa cái chuồng, để cho sự chú ý của con chim không hướng về phía chúng ta nữa, và không rời khỏi cái vật mà chúng ta muốn biết rõ hơn. Khi chúng ta đã ẩn núp, tôi sẽ kéo tấm vải xanh ra. Xin cha hãy giữ hoàn toàn yên lặng. Hãy quan sát bộ điệu của con chim và sau đó nói cho tôi biết nó đã cho cha một cảm giác thế nào, và cha diễn giải cảm giác đó ra sao. Xin cha hãy đi rất nhẹ nhàng. Ông cha tuân lời. Và họ đi những bước rất êm nhẹ về phía những tấm màn được treo ở mỗi bên của hai chuồng cửa sổ. Ông cha nấp sau những tấm màn ở mạn bên trái cái chuồng, và ông giáo sư ở phía sau những tấm màn bên phải. Ngay khi họ vừa ẩn nấp xong, ông giáo sư duỗi cánh tay ra kéo tấm vải và để nó rơi lên trên sàn gỗ. Con két được khá ấm áp và rõ ràng là đã ngủ trong bóng tối. Khi ánh sáng chiếu vào nó, nó di chuyển trên cần đậu, xù lông cổ lên, và trước hết giơ một bàn chân lên, rồi tới bàn chân khác. Nó quay cái đầu trên cái cổ mềm mại mà người ta đã nói là có sức đàn hồi, rồi nó dúi cái mỏ vào lớp lông trên lưng nó, và tiến hành một vài sự tra xét cặn kẽ nào đó với một kết quả có vẻ làm nó hài lòng, vì ngay sau đó nó ngẩng đầu lên, rồi bắt đầu chiếu cố tới một trái hồ đào mà người ta đã nhét vào giữa các song sắt để làm thức ăn cho nó. Với cái mỏ không quằn, nó mân mê trái hồ đào, mổ vào nó, thoạt đầu thì nhẹ nhàng, rồi sau đó với sự mãnh liệt. Cuối cùng nó giật được trái hồ đào ra, quặp lấy nó trong bàn chân thô kệch màu xám cả nó, giữ nguyên nó một cách vững chắc trên cần đậu, đập vỡ nó ra, rồi mổ cái ruột ở bên trong, làm vương vãi những mảnh vụn trên nền của cái chuồng, và để cho cái vỏ vỡ nát rơi vào cái chậu tắm bằng sứ được gắn vào các song sắt. Ăn xong rồi, con chim có vẻ trầm tư, ngừng lại trong chốc lát, nó duỗi một bàn chân ra phía sau và bắt đầu làm công việc vận động đôi cánh của nó với đủ mọi kiểu khiến cho nó có vẻ quấy quá và dị hợm. Với cái đầu quay lại, nó lại tiếp tục tiến hành những cuộc nghiên cứu tế nhị và sâu xa trong những cái lông ở một bên cánh. Lần này thì sự khảo sát có vẻ liên miên, bất tận, và cha Murchison đã có thì giờ để thấy rõ sự vô lý của tình thế và để tự hỏi tại sao ông lại dấn thân vào vụ này. Tuy nhiên, trong vụ này tinh thần hài hước của ông đã không tìm ra một lý do để cười cợt. Ngược lại, bỗng nhiên ông lại có một cảm giác kinh hoàng. Khi ông nói chuyện với người bạn của ông và quan sát ông ta, nói chung thì thái độ của vị giáo sư rất bình tĩnh, rất thực tế, ngay cả rất đủ đảm bảo cho sự xác thực của câu chuyện của ông ta, và cho sự cân bằng rất mực thước trong tâm hồn ông ta. Nhưng khi ẩn nấp thì ông không còn nghĩ như thế nữa. Đứng sau bức màn, hai mắt dán chặt vào con Napoléon khi con này, không biểu lộ một mảy may cảm xúc, cha Murchison bắt đầu nói thì thào trước mặt ông ta một tiếng: điên khùng, với một cảm nghĩ mỗi lúc một mạnh thêm về lòng