Trên vết thương tấy đỏ hiện lên một hình vẽ rõ nét, đó là một con chim ưng đứng trên mình con sói. Lẽ nào đây chính là kiệt tác mà Branch và Lý Quốc Văn năm dó dàng dao găm khắc lên người này?
1
Khi Đường Phong, Hàn Giang, Makarov, ba người lần nữa đối diện với vách đá khổng lồ, thì tất cả đều hoang mang bế tắc.
“Sao chúng ta lại quay về đây?”, tiếng kêu của Đường Phong đầy hoảng hốt.
“Lẽ nào chúng ta đã đi một vòng trong lối đi?”, Hàn Giang cũng một phen hoảng loạn.
“Không, sao có thể vậy được?”
. “Đó là vì trong lối đi có hai vách đá giống hệt nhau? Nhưng... không giống mà!”, Hàn Giang tự phủ định suy đoán của mình.
“Không thể là hai vách đá, chúng ta quay lại theo hướng cũ, đúng về lý thì phải cách vách đá này càng lúc càng xa mới đúng!”, Đường Phong suy đoán.
“Nhưng sự thật là chúng ta lại quay về đây!”
“Mọi người có chú ý thấy không, chúng ta đi trong lối đi này xem ra giống như đi theo một đường thẳng, nhưng thực ra lối đi này lại có độ cong!”, Makarov bỗng nhiên nói.
“ừm, cháu cũng đế ý thấy rồi. Nhưng cháu cho rằng độ cong này không lớn lắm, không đủ để chúng ta đi một vòng trong này”, Đường Phong dùng đèn pin soi về phía lối đi rộng rãi phía trước và phía sau.
“Lẽ nào... lẽ nào tính toán của chúng ta sai rồi ư?”, Makarvo nghi ngờ nói.
“Ý của bác là độ cong của lối đi này lớn hơn rất nhiều so với những gì chúng ta nhìn thấy, đến nồi chúng ta đã đi một vòng trong này?”, Đường Phong hỏi lại Makarov.
Makarov nói: “Chỉ là tôi nghi ngờ có khả năng này!”
“Nếu quả đúng như vậy thì cũng phải nhìn thấy bậc thang đá lúc chúng ta tới đây chứ, hoặc là một ngã rẽ nào đó mới đúng!”, Đường Phong phản bác lại suy đoán cíia lão Mã.
“Bởi vậy tôi cũng không có cách nào khác để xác định: rốt cuộc chúng ta đã xảy ra chuyện gì trong này.”
“Được rồi, bây giờ nói gì thì cũng đã muộn, tôi không muốn bị chết kẹt ở đây. Không còn cách nào khác, phải tiếp tục tìm đường ra!”, Hàn Giang chán nản nói.
Ba người đành phải quay lại, đi ngược lại hướng vách đá. Lần này họ đi rất chậm, cả ba chiếc đèn pin gần như cùng lúc soi khắp cả vách đá, tìm kiếm bất c ứ vết tích nào đó có khả năng hữu ích.
“Nhất định phải để ý xem trên lối đi có cái hang nào không, ở đó có thể là ngã rẽ khiến chúng ta đi sai đường!”,
Hàn Giang nhắc nhở mọi nsười.
Cả ba người đều rất cẩn trọng, khó nhọc mò mẫm trong lối đi, nhưng hơn một tiếng đồng hồ sau, họ lại vẫn quay về vách đá phía cuối lối đi này.
2
Ba người lại lần nữa đối diện với vách đá khổng lồ, tất cả đều ngớ người ra. “Thế này là...”, Đường Phong cảm giác mình sắp suy sụp đến nơi.
“Xem ra kể từ lúc chúng ta tiến vào mắt phải của Hạo Vương là đã vào trong một mê cung khổng lồ rồi!”, Hàn Giang lẩm bẩm.
“Không! Kể từ khi chúng ta bắt đầu đặt chân tới núi Hạ Lan thì đã bước vào một mê cung khổng lồ rồi. Nhà trọ bí ẩn, rừng cây khiến người ta lạc đường, cái chết của Fanny, kền kền khổng lồ, bức tranh trên vách đá lúc ẩn lúc hiện, và cả bao nhiêu là dấu vết mà người bí ẩn đó để lại, cộng thêm cả cái mê cung trong núi sâu này nữa, tất cả những thứ này đều giống như một mê cung khổng lồ khiến chúng ta bị nhấn chìm trong đó!”, Đường Phong hồi tưởng lại từng cảnh tượng kể từ khi vào trong núi đến giờ.
Hàn Giang và Makarov cũng chìm trong suy tư. “Tất cả những điều này lẽ nào đều do Hạo Vương năm đó sắp đặt?”, sự khủng hoảng khủng khiếp bao trùm lấy Hàn Giang, khiến anh cũng bắt đầu nghi ngờ tất cả những điều này là do số phận đã định.
“Tôi không tin tất cả những thứ này đều là do cổ nhân mấy trăm năm trước sắp đặt, chắc chắn chúng ta đã rơi vào một vòng tròn luẩn quẩn!”, Đường Phong bỗng nhiên nói.
“Vòng tròn luẩn quẩn?!”, Hàn Giang và lão Mã đều ngạc nhiên. Tuy họ cũng nghĩ tới điều này nhưng khi Đường Phong thốt ra từ “vòng tròn luẩn quẩn” thì họ vẫn giật thót tim.
“Nghĩ mà xem, tại sao từ khi chúng ta vào trong mắt phải của đại Phật thì cũng không nhìn thấy ký hiệu đánh dấu của người bí ẩn đó nữa?”
“Tại sao?”, Hàn Giang và Makarov thực ra cũng đã nghĩ ra đáp án.
“Chỉ có một cách giải thích duy nhất, đó là người bí ẩn đó không vào trong mê cung. Hắn ta cố ý để lại lưỡi móc trên đỉnh đầu tượng Phật để dụ chúng ta vào trong cái mê cung này!”.
“Không... không thể tin được!”, Makarov nói.
“Đúng là không thể tin được, nhưng đây lại là sự thật!”. Đường Phong ngập ngừng một lúc rồi bắt đầu giải thích cho suy luận về ý nghĩ của mình: “Tôi luôn cảm thấy lần này chúng ta tới núi Hạ Lan, ngay từ đầu đối thủ cũ của chúng ta đã nhanh chân hơn rồi. Điều này có thể chứng minh qua nhân vật bí ẩn ở nhà trọ, cái chết của Fanny, kí hiệu hình tam giác trong rừng cây, còn cả lưỡi móc trên đỉnh đầu tượng Phật nữa’.
“Những thứ này tôi cũng sớm nhận ra rồi, bởi vậy mới cuống lên mà mắc sai lầm!”, Hàn Giang bắt đầu hối hận vì mình đã mạo nhiên tiến vào mắt phải của tượng Phật.
“Nhưng lần này đối thủ của chúng ta hành động rất khác so với từ trước tới nay!”, Đường Phong gi i thích tiếp: “Trước tiên, cái chết của Fanny rất khả nghi. Fanny luôn kè kè như hình với bóng với Stephen, cái chết của cô ta rất tự nhiên khiến chúng ta liên tưởng tới Stephen, còn cả cái người chỉ thấy tiếng chưa thấy mặt bao giờ là Stechkin, giữa họ là mối quan hệ gì? Vì sao Fanny lại chết?”
