Tối hôm đó, cha Murchison đi bộ đoạn đường từ Quảng trường Hyde Park tới Bird Street. Ông cần có sự vận động sau buổi tối kỳ dị và mệt nhọc mà ông vừa trải qua, buổi tối mà ông đã nhớ lại như là một cơn ác mộng. Trong khi ông bước đi, sự ngọt ngào không thể dung chấp được của tiếng nói đó vẫn vang lên bên tai ông. ông cố sức gạt bỏ nó đi, và suy ngẫm một cách bình tĩnh về tất cả vụ này. Ông giáo sư đã dưa ra bằng chứng của một sự hiện diện ly kỳ trong nhà ông. Một người biết suy luận có thể chấp nhận được một bằng chứng như thế không? Cha Murchison tự nhủ rằng việc này không thể xảy ra được. Không có sự nghi ngờ nào là các bộ điệu của con két rất kỳ dị. Con chim đã làm được việc tạo ra một ảo giác thật sự của sự hiện diện vô hình trong căn phòng. Nhưng việc một sự hiện diện như thế có thật sự tồn tại thì ông cha nhất định phủ nhận trong thâm tâm của ông. Những người sùng đạo một cách cuồng nhiệt là những người mặc nhiên tin vào các kỳ tích ghi chép trong Thánh Kinh: và họ điều hành đời sống của họ theo những tín điệp mà họ cho là đã tiếp thu một cách trực tiếp từ vị Đại Tôn Sư của một thế giới ẩn tàng, rất ít khi họ sẵn lòng chấp nhận ý tưởng về một sự đột nhập siêu nhiên vào những công việc của đời sống hàng ngày. Họ cương quyết đẩy lui nó bằng tất cả sức lực của họ. Họ chăm chú nhìn nó, bởi nó như là một trò lừa phỉnh ấu trĩ, nếu không phải là tội lỗi.
Cha Murchison bị đưa tới chỗ tuân theo ý kiến bình thường của một linh mục chân thành. Ông nhất quyết y theo ý kiến này. Bây giờ ông tự nhủ, ông không thể chấp nhận ý nghĩ là bạn ông đã bị trừng phạt theo cách siêu tự nhiên về tội ông đã thiếu nhân tính, thiếu cảm xúc, bằng cách tự thấy mình phải chịu đựng tình yêu của một sinh vật khủng khiếp nào đó mà ta không thể trông thấy, mà cũng không thể nghe được. Tuy nhiên, tình trạng của Guildea có vẻ như là hiệu ứng của một sự trừng phạt. Những gì mà ông đã kinh sợ và xua đuổi một cách bất bình thường trong ý nghĩ thì bây giờ hình như ông bị ép buộc phải chịu đựng nó một cách bất bình thường. Đêm hôm đó ông cha cầu nguyện cho người bạn của ông trước cái bàn thờ nhỏ bé, khiêm tốn của căn phòng mà ông nằm ngủ. Căn phòng được bày biện quá nghèo nàn khiến người ta có thể nói đó là một phòng giam. Chiều tối hôm sau, khi ông có mặt ở Quảng trường Hyde Park thì người đàn bà bồi phòng ra mở cửa cho ông. Cha Murchison đi lên thang gác, lòng tự hỏi điều gì đã tới với Pitting. Guildea đón ông ở cửa phòng đọc sách, và ông cha bị xúc động một cách đau xót vì sự biến đổi hiện ra trong dung mạo của ông. Bộ mặt là màu xám tro, những nếp nhăn hằn sâu dưới hai con mắt. Ngay cả cái nhìn cũng hiển thị sự dao động và một nỗi thống khổ khủng khiếp. Đầu tóc ông rối bù, quần áo xốc xếch, môi ông co giật không ngừng như thể ông bị đảo lộn bởi một sự lo sợ khích động nào đó. - Pitting ra sao? Ông cha hỏi trong khi nắm lấy bàn tay nóng hổi và lên cơn sốt của Guildea. - Y đã thôi việc rồi. - Thôi không làm cho ông nữa à? Ông cha kêu lên hết sức kinh ngạc. - Phải, mới chiều hôm nay. - Ta