Nàng cho rằng, điều quan trọng nhất trong chữ Đạo là hài hòa, ví dụ đã có trời thì sẽ có đất, đây là một kiểu hài hòa. Có nam thì sẽ có nữ, đây cũng là một kiểu hài hòa. Tức Trạch đi rồi, Tô Mạch Diệp trở về, đây cũng là một kiểu hài hòa.
Khi Mạch thiếu gia đột nhiên xuất hiện ở Hồ Trung Đình, Phượng Cửu đang bám vào lan can hờ hững cho cá ăn.
Nghe có tiếng động phía sau lưng, hững hờ quay đầu lại, khi nhìn kỹ bộ dạng của Tô Mạch Diệp, rùng mình một cái suýt nữa thì ngã từ trên lan can xuống.
Tô Mạch Diệp, Tô nhị hoàng tử đệ nhất phong nhã đệ nhất phong lưu của Tây Hải lúc này đầu tóc rũ rượi, hai mắt đỏ ngầu, trên bàn tay thon dài là một bình trà lớn, hào sảng dốc trà lạnh vào miệng mình.
Yên lặng trong giây lát, Phượng Cửu tự cấu mình một cái, xác định bản thân mình lúc này không hề nằm mơ, sán lại gần nghi hoặc nói: “Mạch thiếu gia, bộ dạng này của ngài, lẽ nào là do đêm qua đã xông vào khuê phòng của cô nương nhà nào đó rồi bị phụ thân của cô nương ấy vác gậy đuổi đánh?”.
Tô Mạch Diệp quẳng bình trà xuống, liếc nhìn nàng một cái, ánh mắt ẩn chứa vẻ bi phẫn: “Tức Trạch mời ta tới thần cung giúp ngài ấy chế tạo một loại pháp khí, đúng vào lúc quan trọng, ngươi sai Trà Trà đem kẹo hồ ly gì đó tới, ngài ấy nhận thứ quà quỷ quái đó, chẳng nói thêm lời nào giao phó toàn bộ việc còn lại cho ta, sau khi xuống núi lại không buồn quay về. Ta vô cùng mệt mỏi, lúc này tay chân đã cứng đơ, mặt mũi cũng cứng đơ rồi”.
Thấy vẻ kinh ngạc trên khuôn mặt nàng, thở dài nói: “Ta nói những lời đó không phải vì muốn trách tội ngươi, nhưng ngươi phải thông cảm, bộ dạng ngày hôm nay của ta là bộ dạng của bảy, tám ngày hao tổn tiên lực hơn nữa còn chưa hề chợp mắt, lúc này đây vẫn còn hơi sức để nói chuyện với ngươi, thực sự là nhờ phúc của Tây Hải, còn nhờ ta cao số”.
Ban nãy Phượng Cửu có chút sửng sốt, thực ra lại không liên quan tới chuyện áy náy, chỉ là cảm thán Tức Trạch quá muốn báo đáp ân tình. Nhìn dung nhan ủ rũ phờ phạc của Mạch thiếu gia lúc này, trong lòng nàng không hiểu sao lại nhen lên cảm giác thông cảm, an ủi chàng ta: “Ngài xem, Tức Trạch là một người tri ân, ngài có ơn lớn như vậy với ngài ấy, đợi khi thứ pháp khí kia thành công, không biết ngài ấy sẽ báo đáp ngài như thế nào nữa, chỉ nghĩ đến thôi cũng khiến người ta kích động”. Nói đến đó, quả nhiên có chút kích động, xúc động nói: “Tuy nhiên, Mạch thiếu gia, ngài lại không thiếu gì báu vật, cũng không thích mỹ nhân, ta đoán rằng ngài ấy nhất định sẽ lựa chọn một cách báo ân có tình có nghĩa, càng đáng được trân trọng hơn, ví dụ như sẽ đích thân vào bếp làm một bữa tiệc để khoản đãi ngài...”.
Tài nghệ nấu nướng của Đế Quân là một thứ rất mơ hồ huyền hoặc hơn nữa cũng rất nguy hiểm. Lời than thở của Liên Tống như vẫn còn vang lên bên tai. Bình trà trong tay Mạch thiếu gia khẽ run rẩy, nói: “Nếu ngài ấy không nhớ tới việc báo đáp, ngươi tuyệt đối đừng có nhắc nhở ngài ấy đấy”. Thấy Phượng Cửu lộ vẻ nghi hoặc, đờ mặt bổ sung thêm: “Bởi vì mỗi ngày làm một việc thiện là gia quy của Tây Hải chúng ta, cần phải không mong được báo đáp, khi giúp đỡ người khác còn mong báo đáp, sẽ bị tụt xuống một hạng, sẽ bị người trong tộc coi thường”.
Phượng Cửu lập tức hiểu ra, ánh mắt lộ rõ vẻ tán thưởng. Mạch thiếu gia hắng giọng, vội vàng chuyển sang chủ đề khác: “Chuyện này không nhắc đến nữa, lần này ta quay về, một là tới vương cung để lấy một thứ, hai là thực ra cũng muốn hỏi ngươi, ở chỗ Trầm Diệp, mấy ngày qua có điều gì không ổn thỏa không?”.