“Trước đây tôi tưởng rằng bọn họ là một nhóm?”,
Hàn Giang nói.
“Trước đây tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng hiện giờ tôi lại cảm thấy hình như không đơn giản như vậy đâu. Nếu chúng ta bị lừa vào đây, cũng có nghĩa là suy luận về âm mưu mà tôi nói thành hiện thực, thì đối thủ đó của chúng ta quả không đơn giản đâu.”
“Ý anh là chiếc móc sắt trên mắt phải tượng Phật là do nhân vật bí ẩn đó cố ý để lại để dụ chúng ta vào trong, khiến chúng ta chết kẹt trong này?”, Hàn Giang ngạc nhiên nói.
“Nếu là như vậy thì Yelena và Từ Nhân Vũ ngoài kia cũng lành ít dữ nhiều!”, Makarov không khỏi lo lắng cho Yelena.
“Còn nữa, trước đây Stephen để lại ấn tượng trong chúng ta là gã hữu dũng vô mưu, nhưng cái gã bí ẩn này lại cao tay hơn nhiều, không những việc gì cũng tính toán trước chúng ta, hơn nữa, tôi còn nghi rằng Fanny bị chính gã này giết!”, Đường Phong tiếp tục suy đoán.
“Fanny là đoi thủ của chúng ta, vậy gã bí ẩn đó giết chết Fanny rốt cuộc là giúp chúng ta hay là muốn hại chúng ta?”, Hàn Giang cũng có chút không hiểu.
“Tôi luôn cho rằng đối thủ của chúng ta không phải là hạng xoàng, chúng rất lớn mạnh, hơn nữa còn rất phức tạp”, Đường Phong nói.
“Nhưng tốc độ của chúng ta cũng rất nhanh rồi, tại sao bọn chúng lại đến đây trước chúng ta được nhỉ? Kể cả nội bộ của chúng ta có gián điệp đi chăng nữa, thì tốc độ của bọn chúng cũng không thể nhanh như vậy được!”, Hàn Giang vẫn không hiểu ra làm sao.
Đường Phong ngẫm nghĩ một hồi, nói: “Có lẽ vấn đề vẫn là nằm trên tấm bản đồ kho báu đó.”
“Chính là tấm bản đồ kho báu mà chúng ta nhìn thấy trong nhà trọ sao?”
“ừm, vòng tròn đỏ trên tấm bản đồ rất gần với vị trí của chúng ta hiện giờ, bởi vậy tôi nghi ngờ cái gọi là vòng tròn đỏ đó thực ra là ở đây - bên trong tượng Phật, chỉ có điều chúng ta đã tìm sai cửa vào!”, Đường Phong bỗng nhiên tư duy thông suốt, hình như anh cũng đã hiểu rõ mọi chuyện rồi.
“Cậu cứ nói quá, trên tấm bản đồ đó chẳng có mấy thông tin, cơ bản không thể xác định vòng tròn đỏ đó chính là chỗ này.”
“Nếu người khách ở phòng phía đông đó có liên quan tới cái chết của Fanny, thì cậu sẽ không nghĩ như vậy. Có mỗi một tấm bản đồ được coi là bản đồ kho báu thì chẳng có gì lạ, nhưng liên hệ giữa cái chết của Fanny và những gì hiện giờ chúng ta gặp phải thì cũng chưa đủ rõ ràng sao?”, Đường Phong bắt đầu cảm giác có chút khó thở, nên đành giữ hơi lại.
Hàn Giang trở nên trầm tư, anh cũng bắt đầu tán đồng quan điểm của Đường Phong:“Xem ra ngay từ ban đầu chúng ta đã bỏ qua rất nhiều thứ”.
“Trên tấm bản đồ kho báu đó chắc chắn vẫn còn thông tin gì đó đã bị chúng ta bỏ sót!”, Đường Phong nói.
Hàn Giang vừa nghe thấy vậy, liền định tìm bức ảnh mà anh đã chụp, nhưng bị Đường Phong ngăn lại: “Ngay từ đầu chúng ta đã không tìm ra, bây giờ bị mắc kẹt ở đây rồi thì tìm có tác dụng gì nữa?”
Đúng vậy, hiện giờ nói gì cũng muộn rồi. Ba người mệt mỏi rã rời, tuyệt vọng tựa vào vách đá...
3
Trong lối đi tối đen sâu hun hút, Makarov một mình cầm đuốc bước đi. Ông không biết lối đi này sẽ thông tới đâu, ông cũng không hiểu tại sao mình lại tới đây, là tới để
thám hiểm tìm kiếm văn minh bị thất lạc, hay là để đoạt được kho báu của Hạo Vương?
Cứ phư vậy ông không ngừng tiến lên phía trước, đột nhiên, trước mặt lóe lên một u hồn màu trắng, chặn đứng đường đi của Makarov! Makarov vô cùng hoảng sợ, lùi lại phía sau vài bước, dựa vào tường, thì lúc này mới đứng vững lại được. Ông nhìn lại u hồn trước mặt, miệng bất giác lẩm bẩm thốt ra cái tên: “Misha”.
U hồn Misha nhìn Makarov, và nói với ông bằng giọng khàn đặc: “Đi theo tôi!”, nói xong, Misha quay người tiếp tục đi vào sâu trong lối đi. Makarov không hiểu Misha muốn gì, chỉ thấy bước chân ông ấy nhẹ tênh, bước nhanh vào sâu trong lối đi hun hút, còn Makarov chỉ biết bám chặt theo sau. Nhưng Misha càng đi càng nhanh, Makarov không nói nửa lời... Rốt cuộc, sau khi Misha rẽ vào một ngã rẽ thì đã không thấy đâu nữa.I
Misha vĩnh viễn mất hút trong lối đi tối đen, xung quanh lại yên ắng như tờ. Makarov dừng lại, im lặng quan sát xung quanh. Đây là điểm cuối của lối đi, phía trước không còn đường đi nữa, xung quanh toàn là vách đá màu đen. “Misha đâu? Sao chớp mắt cái đã không thấy đâu nữa?”, Makarov nghi ngờ đi tới điểm cuối của lối đi, dùng đuốc soi lên khắp vách đá, bỗng phát hiện ra trên vách đá cuối đường đi có vài đường nét quái dị, còn có cả rất nhiều màu sắc còn sót lại. Ông tới gần vách đá, dưới ánh sáng của ngọn đuốc, ông mở to mắt, ông... ông lại trông thấy bức tranh đáng sợ đó...
“Không!... Không!”, Makarov hét lên một tiếng, và tỉnh dậy.
Đường Phong và Hàn Giang vội vàng đỡ ông dậy. “Sao thế? Lão Mã!”, hai người quan tâm hỏi han.
Lão Mã ngồi dậy, lúc này mới phát hiện ra ban nãy mình đã tựa vào vách đá ngủ thiếp đi. “Tôi mơ thấy ác mộng!”, ông muốn mình nhanh chóng bình tĩnh lại nên khẽ nói.