có thể hỏi tại sao không? - Tôi sẽ nói về việc này với cha. Sự ra đi của y có một sự liên hệ rất mật thiết với cái... cái vụ gớm ghiếc này. Cha có nhớ một hôm chúng ta bàn luận về những sự giao tiếp mà ta phải có với những kẻ hầu hạ không? - À! Ông cha kêu lên, ông đã có một sự hốt nhiên tỉnh ngộ, sự kịch biến đã xảy ra à? - Đúng thế, ông giáo sư nói với một nụ cười cay đắng. Cơn kịch biến đã xảy ra. Tôi đã gọi Pitting, yêu cầu y phải xử sự như một nam nhi và như một người anh em. Y đã trả lời bằng cách từ khước lời mời. Tôi đã quở trách y. Y xin thôi việc. Tôi đã trả tiền lương cho y và nói với y rằng y có thể đi khỏi ngay tức thì. Y đã đi khỏi. Tại sao cha lại nhìn tôi như thế? - Tôi không cố ý làm điều này, cha Murchison nói trong lúc vội vã chập mắt xuống và nhìn đi chỗ khác. Nhưng, ông nói, cả con Napoléon cũng đi khỏi à. - Hôm nay tôi đã bán nó cho một trong những người lái buôn ở đại lộ Shaftesburg. - Tại sao vậy? - Nó đã làm cho tôi phát ốm lên vì sự bắt chước đáng ghét cái.... Tóm lại, cha đã thấy nó làm gì tối hôm qua. Ngoài ra, tôi không còn cần nó mang lại cho tôi bằng chứng là tôi không mơ ngủ. Bây giờ tôi đã tin chắc như là tôi đang tin rằng tất cả những gì tôi tin là đã xảy ra là đã xảy ra thật sự. Tôi ít quan tâm tới việc làm cho những người khác tin. Xin thứ lỗi cho tôi đã nói với cha điều này, thưa cha Murchison, nhưng lúc này tôi biết chắc rằng nếu tôi hết sức mong muốn làm cho cha tin vào sự hiện diện ở nơi đây của một sinh vật nào đó. Đó là vì tôi vẫn còn giữ trong chính bản thân tôi một sự nghi ngờ mơ hồ nào đó. Tất cả mọi sự nghi ngờ đã bị xua tan. - Xin hãy giải thích cho tôi bằng cách nào. - Được. Hai người đàn ông đứng ở gần lò sưởi. Họ vẫn giữ nguyên tư thế đó trong khi Guildea tiếp tục nói. - Đêm hôm qua tôi có cảm giác thấy nó. - Cái gì? Ông cha kêu lên. Tôi nói với cha là đêm hôm qua, khi tôi lên lầu đi ngủ, tôi có cảm giác là một vật gì đi theo tôi và nép vào người tôi. - Thật khủng khiếp! Ông cha thốt lên một cách không cố ý. Guildea nở một nụ cười ảm đạm. - Tôi không bác bỏ sự khủng khiếp của vật này. Tôi đã không thể bác bỏ được nó, vì tôi đã phải gọi Pitting tới tiếp cứu. - Nhưng hãy nói cho tôi biết, nó là cái gì, hoặc ít nhất nó có vẻ là cái gì? - Nó có vẻ là một con người. Có vẻ thôi, tôi nói thế, điều mà tôi muốn nói thật chính xác là hiệu ứng nó gây ra cho tôi là hiệu ứng của sự đụng chạm của con người chớ không phải là của tất cả một vật khác. Nhưng tôi không thể trông thấy cái gì cả, không thể nghe thấy cái gì cả. Chỉ duy có trong ba lần tôi cảm thấy cái sức ép nhẹ nhàng nhưng quyết liệt đó như để mơn trớn tôi và thu hút sự chú ý của tôi. Lần thứ nhất mà việc này xảy ra thì tôi đang ở đầu cầu thang, trước mặt phòng này, chân đứng trên bậc thứ nhất. Cha Murchison ạ, tôi thú thật với cha là tôi đã chỉ nhảy một bước lên tới tầng trên, như một kẻ bị người ta đuổi bắt. Sự thật như vậy đó, dù sao thì nó cũng chẳng vẻ vang gì. Ngay đúng lúc tôi bước vào trong phòng, tôi có cảm giác là cái vật đó cũng đi vào với