Thế nào là ổn thỏa, thế nào là không ổn thỏa. Phượng Cửu trầm tư suy nghĩ về vấn đề này. Trầm Diệp mấy ngày gần đây trầm lặng nhốt mình trong Mạnh Xuân viện, trầm lặng đến nỗi nếu Mạch thiếu gia không nhắc tới, nàng sẽ quên mất là trong phủ của nàng còn có vị này, trong khái niệm của nàng, cái này được gọi là ổn thỏa. Nhưng nàng không biết liệu đây có phải là điều ổn thỏa mà Mạch thiếu gia cần không, hàm hồ nói: “Chàng ta không tới kiếm chuyện với ta, chắc có thể coi là ổn thỏa”.
Mạch thiếu gia bật cười một tiếng, trong thần sắc lại không thấy ý cười, đương nhiên để nhìn ra được ý cười trên khuôn mặt đó lúc này cũng là một điều khó khăn, nói: “Hắn ta vốn dĩ sẽ không tới kiếm chuyện với ngươi trước. Trước đây đối với A Lan Nhược cũng như vậy, giờ đây đối với ngươi đương nhiên cũng phải như thế”.
Điều này lại gợi lên sự hiếu kỳ của Phượng Cửu, nàng nói: “Ta cũng đã từng nghe một vài tin đồn, nói rằng sau này Trầm Diệp đã vì A Lan Nhược mà vung một kiếm chém đứt ba mùa, tin đồn này còn được lan truyền rất rộng rãi, có thể thấy rõ tình cảm của chàng ta đối với A Lan Nhược. Nhưng vạn sự đều có nhân quả, ta cảm thấy, tình cảm này chắc không chỉ được nảy sinh sau khi A Lan Nhược đã mất đi, lần trước ngài kể cho ta nghe một nửa chuyện cũ của họ, hôm nay không ngại kể nốt nửa còn lại chứ?”.
Tô Mạch Diệp tựa lưng vào thành ghế, đưa mắt nhìn đám lá sen dày đặc trong hồ, nói: “Một nửa còn lại ư? Những điều ta biết được cũng không nhiều, những chuyện có bằng chứng rõ ràng, chẳng qua cũng chỉ có một vài chuyện mà thôi”. Lại nói: “Lần trước ta kể tới đâu rồi? Đến đoạn Trầm Diệp biết A Lan Nhược chính là người chấp bút viết thư cho mình, đùng đùng nổi giận, tới thư phòng của nàng ấy nói những lời đoạn tuyệt đúng không?”.
Phượng Cửu khẽ than thở nói: “Người xa lạ, kẻ thù, kẻ tử thù, chàng ta nói giữa họ chỉ có khả năng đó”.
Mạch thiếu gia lạnh lùng cười nói: “Hắn ta nên ghi nhớ câu nói này cả đời, suốt đời nên tuân thủ theo câu nói này. Việc này đối với A Lan Nhược mới là một điều may mắn”.
Trong đình bỗng trở nên yên lặng, hồi lâu, Tô Mạch Diệp khẽ nói: “A Lan Nhược có một phong độ, trong số những linh vật có tuổi thọ không quá một nghìn, là người ung dung phóng khoáng nhất mà ta từng gặp”.
Có thể nhận thấy được phần nào sự phóng khoáng của A Lan Nhược sau lần gặp Trầm Diệp ở thư phòng. Nếu là những nữ tử khác, khi bị người trong lòng trách mắng bằng những lời lẽ nặng nề như vậy, mặc dù không đến nỗi dùng nước mắt để rửa mặt thì việc tự giam mình trong khuê phòng suốt ba, bốn ngày liền cũng là bình thường.
Nhưng cử chỉ hành động của A Lan Nhược lại giống như chuyện trong thư phòng chưa từng xảy ra.
Không cần nghĩ đủ cách để quan tâm tới Trầm Diệp nữa, cuộc sống của nàng lại trở nên nhàn nhã hơn, ngoài những việc thường làm như luyện chữ, xem kịch ra, nhân lúc phu tử dạy bắn cung ở tông học về quê thăm người thân, nàng còn tới tông học dạy bắn cung thay vị phu tử đó mấy ngày. Mặt trời mọc thì ra đi, mặt trời lặn thì quay về, chung sống hòa bình với Trầm Diệp - người đang buồn bã giam mình trong Mạnh Xuân viện.
Mấy ngày này vì nàng tới dạy thay trong tông học nên thường xuyên tình cờ gặp Văn Điềm trong bộ dạng nhét mấy quyển sách trong tay áo, vội vội vàng vàng bước đi. Con người Văn Điềm cũng đúng với tên gọi của nàng ấy, không màng danh lợi, sau khi tan học cũng không thích ngao du với đám phu tử cùng dạy học, cuộc sống luôn rất quy củ nề nếp. Mấy ngày trước nàng có điều không phải với Văn Điềm, nghĩ nàng ấy suốt ngày vùi đầu trong sách vở, về nhà chắc cũng chỉ ngồi một mình bên đèn, chắc chắn sẽ rất buồn chán, thi thoảng gặp nàng ấy liền sai đầu bếp chuẩn bị thêm một đôi đũa, đưa Văn Điềm cùng về phủ dùng bữa tối.