thương hại và sự lo sợ. Với một cử động đột ngột, con két co một bên cánh của nó lại, một lần nữa xù những cái lông trên cổ nó, rồi duỗi bàn chân khác ra đằng sau, và tiến hành việc lau chùi cái cánh thứ hai của nó. Trong căn phòng yên tĩnh, người ta nghe được một cách rõ ràng tiếng động của những cái lông. Cha Murchison nghe thấy một tiếng rên rỉ nhẹ trong những bức màn xanh, mà ở đằng sau Guildea đứng nấp, tựa hồ như có một luồng không khí vừa lọt vào qua cái cửa sổ mà họ đang ẩn nấp. Đồng hồ đánh chuông trong căn phòng thứ hai, một cục than rơi trong vỉ sắt với một tiếng động giống như tiếng rơi của những chiếc lá khô mà cơn gió cuốn đi một cách phũ phàng trên mặt đất cứng. Ông cha lại cảm thấy bị tràn ngập bởi một làn sóng của sự thương cảm và kinh hoàng. Ông thấy hình như ông đã quá điên rồ, có thể còn là tội lỗi nữa, khi đã khích lệ những việc có vẻ đúng là sự điên khùng kỳ dị của người bạn ông. Lẽ ra ông đã phải từ khước sự tham dự vào một công cuộc, mà tự thân nó đã là lố bịch và ấu trĩ nữa, việc này rất có thể trở nên nguy hiểm vì nó khuyến khích một sự đợi chờ bệnh hoạn. Con Napoléon, một bàn chân duỗi về phía trước, cánh xòe ra, cổ ngoẹo đi, mang lại một sự ân cần vô ý thức cho việc chăm sóc bản thân nó, có vẻ nó tin chắc là đang được hưởng một sự cô quạnh hoàn toàn, một sự cô quạnh êm đềm. Tất cả những điều này đưa ông cha tới chỗ ý thức rõ ràng được cái trò hề và sự thiếu tư cách trong lối xử sự của ông, và cái trò hề còn đáng thương hơn nữa của người bạn ông. Ông nắm lấy các bức màn, và đang sắp sửa kẻo chúng ra và rời khỏi chỗ ẩn nấp thì ông bị chặn lại bởi một cử chỉ bất thần của con két. Tựa hồ như bị đột ngột lôi cuốn bởi một cái gì, con chim ngừng mổ, và cái đầu vẫn ngả về đằng sau và cong lại trên cái cổ, nó có vẻ đang nghe với một sự chăm chú khẩn trương nhất. Cái nhìn của con mắt tròn xoe của nó long lanh và căng thẳng như cái nhìn của một con bồ câu khi hoảng sợ. Cụp cánh lại, nó ngẩng đầu lên, và đứng rất thẳng trên cái cần trong một lát, nâng chân lên và bỏ chân xuống như thể một vật bằng máy. Ta có thể nói, là một cảm xúc mới nảy sinh đã khêu gợi một sự ham muốn cử động bất khả chế ngự trong người nó. Sau đó nó ngẩng đầu về phía xa nhất của căn phòng, và đứng yên bất động. Thái độ của nó gợi ra một cách mãnh liệt việc tập trung sự chú ý vào một vật rất gần đang đứng trước mặt nó, khiến cho tự nhiên cha Murchison phóng cái nhìn chung quanh căn phòng gần như chờ đợi nhìn thấy Pitting lặng lẽ bước tới, gã này sẽ đi vào bằng cái cửa bí mật. Nhưng y đã không tới và sự im lặng vẫn bao trùm. Tuy nhiên, rõ ràng là sự dao động và sự chú ý của con két vẫn mỗi lúc một tăng lên, mỗi lúc nó càng cúi thêm đầu nó xuống, vươn cổ ra rất dài, và vươn quá đến nỗi nó suýt nữa ngã xuống. Nó giương nửa chừng đôi cánh của nó, nâng chúng đôi chút lên cao bên trên lưng