tôi, và như tôi đã nói về điều này, nó ép chặt vào bên tôi với một sự âu yếm gớm ghiếc làm nôn mửa. Rồi thì... Ông ngừng lại, quay về phía bếp lửa, và gục đầu lên cánh tay. Ông cha rất xúc động vì tính cách kỳ lạ của sự bất lực và sự tuyệt vọng mà thái độ này để lộ ra. - Rồi thì sao nữa? Guildea ngẩng đầu lên. Vẻ mặt ông hằn lên dấu vết của một sự kinh hoàng đau đớn. - Rồi thì. Murchison ạ. tôi thấy hổ thẹn phải thú nhận điều đó, tôi mất hết can đảm một cách đột ngột, không thể giải thích được, mất một cách mà tôi nghĩ là hoàn toàn không,thể xảy ra được. Tôi dùng hai bàn tay để cố đẩy cái vật đó ra, nó càng nép chặt hơn vào người tôi. Sự ép chặt, sự đụng chạm trở nên không thể chịu đựng được đối với tôi. Tôi gọi Pitting với tất cả hơi sức của toi. Tôi… tôi nghĩ rằng tôi đã phải kêu lên. "Tiếp cứu!” - Và tất nhiên là y phải tới chứ? - Phải, với sự bình tĩnh cố hữu của y, được tạo thành bằng sự dịu dàng và sự thiếu vắng mọi thứ cảm xúc.. Sự bình tĩnh này, trái nghịch hẳn với sự ghê tởm và kinh hoàng đang làm tôi tức giận, làm tôi bực bội, tôi nghĩ vậy. Tôi không còn phải là chính tôi nữa, không, không! Ông đột ngột ngừng lại, rồi nói tiếp: - Nhưng, tôi có cần phải nói với cha về việc này không? Ông nói thêm với một sư mỉa mai đáng thương hại. - Ông đã nói gì với Pitting? - Tôi nói lẽ ra y đã phải tới mau lẹ hơn. Y xin lỗi. Vẻ lạnh lùng trong giọng nói của y làm tôi phát khùng lên và tôi nổ bung ra trong một cuộc chỉ trích ngu xuẩn và đáng khinh bỉ, bảo y như một cái máym ném lên y những lời mỉa mai và trách móc. Rồi cảm thấy cái vật đó lại tới nép vào người tôi, tôi năn nỉ y giúp đỡ tôi, ở lại với tôi, đừng để tôi một mình. Ý tôi muốn nói là đang sống cùng với tên đao phủ của tôi. Có phải y khiếp sợ, hay y tức bực về thái độ và những lời lẽ bất công và hung hãn mà tôi vừa nói ra thì tôi không biết. Dù sao mặc lòng y trả lời là y được mướn làm đầu bếp, chớ không phải để ngủ ban đêm với mọi người. Tôi nghĩ rằng y đã ngờ là tôi đã uống quá nhiều rượu. Phải, không còn nghi ngờ gì. Tôi tin rằng tôi đã chửi rủa y, bảo y là hèn nhát. Chính tôi! Sáng hôm nay y nói với tôi là y muốn thôi việc. Tôi đã trả cho y một tháng lương, một chứng chỉ tốt về nghề đầu bếp, và đã cho y nghỉ việc ngay tức thì. - Nhưng ban đêm thì sao? Ông đã trải qua một đêm như thế nào? - Tôi đã không ngả lưng một chút nào. - Ông ở đâu? Trong phòng của ông à? - Phải, cái cửa để ngỏ để cho nó ra đi. - Ông có cảm giác là cái kẻ đó còn ở lại à? - Nó đã không rời khỏi tôi một lúc nào, nhưng nó không chạm vào tôi nữa. Khi trời vừa hửng sáng, tôi đi tắm, tôi đã nằm duỗi dài ra trong ít lâu, nhưng tôi đã không nhắm mắt. Sau bữa điểm tâm, tôi đã đưa ra lời giải thích này với Pitting, và tôi trả tiền lương cho y. Rồi tôi đi lên đây. Tôi đã hết khí lực rồi. Tôi đã ngồi xuống. Tôi cố sức viết, cố sức suy nghĩ, nhưng sự yên lặng bị phá tan một cách gớm ghiếc hơn cả. - Bằng cách nào? - Bởi tiếng rì rầm của giọng nói đáng sợ đó, cái giọng nói tình tứ, xuẩn ngốc đa cảm nhưng quyết liệt đó. Hừm! Ông run rẩy