Văn Điềm yêu cờ đến si mê, từng có duyên chơi cờ với Trầm Diệp, mặc dù A Lan Nhược không biết ván cờ ngày hôm đó của họ như thế nào, nhưng nhìn điệu bộ của Văn Điềm đoán rằng nàng ấy luôn lưu luyến khó quên. Cuối cùng, trong lần thứ ba khi nàng đưa Văn Điềm về phủ, nữ tiên sinh ngập ngừng hồi lâu, thận trọng hỏi nàng xem có thể tới Mạnh Xuân viện thăm Trầm Diệp, thỉnh giáo chàng ta một vài nước cờ được không.
Nàng đương nhiên đã chấp thuận.
Sắc mặt của Văn Điềm lộ rõ vẻ cảm kích.
Sau đó Văn tiên sinh thường xuyên ra vào Mạnh Xuân viện.
Mấy ngày đầu lão quản gia thường xuyên tới bẩm báo, ngày hôm nay Văn tiên sinh mấy giờ vào viện, mấy giờ ra khỏi viện, đã nói mấy câu với Trầm Diệp, hai người đã chơi mấy ván cờ.
Có một lần còn lo lắng thêm vào một câu, lão đã nhận thấy Trầm Diệp mặc dù không dễ gần gũi, nhưng bằng lòng coi trọng vị Văn tiên sinh này, lại để vị tiên sinh này được ra vào Mạnh Xuân viện, liệu có điều gì không ổn thỏa không.
A Lan Nhược mỉm cười, nhìn lão quản gia, nói: “Có một người bạn cùng trò chuyện là một chuyện tốt, ngươi cứ theo sát người ta như vậy cũng đủ khiến người ta mất hứng rồi. Thần quan đại nhân muốn làm gì, đó là việc của chàng ta, lúc này chàng ta gặp nạn, chúng ta mở rộng cửa phủ là để giúp đỡ chàng ta chứ không phải giam giữ người ta. Câu này, ta nhớ hình như trước đây đã từng nói với ngươi rồi”.
Lão quản gia ghi nhận lời dạy bảo này, quay về nghiêm túc suy nghĩ một hồi, đã ngộ ra một chân lý, phải giữ kín miệng lại.
Nhưng lão quản gia cả đời đi theo A Lan Nhược, luôn tâm niệm hai chữ trung thành, cảm thấy dù điện hạ dường như đã ám chỉ rằng chuyện của Trầm Diệp sau này không cần phải bẩm báo nữa, nhưng những điều cần bẩm báo, vẫn phải bẩm báo. Ví dụ như Trầm Diệp đại nhân mấy ngày gần đây thường xuyên ngồi ngây người khi chơi cờ với Văn tiên sinh, chuyện này cần phải bẩm báo lại.
Lão quản gia có óc quan sát vô cùng tinh tế, chú ý thấy mấy ngày gần đây Trầm Diệp mặc dù thường hay xuất thần, nhưng không phải lúc nào cũng xuất thần, chỉ là khi chơi cờ ở Ba Tâm đình hay trong Tiểu Thạch lâm, Trầm Diệp mới phân tâm như vậy.
Trong Ba Tâm đình, chàng thường thích đưa mắt ngắm nhìn cây đậu đỏ bên cạnh đình. Theo quan sát của lão quản gia, cây đậu đỏ này không có gì bí hiểm cả, chỉ là có dáng vẻ đẹp đẽ một chút, trên thân cây to lớn còn bị mất một mảng vỏ cây mà thôi. Lão lờ mờ nhớ rằng trên thân cây đó đã từng có hai câu đề tự của A Lan Nhược.
Tiểu Thạch lâm là nơi trước đây A Lan Nhược thường luyện bắn tên trong Mạnh Xuân viện, ở đó từng tảng đá lớn xếp chồng chất, rộng rãi tĩnh mịch, khi trời có gió nhẹ, ngồi chơi cờ tại đó có thể vô cùng tĩnh tâm.
Văn tiên sinh cầm quân cờ trên tay, dung mạo vô cùng ôn hòa thanh tú, người vô tâm một chút sẽ nghĩ rằng Trầm Diệp đang thẫn thờ nhìn Văn tiên sinh, nhưng lão quản gia đương nhiên có thể nhận thấy ánh mắt của Trầm Diệp đang lướt qua đỉnh đầu của Văn tiên sinh, tập trung nhìn vào một tảng đá lớn phía sau lưng của nàng ấy.
Trên tảng đá lớn đó có đề mấy hàng chữ: “Sầu hoài nan khiển, hà nhu cấp khiển. Phù sinh đa thái, thiên mệnh định chi. Ưu sầu úy bố, tự hữu tận thời(*)”.