nó, làm như muốn bay đi, và nó đập nhanh đôi cánh, việc này kéo dài trong một thời gian mà cha Murchison thấy là bất tận. Cuối cùng, giơ đôi cánh lên tới mức thật cao mà nó có thể làm được, rồi nó để chúng hạ xuống trên lưng nó một cách thong thả và có chủ đích, nó lấy mỏ ngoạm vào cái mép bồn tắm, tự để cho mình nó tuột xuống trên nền của cái chuồng và lắc lư đi tới các chấn song và tì đầu vào đó. Nó đứng như thế một cách hoàn toàn lặng lẽ, trong thái độ mà nó vẫn có mỗi khi ông giáo sư lấy ngón tay gãi vào đầu nó. Tư thế của con chim gợi ra sự khoan khoái này, với một sự chính xác rõ rệt khiến cho cha Murchison có cảm tưởng đang nhìn thấy một ngón tay trắng trẻo đang êm ái lùa qua những sợi lông trên đầu nó một sự xác tín mãnh liệt đã chiếm ngự lòng ông: có một vật gì đó mà ông không nhìn thấy, nhưng con chim thì nhìn thấy và đón tiếp một cách hân hoan, đang đứng trước cái chuồng. Sau một lát con két ngẩng đầu lên, làm như cái ngón tay vuốt ve nó đã bỏ đi, và những dấu hiệu hiển nhiên của một sự khoan khoái tột độ về thể xác ở trong nó đã nhường chỗ cho một vẻ chăm chú đặc biệt và hiếu kỳ cẩn trọng. Leo lên cao nhờ vào những cái chấn song, nó lại chuyền đi trên cái cần, di chuyển sang bên cạnh tới tận vách trái của cái chuồng, và có vẻ bắt đầu quan sát với một sự chú tâm sâu xa. Nó nghiêng đầu xuống một cách quái dị, ngừng lại một chốc, rồi lại nghiêng đầu xuống. Cha Murchison thấy mình đang dựa theo cái cử động được nghiên cứu của cái đầu con chim, nẩy sinh ra một ý niệm chính xác về một nhân vật nào đó, những cử chỉ của con chim gợi ý một tình cảm cực kỳ, kết hợp với một thứ quyết tâm vào loại này là một đặc tính rất thông thường của những người mắc bệnh ngu độn chưa trầm trọng. Cha Murchison nghĩ lan man tới những sinh linh khốn khổ này, họ thường quyến luyến một cách dai dẳng với những ai ít yêu mến họ. Giống như nhiều vị linh lục khác, ông đã biết khá nhiều về họ, vì một phụ nữ xuẩn ngốc có tính đa tình thường đặc biệt nhạy cảm với sức dẫn dụ của những người truyền giáo. Những cách chào đón của con két làm cho ông nhớ lại một phụ nữ xanh xao và kinh khủng trong một thời gian nào đó, đã lui tới tất cả mọi giáo đường mà ông hành lễ, lúc nào cũng cố gắng thu hút cái nhìn của ông. Và mỗi khi cô ta tới nơi, cô ta cúi đầu xuống, miệng mở một nụ cười quá mức lễ độ và xảo trá một cách cố ý. Con két cứ tiếp tục chào, phân ra một sự ngưng nghỉ ngắn giữa mỗi lần chào, giống như đang chờ đợi một tín hiệu bảo nó biểu diễn các năng khiếu bắt chước của nó. - Đúng, đúng, nó bắt chước một tên ngốc nghếch. Cha Murchison bỗng nhiên nói, mà vẫn không ngừng sự quan sát của ông. Ông lại phóng cái nhìn của ông xung quanh gian phòng, nhưng không trông thấy gì cả ngoại trừ các đồ đạc, ngọn lửa đang nhảy nhót, và những dãy sách xếp chật lèn. Rồi con két kết thúc sự đón chào và tỏ một thái độ tập