Nhưng khi Makarov hồi tưởng lại cảnh tượng trong giấc mơ thì ông bỗng giật thót tim. Ông đứng dậy, thẫn thờ nhìn vách đá đen sì sì xung quanh. Đường Phong và Hàn Giang không hiểu ông đang làm gì. Đột nhiên, thấy ông cầm đèn pin, lùi lại phía sau hơn chục bước, sau đó quay người lại, dùng đèn pin soi lên vách đá khổng lồ trước mặt.
“Lão Mã, bác đang làm gì vậy?”, Hàn Giang không hiểu.
“Vách đá này xuất hiện trong cơn ác mộng của tôi”, Makarov tập trung tâm trí nhìn vách đá trước mặt, nhưng ánh sáng phát ra từ đèn pin quá yếu.
“Vách đá và ác mộng của bác có liên quan gì tới nhau? Cháu thấy chắc là bác mệt mỏi quá rồi...”, Hàn Giang an ủi ông.
“Không!”, Makarov ngắt lời Hàn Giang, “Lẽ nào các cậu không cảm thấy vách đá này có chút quái dị sao?”
“Quái dị? Thì quái dị mà, sừng sững chặn đứng đường đi của chúng ta , Hàn Giang nói không chút hòa khí.
“Ý tôi không phải cái đó...
“Có phải bác thấy vách đá này bằng phẳng hơn rất nhiều những vách đá xung quanh phải không?”, Đường Phong nhìn nhận ra chút vấn đề.
“ừ'm, Đường Phong cậu nói đúng đấy, ban nãy chúng ta chỉ chăm chăm tìm đường mà không quan sát kĩ vách đá trước mặt... nếu có được bó đuốc thì...”, Makarov nói tới đây, đột nhiên im bặt. Đường Phong để ý thấy, chính trong khoảnh khắc đó, đôi mắt ông bỗng mở to.
4
“Lão Mã, bác phát hiện thấy gì vậy?”, Đường Phong lập tức truy hỏi.
“Các cậu xem, trên vách đá có phải có tranh vẽ không?”, giọng lão Mã có chút run rẩy.
“Tranh vẽ?”, Đường Phong và Hàn Giang cùng lúc soi thẳng đèn pin vào vách đá trước mặt.
Dưới ánh sáng của ba chiếc đèn pin, trên vách đá khổng lồ thấp thoáng hiện lên vài đường nét nguệch ngoạc. Đường Phong di chuyển chầm chậm chiếc đèn pin trong tay, ánh sáng từ từ di chuyển, đường nét uốn lượn quanh co trải dài trên vách đá...
Đây là cái gì? Những đường nét trên vách đá rốt cuộc vẽ gì vậy? Độ đài của đường nét này vượt xa so với tính toán của Đường Phong, lẽ nào nét vẽ này vẽ kín cả bề mặt vách đá? Nếu như đây là một bức tranh trên vách đá, thì sẽ là một bức tranh khổng lồ! Trong lòng Đường Phong dự cảm đây sẽ lại là một phát hiện đáng kinh ngạc.
Để nhìn rõ hơn đường nét trên vách đá, Đường Phong bất giác lùi lại phía sau, rồi lại lùi lại khoảng chục bước nữa anh mới đứng lại. Hàn Giang và Makarov cũng lùi lại phía sau. Ba người lúc này đều mở to mắt.
“Là một bức tranh khổng lồ trên vách đá!”, Đường Phong reo lên.
“Tranh trên vách đá đều vẽ trên vách núi cao, sao lại xuất hiện trong hang động sâu hun hút thế này nhỉ?”, Hàn Giang cũng đã nhận ra bức tranh khổng lồ trên đá được vẽ bằng những đường nét màu đỏ thẫm trước mặt.
“Trong hang động sâu thế này mà vẽ tranh trên đá thì đúng là cho thấy đây là nơi rất quan trọng!”, Đường Phong suy đoán.
“Có lẽ là vậy, nhưng tôi vẫn chưa hiểu, bức tranh này vẽ gì vậy?”, Hàn Giang hỏi.
“Hình như vẽ một con sói, trên người sói có một con chim ưng, có thể không phải là chim ưng mà là kền kền cũng nên!”, Đường Phong đã nhìn ra được nội dung bức tranh.
“Sao cơ? Một con chim ưng đứng trên mình sói?”, Hàn Giang lập tức liên tưởng tới hình xăm xuất hiện nhiều lần trên người những gã áo đen.
“Đúng! Giống hệt như hình xăm trên người đối thủ chúng ta!”, Đường Phong cũng đã nghĩ tới hình xăm đó.
Trong lúc hai người nói chuyện, Makarov vẫn im lặng. Lúc Đường Phong quay lại nhìn Makarov thì thấy
ông đứng thẫn thờ trước vách đá, đôi mắt đầy hoảng loạn. “Lão Mã, bác sao vậy?”, Đường Phong hỏi.
“Sao... sao... lại như vậy được?”, Makarov tự mình lẩm bẩm bằng tiếng Nga.
“Lão Mã, có phải bác đã từng trông thấy bức tranh này rồi phải không?”, Hàn Giang bồng nhớ lại phản ứng kì lạ của lão Mã khi nhìn thấy hình xăm trên người gã áo đen ở thác nước.
Đường Phong cũng nhớ ra phản ứng lúc đó của lão Mã, khi nhìn thắy hình xăm trên người gã áo đen, cả hai đều nhìn ông chằm chằm, chờ đợi ông có thể giải tỏa nghi ngờ cho họ. Nhưng Makarov im lặng không nói, giống như càng chìm sâu trong ký ức vậy.
Hàn Giang chán nản, đành phải chuyển hướng sang Đường Phong: “Cậu xem bức tranh này có phải từ thời Tây Hạ không?”
Đường Phong tiến lại gần bức tranh, đưa tay phải ra, khẽ chạm lên những đường nét thần bí. Trong khoảnh khắc đó, một cảm giác kì lạ lan tỏa khắp cơ thể anh, theo phản xạ anh rụt tay lại: “Rất kì lạ, căn cứ vào phong cách của bức tranh này thì đúng là của thời kì Tây Hạ, nhưng đường nét trên mặt đá lại không phải là màu đỏ thẫm mà trước đây chúng ta nhìn thấy.”
Hàn Giang cũng đưa tay ra, chạm vào những đường nét trên vách đá, sau đó tỉ mỉ quan sát: “ừm, hình như màu sắc tươi hơn một chút, gần giống với màu đỏ hơn, nhưng có khả năng là do quá nhiều năm rồi nên màu sắc cũng không còn tươi nữa. Nhưng thời kì Tây Hạ không dùng màu sắc này để vẽ tranh trên vách đá sao?”
“Không chắc nữa...”, Đường Phong tiếp tục lần theo đường nét trên bức tranh để nhìn xuống dưới, ngón tay anh khẽ chạm lên những nét vẽ từ thời cổ đại này, đột nhiên, ngón tay anh dừng di chuyển: “Anh nhìn đây!”. Hàn Giang nhìn theo hướng ngón tay Đường Phong chỉ, phát hiện chỗ đường nét vốn là nét vẽ đơn, bỗng xuất hiện hai đường nét khác nhau.