____________
(*) Tạm dịch: Nỗi buồn khó xua đuổi, sao phải vội vàng xua đuổi. Kiếp phù sinh muôn hình vạn trạng, số trời đã định. Nỗi buồn phiền sợ hãi sẽ đến lúc tự kết thúc thôi.
Mặc dù không có lạc khoản, lão quản gia lại vẫn biết được đó là chữ của ai. Trong phủ thường ngày chỉ mình A Lan Nhược thích viết thư pháp, nhưng viết thư pháp trên giấy một cách chính thống lại không phải là sở thích của nàng, mỗi khi cao hứng liền tiện tay nhặt một thứ gì đó viết vài nét, trước đây còn thường xuyên đề lạc khoản dưới chữ, sau đó viết nhiều rồi, ngay cả lạc khoản cũng lười không buồn đề nữa.
Lão quản gia trung nghĩa nhìn thấy vậy thì luôn ghi nhớ trong lòng, nhân một ngày A Lan Nhược đang trong tâm trạng vui vẻ, mở khóa bịt miệng, giả bộ như vô tình tiết lộ chuyện này.
A Lan Nhược mài mực, mỉm cười thở dài một tiếng, nói: “Ta đã từng lừa gạt chàng, chàng nhìn thấy nét chữ của ta sẽ khó tránh khỏi việc bực mình, các ngươi tội gì phải bày bàn cờ ở những nơi đó”. Mực trên tay đậm dần, lại nói: “Tuy nhiên, những chỗ không có bút tích của ta ở Mạnh Xuân viện cũng ít, nếu quả thực chàng cảm thấy chướng mắt, ngươi xem xử lý như thế nào, hoặc là bóc hết vỏ cây có khắc chữ đi, xóa hết chữ viết trên đá đi vậy”.
A Lan Nhược nói một cách rất thoải mái, nhưng những dòng đề tự đó, lão quản gia không nỡ xóa bỏ. Trong lòng lão cảm thấy có thể là nàng đã nghĩ nhầm rồi, lại cảm thấy cho dù nàng đã nghĩ đúng, nhưng chẳng phải Trầm Diệp không hề nói ra rằng ngài ấy cảm thấy chướng mắt với những dòng đề tự kia sao. Vậy phải xử lý chúng như thế nào, hủy bỏ hay giữ lại, hãy đợi tới một ngày nào đó chính miệng ngài ấy nói ra rồi xử lý sau vậy.
Tính ra mới có mấy ngày cũng đã xảy ra không ít chuyện, nhưng Trầm Diệp được đưa vào trong phủ của công chúa với cái cớ chế tác gương lư u ly cho thái tử Dạ Hoa, mặc dù chỉ là một cái cớ nhưng bề ngoài vẫn phải làm chút gì đó. Trong Mạnh Xuân viện đã sớm chuẩn bị cho Trầm Diệp một căn phòng, ngay cả nguyên liệu để chế tác, mấy ngày gần đây cũng đã tập hợp đầy đủ, chỉ đợi ngày khai lò luyện gương. Văn Điềm lại tới tìm A Lan Nhược, nói rằng sớm đã nghe được tin đồn về việc Trầm Diệp chế tạo gương, luôn muốn được mở rộng tầm nhìn, lần này chàng luyện gương cần tìm một trợ thủ, nàng ấy tự đề cử mình, cầu xin công chúa ban cho một cơ duyên.
A Lan Nhược ban cho nàng ấy cơ duyên đó.
Tô Mạch Diệp gõ vào miệng chén, nói với nàng: “Điệu bộ này của Văn tiên sinh, giống như là thực sự đã có tình cảm với Trầm Diệp, nàng ấy cầu xin ngươi điều gì, ngươi đều đáp ứng, sự rộng lượng đó khiến ta rất khâm phục”.
A Lan Nhược nghiêng người rót trà cho chàng ta: “Trầm Diệp có nhân duyên của chàng, chàng không có tình cảm với con không phải là lỗi của chàng, sư phụ muốn con vì thế mà trở thành một tiểu nhân vì ghen tức mà sinh hận thù hay sao?”. Lại nói: “Một nửa hận thù trên thế giới này đều là thù niệm tự sinh ra mà thôi, con lại không cảm thấy cần thiết phải thù hận, đây có lẽ cũng là cái lợi của việc chưa từng có được. Lần này chẳng qua chỉ là tạo điều kiện cho nhân duyên của chàng mà thôi, hành động tiện tay, sao có thể nói rằng rộng lượng hay không rộng lượng”.
Hồi lâu, Tô Mạch Diệp nói: “Ta vốn dĩ không nghĩ rằng ngươi sẽ vì chuyện này mà sinh lòng căm hận, nhưng cũng khó tránh khỏi việc để tâm. Ta chỉ đang nghĩ, nếu một ngày ngươi vì hắn ta mà căm hận, sẽ là vì điều gì?”.