trung và căng thẳng của một người đang lắng nghe với sự chăm chú: nó há mỏ ra, để lộ cái lưỡi đen của nó, rồi khép mỏ lại, rồi lại há mỏ ra nữa. Ông cha tưởng là nó sắp nói, nó vẫn câm lặng, nhưng rõ ràng là nó đang cố gắng nói lên một điều gì. Nó lại chào hai hay ba lần nữa, nó ngưng lại, rồi há mỏ ra, nói một câu gì đó. Ông cha không thể phân biệt được một tiếng nào cả, nhưng giọng nói thì yếu ớt và buồn bã; vừa ngọt ngào vừa than van. "Nó giống như giọng nói của một người đàn bà" - ông nghĩ. Ông áp tai vào sát tấm màn, lắng nghe với một sự chăm chú gần như nôn nóng, những cái chào đón lại tái diễn, nhưng lần này thì con Napoléon làm thêm một cử động phụ, thân thiết và kiểu sức giống như cử chỉ của một kẻ điên khùng và mê đắm đang nép vào lòng một người nào hoặc sẽ thúc trộm một cùi tay vào người đó. Vị linh mục lại nghĩ tới người đàn bà xanh xao và kinh khủng đó, người đã lui tới các giáo đường. Đã nhiều lần ông thấy bà ta trên đường đi của ông. Bà ta đã đợi ông sau khóa lễ buổi tối. Một lần bà ta đã cúi đầu xuống và cười mỉm, để cái lưỡi của bà ta thò ra lủng lẳng, và nép vào người ông trong bóng tối. Ông nhớ lại sự co rúm của da thịt ông khi chạm phải con người khốn khổ này, sự kinh tởm gần đi tới sự nôn mửa mà bà ta đã gây ra cho ông, mà ông không thể xua đuổi được ngay cả khi ông nhớ lại là bà ta bị rối loạn tâm thần. Con két ngừng lại, lắng nghe, há mỏ ra, và lại nói một điều gì đó cũng với cái giọng tình tứ của con chim cu gáy, chứa đầy ý tưởng bệnh hoạn, tuy nhiên rất cứng cỏi, ngay cả rất nguy hiểm nữa trong âm điệu của nó. Một giọng nói gớm ghiếc, ông cha phán đoán. Nhưng lần này, mặc dầu ông đã nghe giọng nói rõ ràng hơn lúc trước, ông vẫn không thể xác định đó là giọng nói của đàn bà hay đàn ông, hoặc có thể là của trẻ con. Hình như đó là một giọng nói của con người, nhưng nó vô giới tính một cách kỳ lạ. Muốn giải quyết mối nghi ngờ này, ông lui vào trong bóng tối của những tấm màn, ngừng việc quan sát con Napoléon, đành chịu lắng nghe với sự chăm chú khẩn trương nhất, gắng sức để quên đi là ông đang nghe một con chim, và tưởng tượng rằng ông đang bắt gặp một tiếng nói của con người trong một cuộc đàm phán. Sau hai hay ba phút yên lặng, tiếng nói lại cất lên trong một khoảng thời gian khá dài, hình như nó diễn lại và nhắc lại một loạt những tiếng than thở tình tứ, với sự ngọt ngào được nhấn mạnh thêm, của sự nhạt nhẽo và khiếm nhã không thể mô tả được. Tính cách bệnh hoạn của giọng nói này, sự hạ thấp đột ngột giọng của nó, và sự tục tĩu kỳ lạ của nó kết hợp với sự dịu dàng của người đang hấp hối và sự thanh lịch của người kỹ nữ làm cho ông cha phải sởn gai ốc lên. Tuy nhiên ông không thể phân biệt được một lời nói nào, càng không thể phân biệt được tuổi tác và giới tính của người này. Đứng bất động trọng bóng tối, ông chỉ có một sự xác quyết duy nhất: một