“Thế này thì sao?”, Hàn Giang không hiểu ý Đường Phong.
Đường Phong tỉ mẩn quan sát một hồi, nói: “Điều này đã giải thích cho nghi vấn ban nãy của tôi. Anh xem nét vẽ ở đây bỗng chuyển thành hai nét, thực ra là vẽ làm hai lần, màu sắc của nét vẽ phía dưới chính là màu đỏ thẫm mà chúng ta trông thấy.”
Hàn Giang phát hiện ra ở đây quả thật xuất hiện hai nét vẽ, một nét là màu đỏ thẫm, còn nét kia màu đỏ tươi. Đường Phong lại tiếp tục giải thích: “Đường nét đỏ thẫm thì lâu đời hơn, chắc là vẽ từ thời Tây Hạ, còn đường nét màu đỏ tươi vẽ đè lên lại là do người đời sau dùng chu sa vẽ lại lần nữa, bởi vậy bây giờ mới thấy một bức tranh như vậy.”
“Cũng có nghĩa là đã có người vẽ lại lần nữa trên nền bức vẽ gốc?”
“Chính xác mà nói là tô lại lần nữa!”
“Đây là do ai làm? Sao lại phải làm vậy?”
“Tôi cũng không hiểu, ai lại làm như vậy nhỉ? Trong hang động sâu hun hút thế này thì hình như đâu có cần thiết phải làm thế?”, Đường Phong lắc đầu.
5
Hai người nghiên cứu hồi lâu bức tranh trên đá, mà đã khiến Makarov hoảng hốt, rồi quay lại nhìn ông, lúc này hình như sắc mặt ông cũng đã khá lên một chút. Đường Phong bước lại, hỏi ông: “Lão Mã, rốt cuộc là thế nào? Sao lúc bác trông thấy bức tranh này lại căng thẳng như vậy?”
Makarov cũng chầm chậm bước tới gần bức tranh trên vách đá, ngồi xổm xuống đất, nói: “Hàn Giang, cậu nói không sai, lần đó ở trong thác nước trong hang động của Thất Sắc Cẩm Hải, lúc tôi nhìn thấy hình xăm trên người gã áo đen đó, đã cảm thấy bất ngờ rồi. Sau đó, Yelena cũng nhìn thấy hình xăm này trên người mấy gã bị bắn chết ở Saint Petersburg, lại càng khiến tôi kinh ngạc hơn. Điều đó cho thấy những kẻ đối kháng với chúng ta đều đến từ một tổ chức bí ẩn, tổ chức này lấy hình xăm đó làm kí hiệu nhận diện. Hơn nữa, từ hình xăm giống hệt nhau trên người bọn chúng cho thấy, đây là một tổ chức rất quy mô, chặt chẽ.”
“ừm, chúng ta đã phát hiện thấy hình xăm giống hệt nhau trên người của những kẻ trong tổ chức này, từ đó có thể nhận định, đối thủ của chúng ta là một tổ chức rất chặt chẽ”, Hàn Giang ngừng lại một lúc, “Nhưng cháu không hiểu tại sao khi trông thấy hình xăm đó bác lại hoảng sợ như vậy?”
“Bởi vì tôi đã từng nhìn thấy hình xăm này, ban nãy trong cơn ác mộng cũng nhìn thấy hình vẽ đáng sợ này!”, Makarov nói.
“Bác đã từng trông thấy? Trước đây?”
“Đúng! Mấy chục năm trước. Các cậu có còn nhớ chuyến đi tới Mông cổ mà tôi đã từng kể với các cậu không?”
“Đương nhiên, căn cứ Tiền Tiến, Branch...”, hồi ức của Makarov lại trở về khu căn cứ Tiền Tiến trong sa mạc Gobi, đó là lần đầu tiên ông trông thấy kí hiệu kì lạ này...
Mùa hè nóng nực, sau một cơn bão cát, sa mạc Gobi cuồng nộ đã yên tĩnh trở lại, không khí vẫn còn dày đặc những bụi cát mịt mù. Makarov mở cánh cổng sắt của khu căn cứ, nhổ cát bụi đầy trong miệng ra.
“Mùa hè trên sa mạc khó ở giống hệt như mùa đông khắc nghiệt vậy!”, sau lưng vang lên giọng nói của Branch.
“Đúng vậy! Không biết những ngày tháng thế này bao giờ mới kết thúc nữa?”
“Nhẫn nại, chúng ta vẫn cần phải nhẫn nại!”, sau khi thốt ra một câu Branch bình chân như vại đi về phía ngoài khu căn cứ.
Lúc này Makarov chỉ muốn ở trong phòng, chẳng muốn làm gì cả, nhưng trách nhiệm đã thôi thúc anh phải tuần tra một vòng căn cứ, kiểm tra qua tình hình bị tổn thất.
Vẫn may! Chẳng có thiết bị quan trọng nào bị tổn hại, Makarov chầm chậm đi về phía những căn nhà mái tôn phía ngoài căn cứ. Sau khi anh và Branch tới căn cứ thì đã xậy dựng mấy căn nhà mái tôn xung quanh căn cứ để làm nơi trực ban cảnh giới, và có lúc cũng dùng để huấn luyện; đặc biệt là ở phía đông căn cứ, Branch đã xây dựng mấy căn nhà mái tôn, nói là để làm nơi huấn luyện. Makarov cũng không hỏi han gì, thậm chí sau khi căn cứ huấn luyện xây dựng xong, anh cũng chỉ tới đây vài lần.
Makarov chậm rãi bước tới dãy nhà mái tôn mới được xây dựng phía đông của căn cứ. Anh cũng không biết tại sao hôm nay mình lại hứng thú đội nắng gắt tới đây. Không biết từ bao giờ, bên ngoài dãy nhà mái tôn này đã giăng thêm một hàng rào dây thép gai và lưới sắt quây xung quanh dãy nhà mái tôn, chỉ để lại một lối đi để tiện ra vào.
Makarov tiến lại gần lưới sắt, bất giác cười nhạt, lòng thầm nghĩ: ở đây không bố trí vọng gác, thiết kế vòng dây thép gai này thì có ích gì?
Anh tới trước một căn nhà mái tôn khá rộng rãi, đây là một phòng làm việc, Branch thường đưa người tới đây để huấn luyện. Đột nhiên trong phòng vọng ra tiếng kêu thảm thiết khiến Makarov nổi cả da gà. Theo phản xạ, anh móc súng ra, căng thẳng bước tới phía cửa.
Khi Makarov định đấy cửa thì cửa bỗng tự bật mở, Branch mồ hôi mồ kê nhễ nhại bước ra. “Ban nãy xảy ra chuyện gì vậy?”, Makarov hỏi.
Branch gượng gạo, cười cười: “Chẳng có gì cả, các học viên đang chơi một trò chơi”.