cả chân tay. Rồi ông trấn tĩnh lại, với một sự cố gắng bối rối, ông giữ thái độ quyết tâm nhất, hung hăng nhất, và nói thêm: - Thật là quá đỗi rồi đó. Tôi không thể chịu đựng được nữa. Tôi đứng phắt lên, ra lệnh đi gọi một chiếc xe ngựa, nắm lấy cái chuồng và chở nó tới nhà một người buôn bán chim ở đại lộ Shaftesburg, và bán con két cho ông ta với một số tiền rẻ mạt. Murchison ạ, tôi tưởng vào lúc đó tôi đã gần đi tới chỗ điên cuồng, bởi vì sau khi ra khỏi cái cửa hiệu nghèo nàn đó, tôi dừng lại một lúc trên hè đường giữa những cái chuồng thỏ, chuồng lợn Ấn độ, chuồng chó con, và tôi đã cười rất lớn. Tôi thấy hình như hai vai tôi đã được thoát khỏi một gánh nặng, làm như khi bán được giọng nói đó là tôi đã bán được con người đáng nguyền rủa đã hành hạ tôi. Nhưng khi tôi trở về nhà, nó vẫn còn ở đó. Ngay lúc này nó vẫn ở đó. Tôi cho rằng nó sẽ ở đấy mãi mãi. Ông co hai bàn chân lên mặt trước của bếp lửa. - Tôi phải làm cái quỉ gì đây? Ông nói. Tôi lấy làm hổ thẹn cho mình, Murchison ạ. Nhưng tôi tin rằng trên đời này, phải có những điều mà một số người nào đó hoàn toàn không đủ sức chịu đựng. Này, tôi không thể chịu đựng được việc này. Tất cả chỉ có thế!" Ông ngừng nói. Ông cha nín thinh. Sự đau khổ phi thường này làm ông câm nín. Ông nhìn nhận sự vô dụng của mọi cố gắng để an ủi Guildea. Ông vẫn ở đó, ngồi yên, cái nhìn hạ thấp xuống, dáng điệu gần như thảm đạm. Rồi ông cố tự phó thác mình cho những ma lực của căn phòng, ngõ hầu thấy được tất cả những gì hiện hữu ở đó. Ngay cả như nửa mê, nửa tỉnh, ông còn đi tới chỗ ép buộc óc tưởng tượng lừa gạt ông. Nhưng không một lúc nào ông có cảm giác là có một người thứ ba bên cạnh họ. Cuối cùng ông nói: - Guildea này, tôi không thể có ý định nghi ngờ sự thật của cái khổ hình mà ông phải chịu ở đây, ông phải đi khỏi ngay tức thì. Buổi diễn thuyết của ông ở Paris vào ngày nào thế? - Tuần lễ sau. Từ hôm nay tới đó còn chín ngày. - Ngày mai ông đi Paris, ông nói rằng không bao giờ ông có cảm tưởng là cái... cái vật đó đi theo ông khi ông đã ra khỏi cửa à? - Cho tới lúc này thì không bao giờ. - Ông nên đi vào sáng mai, chỉ trở về sau buổi diễn thuyết của ông. Ta sẽ thấy rõ việc đó có chấm dứt được vụ này không. Hãy hy vọng đó, ông bạn thân của tôi, hãy hy vọng. Ông đứng dậy. Bây giờ ông xiết chặt bàn tay của vị giáo sư - Hãy tới thăm tất cả các bạn của ông ở Paris. Hãy tìm những cuộc giải trí. Tôi cũng muốn yêu cầu ông tìm... một sự trợ giúp khác." Ông phát ra những tiếng cuối cùng này với một vẻ nghiêm trọng, một cách xác tín, một sự giản dị mang nét dịu dàng, vào tới đáy lòng. Guildea, cảm động, đến lượt ông nắm lấy bàn tay ông cha, gần như với sự nồng nhiệt. - Tôi sẽ đi, ông nói. Tôi sẽ đi chuyến tàu mười giờ sáng, và tối nay tôi sẽ ngủ ở khách sạn Grosvenor ở ngay gần nhà ga. Ở đó sẽ tiện lợi hơn để lên xe lửa. Trên đường về buổi tối hôm đó, cha Murchỉson luôn luôn nghĩ tới câu nói này: "Ở đó sẽ tiện lợi hơn để lên xe lửa." Ông rất kinh ngạc với ý nghĩ về sự suy nhược đã đẩy Guildea tới chỗ phải nói ra câu này.