A Lan Nhược xoay chén trà trong tay: “Đó nhất định là vì đã từng có được. Ví dụ chàng yêu con, sau đó không yêu nữa, lại đi yêu người khác”. Lại tự cười nói: “Chuyện nhi nữ tình trường nhỏ như cát bụi, sư phụ nghe xong chắc sẽ thấy ê răng, nào, hãy uống một chén trà cho đỡ ê”.
Tô Mạch Diệp nhìn vào trong chén trà: “Thế gian có chuyện lớn, cũng có chuyện nhỏ, thế nào là chuyện lớn, thế nào là chuyện nhỏ, điều này lại rất khó phân định, ví dụ như chuyện tình giữa thái tử Dạ Hoa và thượng thần Bạch Thiển ở Cửu Trùng Thiên, ta cảm thấy không thể coi thường”.
A Lan Nhược nói: “Sư phụ nói đúng, tuy nhiên chuyện của con chỉ là chuyện không tưởng, con cũng chưa từng nghĩ tới”.
Phàm giới có một vị hiền nhân đã nói, chuyện trên đời này không có gì là tuyệt đối, có lẽ muốn nói tới điều này. Các thần tiên luôn tự phụ rằng mình trường thọ, chưa đến lúc thất ý thì chưa tìm hiểu thiên mệnh. Có biết thế nào là thần tiên không, không phải con cháu các vọng tộc sinh ra đã là thần, phàm là yêu tinh hay người phàm trần muốn tu luyện thành tiên đều phải từ bỏ lục dục thất tình. Lục dục đã dứt bỏ rồi, cũng chẳng còn gì để thất ý, vì vậy trong việc bàn luận về sự chưa biết, đại đa số thần tiên thực ra không bằng người phàm trần.
Vị phu tử dạy bắn tên đã quay về, dâng lên rất nhiều đặc sản mang tới từ quê nhà, cảm tạ A Lan Nhược. Không cần phải tới tông học, nàng được rảnh rỗi vài ngày ở trong phủ, thi thoảng mang sách tới Hồ Trung Đình hóng mát. Một vài lần đã gặp Trầm Diệp và Văn Điềm ở bên hồ. Nàng không hề né tránh, cứ thế đi qua, Văn Điềm mỉm cười thỉnh an nàng, nàng cũng mỉm cười đáp lại. Trầm Diệp nhìn nàng im lặng không nói, nàng bước qua hai bước lại quay đầu lại nói: “Hôm qua nghe Từ quản gia nói huynh luyện gương cần một nguyên liệu đặc biệt, hình như là một loại đá gì đó lấy từ Kỳ Nam hậu sơn, bọn họ vẫn chưa thu gom đủ cho huynh được, Từ quản gia không hiểu rõ về loại nguyên liệu đó, việc này cần huynh đích thân tới lựa chọn, ta đã trình thư lên Thượng Quân, ngày kia cũng đang định tới thăm Tức Trạch, huynh có đi cùng ta không?”.
Trầm Diệp lạnh lùng nói: “Có phải thấy ta bị giam cầm ở đây như chim trong lồng thật đáng thương nên mới ban cho ta ân huệ này không?”.
A Lan Nhược lấy quyển sách che ánh nắng mặt trời trên đầu, nói: “À, nếu huynh nói đó là ân huệ, thì đó là ân huệ vậy”.
Văn Điềm giảng hòa, nói: “Đến lúc đó ta có thể cùng đi được không, núi Kỳ Nam là nơi nếu không có lệnh của Thượng Quân thì không được tùy tiện vào, nhưng ta cũng rất muốn được mở rộng tầm mắt”.
Hai người vẫn nhìn nhau, không ai chịu nhượng bộ nửa bước, Trầm Diệp nói: “Văn Điềm đương nhiên có thể cùng đi”.
A Lan Nhược sững sờ, cười nói: “Có Văn Điềm cùng đi sẽ tránh được việc hai chúng ta giữa đường gây lộn, cũng tốt”.
02.
Hai ngày sau, ở Kỳ Nam hậu sơn, cây ngô đồng soi bóng, gió vờn qua khóm trúc.
A Lan Nhược xách theo một giỏ bánh hấp, bánh luộc, bánh chiên tự làm ngồi trên khoảng đất trống bên ngoài trúc xá đợi Tức Trạch điều khí xong sẽ mở cửa đón khách. Trầm Diệp lạnh lùng liếc nhìn giỏ bánh cạnh nàng một cái, không nói gì cả, dẫn Văn Điềm vào trong núi nhặt đá trước.
Tức Trạch điều khí tới tận giữa trưa, vừa mở cửa, ngáp dài, tựa lưng vào rào trúc, tà áo trắng phấp phới bay: “Ngươi tới thật nhanh. A, còn mang theo cả bánh cho ta ư?”.
A Lan Nhược xách giỏ bánh bước về phía chàng ta: “Ngài gửi thư tới nói rằng mới bắt được con khuyển nhân giúp ta luyện cung, thì phải biết rằng muộn nhất là hôm nay hoặc ngày mai ta sẽ tới thăm, đóng cửa suốt nửa ngày, ta còn tưởng ngài không muốn gặp ta nữa”. Nói như vậy nhưng khuôn mặt lại hiện rõ vẻ cực kỳ hưng phấn: “Con khuyển nhân hiện đang ở đâu?”.