“Trò chơi?”, Makarov nghi ngờ đẩy cửa ra, bước vào trong phòng thì trông thấy vài học viên để mình trần đang đè một học viên gầy yếu xuống. Lý Quốc Văn cầm đầu, đang cầm một con dao găm quân dụng nhỏ trong tay, đứng bên cạnh, đằng sau gáy của học viên gầy yếu đó đã bị rạch rách từ lúc nào, máu me be bét.
“Các cậu làm gì ở đây thế hả?”, Makarov thấy vậy liền nghiêm giọng hỏi.
Lý Quốc Văn rõ ràng bị bất ngờ nên có chút chột dạ: “Không, chẳng... chẳng, chúng tôi chỉ đang chơi một trò chơi thôi mà.”
Makarov đang định nổi cáu thì Branch phía sau chọc chọc anh. Anh không tiện quát ầm lên, đành phải theo Branch ra ngoài.
Trở về căn cứ, chưa kịp đợi Makarov mở miệng, Branch đã cười khan vài tiếng: “Anh ngồi văn phòng trong thành phố lâu rồi, nên không hiểu được nỗi khổ ở phía dưới; muốn huấn luyện tốt những người này mà không dùng đến chút thủ đoạn thì không được đâu. Hôm nay, tôi ác với họ một chút, thực ra là để cho họ tốt lên, tránh cho họ sau này không làm được việc, như vậy không những sẽ hỏng việc của chúng ta mà bản thân họ cũng đen đủi.”
“Nhưng anh làm như vậy đã được cấp trên phê chuẩn chưa?”
“Đừng ngốc thế nữa, mấy việc nhỏ này cấp trên từ trưởc tới nay đều biết mà như không biết, cấp trên có ý kiến của cấp trên, cấp dưới có biện pháp của cấp dưới!”, Branch hùng hồn trả lời.
Makarov cũng hiểu rằng, tình trạng phạt bằng cách đày đọa thể xác trong KGB không thể mình anh thay đổi được. Nghe Branch giải thích xong, anh cũng chỉ biết lắc đầu.
6
Một tuần trôi qua, mọi việc trong căn cứ đều bình thường, cuộc sống của Makarov vẫn yên bình nhạt nhẽo như trước đây. Hôm nay, anh cảm thấy hơi chóng mặt nên đã tới phòng khám của căn cứ, định tìm người y sỹ duy nhất ở đây kê chút đơn thuốc.
Bước tới phòng khám, bên ngoài phòng không có ai, vậy là Makarov đi vào trong. Ở đây có kê hai chiếc giường, anh trông thấy có một người nằm trên giường, người y sỹ đeo khẩu trang, đang cầm kéo và kẹp y tế cắt chỉ cho người này.
Makarov đánh tiếng chào hỏi người y sỹ rồi định ra ngoài đợi, nhưng khi anh quay đi thì phát hiện ra người đang nằm trên giường chính là học viên tuần trước bị Branch phạt.
Anh dừng lại, đứng bên cạnh nhìn chằm chằm người y sỹ cắt chỉ. Chẳng mấy chốc anh y sỹ đã cắt chỉ xong, Makarov trông thấy sau gáy người đó sưng phồng tấy đỏ, nhưng điều khiến anh ngạc nhiên lại là, trên vết thương tấy đỏ của người đó xuất hiện một hình vẽ rõ nét, là một con chim ứng đứng trên mình con sói. Lẽ nào hình vẽ này chính là kiệt tác mà Branch và Lý Quốc Văn dùng dao găm để lại trên cơ thể người này? Nghĩ tới đây, toàn thân anh run bắn lên.
Đúng lúc Makarov đang ngạc nhiên thì cửa bật mở, Lý Quốc Văn bước vào. Cả hai sững sờ nhìn nhau. Makarov kéo ngay Lý Quốc Văn ra khỏi buồng khám, nghiêm giọng chất vấn: “vết thương trên người học viên đó là kiệt tác của cậu sao?”
Lý Quốc Văn cười vu vơ: “Khà khà, có thể coi là vậy ạ.”
“Các cậu đối đãi với anh ta vậy sao?”
“Đó chỉ là một cách trừng phạt nhỏ thôi mà.”
“Trừng phạt nhỏ? Trên người cậu có không?”
Lý Quốc Văn không ngờ Makarov lại hỏi câu này, anh ta hơi sững sờ một lúc: “Tôi..
“Đây đều là do đồng chí Branch bảo các cậu làm phải không?”, Makarov truy hỏi.
“ừm, ông ấy ra lệnh.”
“Vậy cậu nói cho tôi biết, ý nghĩa của hình vẽ đó là gì?”
“Hình vẽ?!”
“Chính là hình con chim ưng và con sói đó!”
“Ồ! Hình đó chẳng có nghĩa gì cả, đồng chí Branch bảo tôi làm vậy, ông ấy nói rằng đó là tô-tem của một bộ lạc cổ xưa!”, Lý Quốc Văn rất bình tĩnh trả lời.
“Bộ lạc cổ xưa? Bộ lạc nào?”
Lý Quốc Văn lắc đầu: “Tôi không biết, đồng chí Branch bảo rằng ông ấy nhìn thấy trong một hang núi gần khu căn cứ
“Hang núi nào vậy?”, trong đầu Makarov lập tức lục soát lại địa hình xung quanh, nhưng anh không nghĩ ra gần căn cứ còn có một hang núi nào nữa.
“Tôi cũng chưa tới đó bao giờ nên không biết vị trí cụ thể của hang núi đó. Nhưng đồng chí Branch nói rằng hình như hang núi đó ở rất xa căn cứ, gần tận biên giới cơ!”, Lý Quốc Văn trả lời rất rành rọt.
Trong lòng Makarov do dự một chút, cuối cùng vẫn thốt ra câu hỏi mà mình nghi ngờ nhất: “Nếu là xăm mình thì sao phải dùng cách tàn nhẫn vậy? Theo như tôi biết thì xăm mình ngày nay có cách rất văn minh mà.”
Lý Quốc Văn nhún vai, giải thích: “Anh biết rồi đấy, điều kiện của chúng ta ở đây rất sơ sài, cộng thêm trong quân đội không cho phép xăm mình thế nên lấy đâu ra thiết bị chuyên dụng? Hơn nữa còn…
“Hơn nữa còn gì?”
“Còn...”, Lý Quốc Văn ấp a ấp úng.
“Nói mau!”, Makarov có chút nổi nóng.
“Còn... tốt nhất anh đi hỏi đồng chí Branch ấy, những gì nói được tôi đều đã nói rồi!”, Lý Quốc Văn đột nhiên đứng thẳng người, trả lời Makarov rất kiên quyết.
Makarov ngạc nhiên, không ngờ người Trung Quốc đang đứng trước mặt lại trả lời mình như vậy, anh chỉ cònchán nản hất hất tay ra hiệu với Lý Quốc Văn. Lý Quốc Văn đứng nghiêm chào anh rồi lại bước vào phòng y tế, dẫn học viên đó đi.
7
Makarov nhìn theo bóng dáng hai người này, giờ mới nhớ ra việc chính của mình, vậy là anh quay lại phòng y tế.
Lấy thuốc xong xuôi, anh hỏi y sỹ: “vết thương của người ban nãy có nặng không?”