giọng nói như thế chỉ có thể phát ra từ một kẻ hết sức đáng ghê tởm, nó chỉ có thể diễn tả là một người đối với ông, nếu không phải là đối với mọi người khác, là khả ố một cách không thể dung chấp được. Chả mấy chốc giọng nói tắt lịm đi trong một thứ nấc cụt khàn khàn, tiếp theo sau là một sự im lặng kéo dài. Sự im lặng bi cắt ngang bởi ông giáo sư khi ông kéo mạnh các tấm màn mà ông ta đứng nấp ở đằng sau, và nói với ông. - Bây giờ cha hãy đi ra và nhìn kìa. Ông cha tiến bước vào nơi có đèn sáng, nhấp nháy mắt, nhìn về phía cái chuồng, và trông thấy con Napoléon đứng bất động, giữ thăng bằng trên một bàn chân, đầu rúc vào trong cánh. Nó có vẻ đang ngủ, ông giáo sư mặt tái mét, cặp môi động đậy của ông xệ xuống trong một biểu thị của sự ghê tởm tột độ. - Hừm! Ông nói. Ông đi tới chỗ cái cửa sổ của văn phòng ở xa nhất, kéo những lấm màn ra, mở phần dưới của cửa sổ để cho không khí lùa vào. Những cái cây trơ trụi, có thể nhìn thấy trong bóng tối xám nhạt ở bên ngoài. Guildea cúi xuống chỗ cái cửa sổ trong một phút, hít vào đầy phổi cái không khí trong đêm. Một lát sau, ông quay lại phía ông cha, và hốt nhiên kêu lên: - Có mùi hôi tanh phải không? - Phải, cực kỳ hôi tanh! - Có bao giờ cha nghe nói về một điều gì giống vậy không? - Không hoàn toàn đúng vậy. - Tôi cũng không, việc đó làm cho tôi buồn nôn ọe, Murchison ạ, sự buồn nôn đúng với nghĩa đen của nó. Ông đóng cái cửa sổ lại, và bắt đầu đi đi lại lại trong gian phòng một cách nôn nóng. - Cha nghĩ thế nào về việc này? Ông ngoái cổ lại hỏi. - Thật ra ông muốn nói gì? - Đó có phải là giọng nói của một người đàn ông, một người đàn bà hay một đứa trẻ con? - Tôi không biết gì về điều đó cả, tôi không thể đưa ra một ý kiến nào. - Tôi cũng thế! - Ông có thường nghe thấy nó không? - Có, từ lúc tôi từ Westgate trở về. Và không bao giờ có những câu hỏi tôi có thể phân biệt được. Tiếng nói mới kỳ dị làm sao! Ông nhổ vào ngọn lửa. - Xin tha lỗi cho tôi, ông nói và ngồi phịch xuống một cái ghế bành. Tôi có những sự ghê tởm về việc này, nói theo nghĩa đen. - Tôi cũng vậy. Ông cha nói một cách thành thật. - Điều tệ hại là con người này hoàn toàn không có lý tính, y chỉ có sự xảo trá của kẻ ngu độn. Guildea nói tiếp bằng một giọng nôn nóng, sắc bén. Ông cha giật nẩy người lên khi nghe từ miệng một người khác sự biểu thị chính xác điều mà chính ông đã tin chắc. - Việc gì làm cho cha giật nẩy người lên như thế? Guildea nói với một sự nghi ngờ mà tính cách mau lẹ đã chứng thực tình trạng không bình thường trong hệ thần kinh của ông. - Đó là vì chính ý nghĩ này đã nẩy ra trong tâm trí tôi. - Ý nghĩa nào? - Là tôi đã nghe tiếng nói của một kẻ ngu độn ngớ ngẩn. - Phải, đó là sự âm độc, quỉ quái cho một người vào loại tôi. Tôi có thể chiến đấu chống lại óc thông minh, những cái đó... Ông lại đứng phắt lên, nhóm lửa cháy dữ dội, đứng ở đằng