Tức Trạch đón lấy giỏ bánh, bước ra ngoài vài bước: “Bộ dạng dở sống dở chết ban nãy của ngươi làm ta sợ chết khiếp, đương nhiên không thể cho ngươi vào mang xui xẻo tới cho ta được, lúc này cuối cùng cũng tươi tỉnh trở lại, nếu sớm tươi tỉnh như thế này thì tốt biết bao, hiếm khi tới thăm ta được một lần, nên tươi tỉnh như vậy”.
A Lan Nhược than thở: “Mấy ngày gần đây tinh thần không được tốt lắm, nhưng cũng không thể coi là dở sống dở chết chứ, ngài để ta ngồi ở ngoài phơi nắng suốt nửa ngày là để ta phơi ra một chút sinh khí ư?”.
Tức Trạch nhón một miếng bánh bỏ vào miệng: “Không vì cái đó thì còn vì điều gì nữa?”. Chàng ta giơ tay lên vạch một đường, lớp mây mù dần dần tan biến, hiện ra một dải thạch lâm. Trong rừng, những tảng đá kỳ quái trùng trùng điệp điệp, phía trên là một vầng hào quang màu tím, loáng thoáng vọng lại tiếng gầm gào của dị thú. Cảm thấy tiếng gầm gào này thật vui tai, chàng ta lắng nghe một lát mới nói: “Con khuyển nhân này đã gây họa nhiều năm, ta phải tốn khá nhiều công sức mới bắt được nó, trong số các loài dị thú, nó thuộc loại có thân thể linh hoạt nhất, hơn nữa lại không có cảm giác đau đớn, phù hợp nhất cho ngươi luyện cung. Nếu ngươi có thể bắn trúng khuyển nhân, Phạn Âm Cốc này chẳng còn thứ gì mà ngươi không thể bắn trúng được nữa”.
A Lan Nhược hóa cung tên từ trong tay áo ra, cười nói: “Để ta tới gặp nó”.
Khuyển nhân là một loại dị thú từ thời thượng cổ đầu có bốn cái sừng, tập tính cũng tương ứng với ngoại hình hung dữ của nó, vô cùng mạnh. A Lan Nhược rút cung Tiển Thời ra, bay vào trong thạch trận. Khuyển nhân đã bị Tức Trạch bỏ đói vài ngày, ngửi thấy hơi người rất kích động, dù bị đói không còn đủ sức lực, nhưng móng vuốt còn sắc hơn thường ngày, thân thể còn linh hoạt hơn thường ngày, gần như liều mạng vì một miếng ăn, thật hiếm có.
A Lan Nhược lợi dụng địa thế của thạch trận, tập trung tinh thần kéo xa khoảng cách với con khuyển nhân, mũi tên lao vút đi xé rách không trung, nhưng chưa tới gần cơ thể nó đã bị con thú nhanh nhẹn tránh được. Tức Trạch đứng bên ngoài chậm rãi nói: “Ngươi ngắm chuẩn sau đó bắn cung thì không trúng được, mấy thứ ngươi bắn trước đây đều không nhanh bằng mũi tên của ngươi, nhưng con khuyển nhân lại mãi mãi có thể nhanh hơn mũi tên của ngươi, chi bằng hãy tính toán tốc độ của mũi tên, rồi tính toán tốc độ di chuyển của nó nhắm bắn lệch đi”.
Lời nói của Tức Trạch không phải không có lý, nhưng quả thực lại không hề dễ dàng, điều này có nghĩa là A Lan Nhược cần làm ba việc, thứ nhất là phải né tránh con khuyển nhân đề phòng bị nó vồ được rồi nuốt gọn, hai là phải lập tức thầm tính toán chuẩn xác, ba là phải tốn nhiều sức lực để quan sát và nắm vững thói quen di chuyển của nó.
Hai bên kịch liệt giao tranh trong thạch trận suốt nửa canh giờ, không ai chịu thua ai, món mồi ngon ngay trước mặt mà không được thưởng thức khiến con khuyển nhân vô cùng phẫn nộ.
Tức Trạch đứng bên cạnh thạch lâm, vừa uống trà vừa nói: “Đã đến lúc ngươi cần ra ngoài rồi đấy, trong một canh giờ vẫn chưa bắn trúng được nó là chuyện thường tình, nếu vì quá mệt mỏi mà bị nó nuốt gọn, ta biết ăn nói thế nào với sư phụ của ngươi đây”.
Vừa dứt lời, trong trận vang lên một tiếng gầm rú cuồng nộ của con khuyển nhân.
Thiếu nữ áo đỏ vừa rồi đã lấy đà từ một cột đá, bay lên giữa không trung bắn ra một mũi tên đã được tính toán kỹ lưỡng, cắm trúng vào lồng ngực của con quái thú bốn sừng, vô cùng đẹp mắt, cũng vô cùng chuẩn xác. Ánh mắt trầm tĩnh của nàng hiện lên một tia hưng phấn, định hạ xuống đất rồi nhanh chóng ra khỏi trận. Bi kịch lại xảy ra vào chính lúc này.