“vết thương vốn không nặng nhưng bây giờ mới đưa tới nên đã bị mưng mủ, cộng thêm người đó sức khỏe vốn dĩ đã không tốt nên bây giờ không biết thế nào, phải theo dõi thêm vài ngày nữa. Nếu sau mấy hôm mà vết thương vẫn chưa liền lại, thì tôi thấy nên chuyển người này tới bệnh viện Irkutsk để điều trị.”
Makarov không ngờ lại nghiêm trọng như vậy, chần chừ một lúc, anh mới lại hỏi tiếp: “Anh đã nhìn hình vẽ đó chưa?”
“Hình vẽ? ừm, nhìn thấy rồi!”, y sỹ trả lời tỉnh bơ.
“Nó tượng trưng cho cái gì vậy?”
“Tượng trưng cho cái gì ư? Tôi chỉ lo chữa trị còn cái hình vẽ đó tượng trưng cho điều gì thì tôi không biết. Nhưng...”, anh y sỹ hình như nhớ ra điều gì đó, nhưng ngập ngừng không muốn nói.
“Nhưng sao cơ?”, Makarov truy hỏi.
“Nhưng hình vẽ đó tôi đã từng nhìn thấy..
“Ồ?”, Makarov bắt đầu thấy hứng thú.
“Lần trước cũng có học viên bị tương tự như vậy, được khiêng đến nhờ tôi xử lý. Lúc đó tình hình của người đó còn thảm hơn người này, vết thương không những sưng tấy mưng mủ mà người đó còn hôn mê bất tỉnh, sốt bừng bừng”, người y sỹ nhớ lại.
“Sau đó thế nào? Học viên đó ra sao?”, Makarov thấy mình là cấp trên mà không hề biết tới những việc này nên không khỏi tức tối.
“Việc sau đó tôi cũng không rõ lắm, sau khi tôi xử lý cho học viên đó xong thì từ đó cũng không gặp lại anh ta nữa!”, người y sỹ nhún vai, thể hiện vẻ bất lực.
“Anh có còn nhớ tên anh ta không?”
“Những học viên đến đây chỉ có một mã số, chúng tôi đều không biết tên của họ!”, y sỹ lắc đầu.
Lúc này Makarov mới nhớ ra trong nội bộ căn cứ, giữa những học viên với nhau, giữa huấn luyện viên và học viên chỉ gọi nhau bằng mã số, bởi vậy rất nhiều học viên nếu anh không đi kiểm tra hồ sơ thì cũng không biết họ tên là gì. Giống như học viên ban nãy bị Lý Quốc Văn đưa đi, Makarov trông rất quen nhưng không nhớ anh ta tên gì, đây cũng là quy tắc mà Branch đặt ra ngay từ đầu.
“Vậy mã số của anh ta là gì, chắc anh vẫn còn nhớ.
Makarov vẫn không nản.
Người y sỹ lại lực bất tòng tâm nhún vai: “Quy định của đồng chí Branch là học viên đến đây khám bệnh đều không để lại bệnh án, tất cả đơn thuốc đều phải để anh ấy duyệt qua. Bởi vậy tôi chỉ tập trung khám bệnh kê thuốc, những việc khác tôi đều không biết.”
“Học viên lần trước được khiêng đến đây từ lúc nào? Cái này chắc anh vẫn còn nhớ chứ?”
Người y sỹ đảo mắt, ngẫm nghĩ một lúc, nói: “Hình như là bảy tám tháng trước thì phải!”
Xem ra chẳng hỏi han được gì từ người y sỹ này nên Makarov liền đứng dậy cáo từ. Trở về ký túc, không thấy Branch đâu, anh uể oải nhoài ra giường, ngủ cũng không được, nên chỉ biết thẫn thờ nhìn chằm chằm lên trần nhà. Học viên bảy, tám tháng trước? Tô-tem của bộ lạc cổ xưa? Makarov nghĩ tới hình vẽ đó, nghiền ngẫm lời của Lý Quốc Văn... cảm thấy có lẽ mình nên làm chút gì đó, nghĩ tới đây, anh bỗng bật dậy khỏi giường.
Makarov tới phòng của Branch, vốn dĩ ở đây chỉ là một phòng ngủ nhỏ, nhưng do căn phòng này rộng hơn của Makarov một chút, nên ở đây ngoài buồng ngủ của Branch ra còn là “phòng cơ mật” của cả khu căn cứ. Những văn kiện quan trọng của căn cứ, súng ống đạn dược dự phòng đều cất giữ ở đây.
Makarov đảo mắt một lượt khắp căn phòng của Branch, chăn gối trên giường được gấp gọn gàng ngăn nắp, cả căn phòng sạch sẽ tinh tươm. Đây là thói quen thường ngày của Branch. Cho dù là ở nơi đất khách quê người, trong sa mạc hoang vu, nhưng Branch vẫn giữ nguyên tắc chỉn chu của quân nhân. Makarov liếc nhìn chiếc tủ sắt cạnh giá sách, trong này cất giữ những hồ sơ quan trọng của căn cứ và cả súng ống đạn dược. Chìa khóa của chiếc tủ này chỉ có Branch và anh có, bình thường anh rất ít khi mở tủ này ra, bởi vậy chiếc tủ này chủ yếu là do Branch phụ trách bảo quản.
Makarov không nhớ rõ là lần trước mình mở chiếc tủ sắt này ra là vào lúc nào, hình như là một tháng trước, cất một bộ hồ sơ vào trong này...
8
Makarov móc chìa khóa ra, mở tủ sắt. Chiếc tủ sắt rất lớn, chiếm cả mặt tường, bên trong chia thành ba ngăn trên, giữa, dưới. Ngăn trên cùng cất giữ hồ sơ văn kiện quan trọng của căn cử, ngăn giữa và ngăn dưới để đạn dược súng ống dự phòng.
Ngăn trên còn có một chiếc két nhỏ, bên trong cất giữ kinh phí và sổ sách hóa đơn của căn cứ. Makarov dùng một chiếc chìa khóa khác cẩn thận mở tủ ngăn trên ra, trong đó có xếp ngay ngắn vài xấp tiền xanh đỏ, phân thành tiền rúp, đô la Mỹ, nhân dân tệ và tiền Tugrik Mông cổ. Ở cái nơi quái quỷ này không có ngân hàng, mọi thứ đều phải giải quyết bằng tiền bạc. Lúc Makarov mới tới căn cứ, có một thời gian anh còn lo chuột chui được vào trong tủ và gặm nhấm chỗ tiền này thì coi như nhịn đói luôn, nhưng sau này anh đã dần yên tâm, bởi ở cái nơi đến cỏ cũng không mọc nổi này thì lấy đâu ra chuột.
Từ trước tới nay Makarov cũng không để ý tới chuyện tiền nong, sổ sách trong căn cứ đều được một tay Branch quản lý. Anh xem qua tủ đựng tiền một chút, thấy tiền vẫn còn rất nhiều, sổ sách vẫn còn nguyên nên cũng yên tâm.