trước bếp lửa, lưng quay vào sức nóng, hai tay đút vào những túi trên của cái quần. - Đó là tiếng nói của kẻ đã lẻn vào trong nhà của tôi. Thích thú đấy, cha không cảm thấy à? Và bây giờ thì thật sự đã có sự kinh hoàng trong cái nhìn và trong giọng nói của ông. - Tôi phải đuổi nó đi, ông nói lớn, tôi phải đuổi nó đi. Nhưng đuổi bằng cách nào? Với một bàn tay run rẩy ông giật chòm râu dê thưa, đen của ông. - Làm thế nào? Ông nói tiếp. Đó là cái gì? Nó ở đâu? - Ông có cảm giác là nó ở đây, trong lúc này à? - Không một chút nghi ngờ. Nhưng tôi không thể nói với cha là trong chỗ nào của căn phòng. Ông nhìn khắp chung quanh ông. Không một vật nào thoát khỏi cái nhìn mau lẹ của ông. - Vậy ông cho là kẻ đó theo dõi ông? Cha Murchison nói. Ngay cả ông cũng rất xúc động và rất bối rối, dù ông vẫn chưa cảm thấy một sự hiện diện ở gần họ, trong căn phòng. - Không bao giờ tôi tin vào những chuyện nhảm nhí loại này, cha biết đó. Guildea nói. Tôi chỉ nói lên một việc mà tôi không thể hiểu được và nó bắt đầu trở nên rất khó chịu với tôi. Đã có một vật gì đó ở nơi đây: nhưng trong phần lớn các trường hợp có vấn đề, một chỗ có ma thì sự thù hận biểu lộ rõ ràng, còn tôi thì tôi biết rằng tôi được cảm phục, mến yêu, ưa thích. Điều này hoàn toàn khủng khiếp đối với tôi, Murchison ạ. Hoàn toàn khủng khiếp. Đột nhiên cha Murchison nhớ lại buổi tối đầu tiên mà ông đã ngồi với Guildea, và thái độ gần như ghê tởm mà ông này tưởng tượng là đã gợi lên cho một người nào một tình cảm mến yêu nồng nhiệt. Dưới ánh sáng của cuộc trò chuyện xa xôi có sự cố hiện thời có vẻ như rất lạ lùng, nó gần như có kiểu cách một hình phạt được áp đặt cho một tội lỗi chống lại nhân loại mà vị giáo sư đã phạm phải. Nhưng khi nhìn bộ mặt nhăn nhó của người bạn, ông cha quyết định không tự để cho mình sa vào cái lưới của sự mê tín, gớm ghiếc này. - Ở đây không thể có một cái gì cả, ông nói; không thể có được. - Vậy thì con chim này bắt chước cái gì? - Tiếng nói của một người nào đã tới đây. - Điều này chỉ có thể xảy ra vào tuần lễ trước, vì trước đây không bao giờ nó nói như thế, và xin cha hãy nhớ kỹ rằng trước khi tôi khởi hành, tôi đã để ý thấy nó ngắm nhìn và cố gắng bắt chước một người nào đó, từ buổi tối mà tôi đi vào công viên, chớ không phải trước đó. - Một kẻ nào có giọng nói loại này phải tới đây trong lúc ông vắng mặt, cha Murchison nhắc lại với một sự bướng bỉnh dịu dàng. - Rồi tôi sẽ biết hắn ta. Guildea bấm chuông. Gần như ngay tức thì, Pitting đi vào trong phòng. - Pitting - ông giáo sư nói với một giọng sắc bén và khô khan. Trong khi tôi ở ngoài bờ biển có người nào đột nhập phòng này không? - Thưa ông, chắc chắn là không, ngoại trừ những bà bồi phòng và chính tôi. Giọng nói lạnh như băng của người đầu bếp có vẻ biểu lộ một sự ngạc nhiên gần cận với sự hận thù. Với một bộ điệu hung hăng, ông giáo sư giơ tay