Trong lúc hạ xuống đất, không chú ý tới đống hạt tỳ bà trên mặt đất, trượt chân mất thăng bằng, ngã nhào xuống, đập trán vào một đoạn măng đá ngay bên cạnh.
Nói ra thì chậm nhưng chuyện xảy ra lại rất nhanh, con khuyển nhân đang cuồng nộ đã sắp lao tới.
Trên không trung bỗng vang lên tiếng đập cánh gấp gáp, đôi cánh màu đen giống như một dải mây dày đặc che kín cả bầu trời, con khuyển nhân đang lao tới bị một lưỡi kiếm đâm trúng gắn chặt vào một cột đá bên cạnh. Tất cả chỉ xảy ra trong một tích tắc. Vị công tử áo đen ánh mắt tĩnh lặng như nước, dùng tay tạo phong ấn, trong ánh sáng bạc, các phiến đá kỳ quái trong rừng đột ngột chuyển động, con khuyển nhân giãy giụa muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của thanh trường kiếm, gầm rú muốn lao qua thạch trận.
Pháp trận đã được Trầm Diệp sắp xếp lại, không rải rác lỏng lẻo như ban nãy, nhất cử nhất động của con khuyển nhân đều bị khống chế, nhưng hai người ra khỏi trận cũng không dễ dàng như ban nãy, chàng chỉ để lại một khe hở nhỏ đủ cho hai người ôm nhau lăn qua ở phía Tây Nam nơi cách xa con khuyển nhân nhất.
A Lan Nhược đưa tay ôm vết thương đang chảy máu trên trán, mơ hồ nhìn chàng, dường như không hiểu nổi tại sao chàng lại bỗng nhiên xuất hiện. Trong thời khắc nguy cấp như vậy, làm gì còn thời gian suy nghĩ những việc khác. Trầm Diệp ôm gọn A Lan Nhược trong lòng, một tay đỡ lấy phần đầu bị thương của nàng áp vào ngực mình, đôi cánh màu đen cuộn chặt lấy hai người, trước khi con khuyển nhân giãy giụa lao qua tảng đá gần nhất, lăn người chui qua khe hở nhỏ của kết giới. Khi hai người bọn họ cùng lăn ra khỏi thạch trận, Tức Trạch đã gia cố thêm kết giới, ánh mắt dừng lại trên người Trầm Diệp, tán thưởng nói: “Mấy năm không gặp, ngươi lâm trận càng lúc càng bình tĩnh”. Lại nói: “Hồi nhỏ đã thích tỏ ra lạnh lùng, sao trưởng thành rồi vẫn không có chút biến chuyển gì vậy?”.
Trầm Diệp lạnh lùng nói: “Con khuyển nhân hung dữ như vậy, ngươi lại để nàng đối đầu với nó?”.
Tức Trạch nói: “Chẳng phải là nàng đã bắn trúng nó rồi sao, nếu không phải vì bỗng nhiên bị trượt ngã”, gãi đầu áy náy nói: “À, cũng tại ta, hôm qua khi dạo chơi trong thạch trận, đã ăn mấy quả tỳ bà...”. Nhưng lại lập tức nghiêm sắc mặt, nói: “Nhưng trên chiến trường thật sự cũng như vậy, sẽ chẳng có ai thu dọn hạt tỳ bà cho nàng, tất cả đều phải dựa vào sức mình, việc này cũng là để nhắc nhở nàng phải đề cao cảnh giác”.
A Lan Nhược nằm trong vòng tay của Trầm Diệp, khẽ góp lời: “Ta thấy, trên chiến trường lại không có ai n tỳ bà, vì vậy ta không cần phải lo lắng về điều đó”.
Trầm Diệp nhìn Tức Trạch, trong ánh mắt không hề có chút ấm áp: “Khi nàng rơi vào tình thế nguy hiểm, ngươi đang làm gì, nàng là thê tử của ngươi mà”.
Tức Trạch lập tức áy náy nói: “Ta đang ăn bánh mà nàng mang cho ta, không để ý tới...”. Nhưng lại lập tức nghiêm sắc mặt: “Bái đường là thành phu thê ư, đó là cách nhìn nhận thiển cận của các ngươi, ta và A Lan Nhược lại không hề cảm thấy như vậy. Hơn nữa, chẳng phải ngươi đã nhanh hơn ta một bước, bay tới cứu nàng, ta còn ra tay chẳng phải sẽ thừa thãi hay sao?”.
Sắc mặt của Trầm Diệp sầm sì lạnh lùng như băng tuyết mùa đông: “Nếu ta không nhanh một bước, nàng đã bị con khuyển nhân cắn đứt một cánh tay rồi”.
Tức Trạch ngạc nhiên nói: “Người có khả năng bị cắn đứt một cánh tay là nàng, nàng còn không chất vấn ta, tại sao ngươi lại chất vấn ta?”.