Makarov khóa tủ đựng tiền lại, rồi lại kiểm tra súng ống đạn dược dự phòng ở ngăn giữa và ngăn dưới. Ngoài nhân viên KGB trong căn cứ ra thì tất cả những học viên đều không được phát súng đạn, chỉ lúc tập huấn, huấn luyện viên mới tới chỗ Branch để lĩnh vũ khí, đạn dược.
Đây là quy định mà anh và Branch đặt ra ngay từ đầu.
Một dãy súng đột kích AK-47 xếp ngay ngắn trong ngăn dưới tủ, Makarov đếm sơ qua, tổng cộng 27 khẩu, thiếu mất 9 khẩu. Anh giở sổ ghi chép ra, Branch huấn luyện cho học viên, mang theo 9 khẩu AK-47 và một thùng đạn. Anh lại kiểm tra ngăn giữa, 36 khẩu súng ngắn TT-33, 4 khẩu súng săn, 3 khẩu bắn tỉa, 2 khẩu súng máy hạng nhẹ,
1 khẩu súng máy hạng nặng, còn có cả 4 khẩu súng gián điệp mini chuyên dụng dùng để huấn luyện đặc công đều ở trong tủ, không thiếu một khẩu, còn 20 thùng đạn dược, 2 thùng lựu đạn cũng đều ở trong tủ.
Makarov lại nhìn lên ngăn trên cùng, ở đó còn có rất nhiều hồ sơ văn kiện, anh tìm thấy một tập hồ sơ, lấy nó ra.
Đây là mẫu đăng ký của học viên, anh đọc qua tình hình của học viên trong căn cứ trên mẫu đăng kí. Đọc mãi, đọc mãi, đột nhiên mắt anh mở to, anh phát hiện thấy trên cột ghi chú về tình hình của một học viên trong số đó ghi rõ: Học viên này trong quá trình huấn luyện, có mưu đồ bỏ trốn khỏi căn cứ nên đã bị bắn chết ngay tại hiện trường.
Makarov nhận ra ngay đây chính là nét chữ của Branch. Có học viên định bỏ trốn bị bắn chết! Sao Makarov không có chút ấn tượng gì cả, anh ra sức nhớ lại, chầm chậm, chầm chậm... thẳm sâu trong ký ức của Makarov hình như có chút mảnh vụn. Bảy, tám tháng trước, hình như Branch cũng từng nói với mình, có một học viên trong lúc huấn luyện đã không theo quy định, bị bạn học bắn bị thương.
Lúc đó Ma karov còn hỏi Branch giải quyết thế nào, Branch nói rằng để anh ta phụ trách xử lý, không cần Makarov lo. Từ đó Makarov cũng không hỏi han gì nữa, sau này Branch còn chủ động kể với Makarov rằng: học viên đó đã được đưa tới bệnh viện Irkutsk, sau đó đã bị khai trừ ra khỏi căn cứ.
Nhưng... nhưng trong hồ sơ lại ghi chép không giống với những gì Branch nói. Bị bắn chết tại hiện trường ư?! Không, không thể, nếu như bị bắn chết tại hiện trường thì sẽ có người báo cáo với anh. Tuy anh không quan tâm lắm tới công việc, nhưng nếu trong căn cứ xảy ra chuyện lớn như thế thì không thể giấu anh như vậy được.
Theo cách Branch nói, thì học viên đó có ý đồ đào tẩu, bị Branch đánh trọng thương. Nếu như xảy ra chuyện đó thì anh cũng phải biết chứ? Ánh mắt Makarov tập trung lên những dòng chữ của Branch, anh nhìn chằm chằm vào ngày tháng Branch viết phía sau, chính là hơn bảy tháng trước! Lại liên tưởng tới việc người y sỹ kể về học viên được khiêng đến, trong lòng anh đầy nghi ngờ, rồi lại tiếp tục xem cột ghi chú, chiều cao, cân nặng, từng phần thông tin cua người này đều ghi trên hồ sơ, nhưng điều duy nhất thiếu là mục họ tên. Trước cột họ tên là số hiệu, số hiệu của người này là: A711209.
9
“A711209 đã bị khai trừ rồi!”, đúng lúc Makarov đang nghi ngờ thì phía sau lưng vang lên giọng nói khàn đặc của Branch.
Makarov run bắn người, vội vàng quay lại nhìn. Tay trái Branch ôm 4 khẩu AK-47, tay phải ôm 5 khẩu AK-47 khác, mồ hôi mồ kê nhễ nhại đứng trước cửa buồng.
“Anh... anh lại đi huấn luyện đấy à?”, Makarov không biết nói gì.
Ngược lại Branh lại khá trấn tĩnh, lần lượt cất những khẩu AK vào trong tủ sắt, sau đó lau mồ hôi, chỉ tập hồ sơ trên bàn, nói: “Tôi biết là anh sẽ tới tìm cái này.”
“Nếu anh đã biết là tôi sẽ đến để tìm cái này, thì chúng ta hãy nói chuyện về học viên số A711209 đi!”, Makarov ra sức giữ bình tĩnh.
“Chẳng có gì để nói cả. Vì đã do tôi phụ trách huấn luyện thì phải làm theo cách của tôi, không ai được vi phạm quy tắc mà tôi đã đề ra, là như vậy đấy!”, Branch đầy vẻ bất cần.
“Giờ thì tôi cũng hiểu ra phần nào rằng tại sao anh lại bi giáng chức rồi bị phái tới đây rồi!”, Makarov nhìn quân hàm trên vai Branch, có chút ưu tư.
Branch nghe Makarov nói vậy, không những không tức giận, ngược lại còn cười cười: “Xin hãy tin tôi, chỉ có những học viên được huấn luyện theo cách của tôi thì mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ của họ trong tương lai. Nếu không thì họ sẽ chẳng là cái thá gì cả.”
“Vậy anh có thể nói cho tôi biết tung tích của học viên số A711209 không? Trước đây anh từng nói với tôi rằng có học viên bị thương được đưa tới bệnh viện Irkutsk, sau đó bị khai trừ. Nhưng tôi kiểm tra hết toàn bộ hồ sơ, trong tất cả số học viên, bị khai trừ chỉ có một người, còn trong hồ sơ của anh viết là..
“Tôi viết là học viên đó trong quá trình tập huấn đã mưu đồ bỏ trốn, bị bắn chết ngay tại hiện trường!”, Branch bỗng ngắt lời Makarov, nói rất rành rọt.
Makarov hơi sững sờ một chút: “Rốt cuộc đâu mới là sự thật? Anh có thể nói cho tôi biết không?”
“Đương nhiên có thể nói với anh, anh mới là sếp của căn cứ này mà!”, Branch cầm lấy tập hồ sơ, nhìn lại, sau đó nghiêm túc nói: “Đồng chí Makarov, anh nên hiểu rằng, tất cả mọi việc xảy ra ở căn cứ đều phải chính xác như ghi chép trong hồ sơ”.
Makarov vốn không tin số phận của A711209 lại đơn giản như ghi chép trong hồ sơ: “Không, tôi muốn biết s
thật. Tôi nghĩ tôi có quyền được biết sự thật!”, Makarov lên giọng.