về phía cái chuồng. - Con két lúc nào cũng ở đây chứ? - Thưa ông, vâng - Người ta đã không di chuyển nó, mang nó đi nơi khác, dù là trong chốc lát, phải không? Bộ mặt tái nhợt của Pitting đã gần như đánh mất vẻ lạnh lùng cố hữu, và y mím môi lại. - Thưa ông, chắc chắn là không. - Cám ơn. Thế là đủ rồi. Người đầu bếp đi ra, cố ý biểu thị sự nghiêm chỉnh trong cách đi đứng của y với một vẻ phô trương rềnh ràng. Khi y đi tới cái cửa và sắp bước ra ngoài thì người chủ gọi y. - Đơi một lát, Pitting. Người đầu bếp dừng lại. Guildea cắn chặt hai môi, hai ba lần giật chòm râu với vẻ gượng gạo và nói: - Anh có nhận thấy rằng... rằng con két mới đây đã bắt đầu nói với một... với một giọng đặc biệt, rất chói tai không? - Có, thưa ông, như là từ một tiếng nói dịu dàng. - À! Và từ bao giờ vậy? - Thưa ông, từ ngày ông đi khỏi, nó không ngưng nói. - Đúng vậy. Tốt. Và anh nói sao về việc này? - Thưa ông sao ạ? - Anh nghĩ thế nào về việc nó đã phỏng theo giọng nói đó? - Ồ! Thưa ông, đó là chỉ để đùa chơi thôi. - Tôi biết. Có thế thôi, Pitting. Pitting đi khuất, và đóng cánh cửa không một tiếng động phía sau y. Guildea nhìn người bạn của ông. - Này, cha thấy đó! Ông nói lớn. - Chắc chắn là rất ly kỳ, ông cha nói, thật sự rất ly kỳ. Ông có tin chắc rằng ông không có người đầy tớ nào mà giọng nói làm ta nhớ lại giọng nói này không? - Bạn Murchison thân mến ạ! Liệu cha có giữ ở gần cha, dù chỉ hai ngày thôi, một tên đầy tớ có giọng nói đó không? - Không! - Người đàn bà bồi phòng của tôi đã làm việc cho tôi từ năm năm nay, chị bếp từ bảy năm nay. Cha đã nghe thấy Pitting nói rồi. Ba người này làm thành tất cả ban nhân viên của tôi. Một con két không bao giờ nói một giọng mà nó không được nghe. Nó đã có thể nghe giọng nói đó ở đâu? - Nhưng chúng ta không nghe thấy gì cả mà. - Không, và chúng ta cũng không trông thấy gì cả. Nhưng nó thì có. Nó cảm giác thấy một vật gì. Cha không trông thấy cách thức nó chìa cái đầu ra để người ta gãi cho nó à? - Nó có vẻ làm việc đó. - Nó đã làm việc đó. Cha Murchison không nói gì nữa. Ông cảm thấy bị tràn ngập bởi sự bực bội nó cứ lớn dần đến chỗ trở thành sự lo lắng. - Cha đã tin chưa? Guildea nói với đôi chút bực bội. - Chưa tin. Tất cả vụ này rất ly kỳ, nhưng khi mà tôi chưa nghe thấy, nhìn thấy hay cảm thấy như ông sư hiện diện của một kẻ nào đó, thì tôi không thể tin vào việc đó. - Cha muốn nói là cha không muốn tin à? - Có thể là vậy. Nhưng đã đến lúc tôi phải đi đây. Guildea không cố giữ ông ở lại, nhưng khi đi theo ông ra tới cửa ông nói với ông cha. - Xin cha vui lòng trở lại vào tối mai. Ông cha đã có một buổi hẹn, ông ngần ngừ, nhìn chằm chằm vào mặt vị giáo sư và nói. - Được. Vào lúc chín giờ tôi sẽ ở cạnh ông. Chúc ngủ ngon. Khi ra tới vỉa hè đường, ông cảm thấy nhẹ nhõm, ông quay đầu lại, trông thấy Guildea đi vào trong hành lang, và ông rùng mình.