“Được thôi! Để tôi nói cho anh biết. Ivan thân mến,
anh hãy bình tĩnh lại chút đã!”, Branch thấy thái độ kiên
quyết của Makarov liền lập tức làm không khí dịu xuống.
“Tôi có thể bình tĩnh, nhưng nếu như tôi không biết dược sự thật thì rất khó để đảm bảo rằng, tôi sẽ không phản ánh lại sự việc với tổng bộ, để tổng bộ phái người tới đây điều tra việc này!”, Makarov cũng dịu giọng xuống nhưng giọng nói kèm theo chút uy hiếp.
Branch cười đau khổ, vỗ vỗ vai Makarov, nói: “Thực ra sự thật mà anh nói, tốt nhất là nên biết ít hơn một chút sẽ tốt hơn. Như anh thế này, trước đây chỉ ngồi suốt trong văn phòng tại Leningrad, vốn không thể hiểu được những người làm việc thuộc tầng lớp cơ bản như chúng tôi”.
“Có thể trước đây tôi không hiểu, nhưng hiện giờ tôi rất hứng thú tìm hiểu một chút về anh, nhất là những thủ đoạn huấn luyện của anh!”, Makarov kiên quyết đeo bám việc này.
Branch bất lực nhún vai: “Được thôi, tôi nói cho anh biết, những học viên này không giống chúng ta, trong đầu óc họ đã không còn những khái niệm về quốc gia, dân tộc, vinh dự. Những gì chúng ta phải làm là huấn luyện họ thành một cỗ máy, một cỗ máy máu lạnh vô tình, vận hành tươm tất và để chúng ta sử đụng. Vậy thì, trước tiên chúng ta phải kích hoạt tâm lý phòng tuyến trong lòng họ, xóa bỏ hết kí ức trước đây của họ. Những người này, tuy đa số đều là những kẻ không cần mạng sống, nhưng trong lòng họ
vẫn còn tạp niệm, tôi cần phải thông qua một biện pháp để gạt bỏ những tạp niệm đó trong lòng họ đi.”
“Chính bằng cách dùng dao khắc lên người họ?”
“Đó chỉ là một cách rất nhỏ. Tôi có cả trọn bộ phương pháp để những học viên này triệt để quên hết quá khứ của họ, từ bỏ nhân cách của mình, xóa bỏ tình cảm của họ. Chỉ sau khi làm được tất cả những điều này, thì họ mới có thể trở thành một cỗ máy thực sự lớn mạnh!”. Branch nói tới đây vói tâm trạng rất kích động, nên anh ta lặng lẽ điều chỉnh lại tâm lý của mình rồi nói tiếp: “Còn về số A711209, anh ta là người không chịu nghe lời nhất trong số những học viên. Nguyên nhân thì giống như tôi vừa nói trước đó, trong đầu anh ta vẫn còn rất nhiều tạp niệm, anh ta vẫn muốn quay trở lại quá khứ, vẫn muốn tìm kiếm một cuộc sống điền viên mục ca bình thường. Tôi đã từng cảnh cáo anh ta, dù gì cũng đã tới đây rồi thì đầu óc đừng nghĩ ngợi nhiều thể nữa, thực thi nhiệm vụ của chúng ta là việc duy nhất mà anh ta phải làm. Nhưng A711209 đã không nghe lời cảnh cáo của tôi, trong đầu vẫn đầy rẫy những tạp niệm không hợp thời, bởi vậy tôi đã để Lý Quốc Văn dạy dỗ anh ta một chút.”
Makarov đã đọc ra được chút vị trong lời nói của
Branch: “Cũng có nghĩa là chân tướng của sự việc vừa
không giống như anh nói với tôi là bị thương phải đưa đi
viện, cũng không phải là có ý đồ đào tẩu rồi bị bắn chết tại
hiện trường, giống như trong hồ sơ, mà là bị Lý Quốc Văn
đày đọa đến chết.”
“Họ quá bất cẩn, dĩ nhiên việc này cũng không thể trách tội Lý Quốc Văn, bởi vì đây là thủ đoạn bắt buộc, còn về ‘ý đồ tháo chạy, bị bắn chết tại hiện trường’ như viết trong báo cáo, thì chẳng cần phải nghi ngờ gì nữa, đây chính là cách giải thích tốt nhất với cấp trên.”
Makarov cúi đầu, trầm ngâm hồi lâu: “Tại sao trong hồ sơ không có họ tên của mã số A711209?”
“Bởi vì người này không chịu nói, hỏi thế nào cũng không chịu nói, vì thế nên đến tận giờ chúng ta cũng không biết dược họ tên thật của anh ta!”, Branch chán nản nhún vai.
“Người như vậy sao anh còn giữ anh ta ở lại căn cứ làm gì?”, Makarov không hiểu.
Branch thở dài: “Bởi vì tôi tưởng rằng tôi có thể huấn luyện được anh ta, nhưng kết quả là tôi sai rồi, gã này quả thực quá cứng đầu cứng cổ.”
“Vậy A711209 hiện giờ đâu rồi?”
“Đã xử lý rồi. Được chôn ngoài căn cứ.”
“Chôn chỗ nào?”
“Trong một khe núi cách căn cứ khá xa, tôi và Lý Quốc Văn đi chôn.”
“Tôi muốn đến đó xem sao!”, hiện tại Makarov chỉ muốn xác định xem A711209 sống chết ra sao.
“Khe núi đó thực sự là rất xa căn cứ, cái gã đó lúc chết trông rất giống bị dịch bệnh, thế nên tôi và Lý Quốc Văn mới chôn anh ta ở nơi xa như vậy.”
“Bất luận xa như thế nào tôi cũng phải đi xem, nếu không thì… tôi rất khó tán đồng với phương pháp huấn luyện của anh!”, Makarov nói đầy ẩn ý. Branch đang định mở miệng thì Makarov lại nói tiếp: “Đừng nói với tôi là anh quên mất chỗ đó rồi, tôi đã bảo rồi đấy, bất luận là xa xôi cỡ nào cũng phải tới đó một chuyến xem sao. Nếu nhìn thấy rồi, tôi sẽ coi như chưa xảy ra chuyện gì cả.”
Branch chán nản bĩu môi: “Được rồi, đợi tới khi nào có thời gian tôi sẽ sắp xếp.”
“Đúng rồi! Còn cả hình vẽ đó nữa, hình vẽ đó tượng trưng cho cái gì vậy? Tại sao anh lại phải dùng hình vẽ đó?”, Makarov đột nhiên nhớ lại cái hình vẽ quái dị đó.
“Chẳng có gì cả, đó chỉ là tô-tem của một bộ lạc cổ xưa. Tôi đã trông thấy nên mới dùng cái hình vẽ đó.”
“Tô-tem của bộ lạc cổ xưa? Anh nhìn thấy ở đâu vậy?”
“Ở gần căn cứ, nếu có dịp tôi sẽ đưa anh đi xem.”
Makarov trầm ngâm gật gù, rốt cuộc hai người cũng kết thúc cuộc nói chuyện không mấy tốt đẹp trong không khí hòa thuận
Hết chương 8. Chương tiếp theo sẽ được cập nhật trong thời gian nhanh nhất.