Bàn tay của Trầm Diệp vẫn phủ lên vết thương đang rỉ máu trên trán A Lan Nhược, khuôn mặt nàng cũng lộ vẻ hiếu kỳ, phụ họa theo: “A, câu hỏi thú vị này, ta cũng muốn biết”.
Lần đầu tiên Trầm Diệp cúi đầu xuống nhìn nàng, máu trên trán nàng thấm ướt bàn tay chàng, chàng từng khinh miệt nói rằng đó là thứ không sạch sẽ, lúc này lại để mặc nó làm ô uế ngón tay mình. Chàng không hề bỏ tay ra, trong ánh mắt thoáng hiện lên sự giằng xé.
A Lan Nhược khẽ hỏi: “Trầm Diệp, có phải huynh đã thích ta rồi không?”.
Chàng nói: “Sao ngươi dám...”.
Nàng gỡ các ngón tay đang bịt vết thương trên trán mình ra, giọng nói của chàng lại có chút bực bội: “Yên phận một chút đi”.
Nàng mỉm cười: “Huynh thật sự thích ta, Trầm Diệp”.
Ngón tay của chàng lại đè lên trán nàng, đôi môi mím chặt không nói gì nữa, nhưng trong ánh mắt lạnh lùng lại chỉ có hình bóng của nàng. Hình ảnh của nàng xộc vào trong mắt của chàng như vậy, giống như một người ở thế giới bên ngoài xông vào một bình nguyên băng tuyết đã bị năm tháng phủ bụi, ngoài nụ cười của nàng, cảnh tượng phía sau vẫn ngàn năm không thay đổi, vẫn tuyết giăng trắng trời.
Nhưng như vậy đã là hiếm có lắm rồi.
Nàng liền trở nên vui mừng, đưa tay nâng cằm chàng: “Không thừa nhận cũng không sao, ta đau đầu, huynh cười lên một cái cho ta xem”.
Chàng vẫn ôm nàng, nâng cằm lên theo tay nàng, nhưng lại cụp mắt xuống nhìn nàng: “Ngươi muốn chết”.
Nàng như cười như không: “Có ai từng đùa nghịch cằm của huynh giống như ta chưa?”.
Chàng vẫn nhìn nàng như vậy, đợi nàng rút tay lại: “Ngươi thử nói xem?”. Đáng lý ra câu nói đó phải có vẻ phẫn nộ, nhưng trong giọng nói lại chẳng có chút phẫn nộ nào.
Bàn tay đang vội vàng chạy tới đưa khăn của Văn Điềm sững lại giữa lưng chừng, sắc mặt trắng bệch, Tức Trạch bỏ thêm một miếng bánh vào miệng, đưa mắt nhìn sắc trời, hắng giọng tổng kết: “Ai cần lên giường nằm thì khẩn trương lên giường nằm, ai phải đi nấu cơm thì khẩn trương đi nấu cơm, đứng ngây ra đó làm gì?”.
Trầm Diệp có thích A Lan Nhược hay không, mặc dù khi nghe Mạch thiếu gia kể phần đầu câu chuyện, trong lòng Phượng Cửu quả thực toát mồ hôi, lúc này lại giống như có một tảng đá nặng rơi xuống vực sâu, sau một tiếng động mạnh, thứ bay lên là trái tim nhẹ tênh của nàng. Nàng cảm thấy vui vẻ, cảm thấy thanh thản.
Quả thực, khi nghe Mạch thiếu gia nhắc tới con khuyển nhân, nàng cũng từng nghĩ, để diễn lại đúng câu chuyện này với Trầm Diệp, liệu nàng có phải tới Kỳ Nam hậu sơn để gặp gỡ con khuyển nhân trong truyền thuyết đó không.
Khi nàng nghĩ tới đó, liền thấy tê hết cả da đầu.
Nhưng nỗi xúc động khi A Lan Nhược và Trầm Diệp cuối cùng cũng ở bên nhau đã lặng lẽ che lấp chút lo lắng trước đó. Trong số mệnh của nàng, đường tình duyên gặp nhiều trắc trở, do nàng thích A Lan Nhược từ tận đáy lòng nên hy vọng đường tình duyên của nàng ấy sẽ thuận lợi hơn mình một chút, kết cục này khiến nàng rất hài lòng.
Nàng cầm một chén trà lên uống, Tô Mạch Diệp liếc nhìn nàng, thần sắc như cười như không trên gương mặt phờ phạc đó khiến nàng lập tức lạnh buốt tận xương tủy, Phượng Cửu rùng mình một cái, nhớ ra vị nhân huynh đang ngồi đối diện mình còn có một biệt danh là Thiên diện thần quân.
Thiên diện thần quân Tô Mạch Diệp khẽ gõ ngón tay xuống bàn: “Ta biết ngươi đang nghĩ gì, cảm thấy đây là một kết cục tốt đẹp ư?”. Đưa mắt nhìn xa xăm ra hồ, nói: “Đây lại chẳng phải là kết cục gì, mà sau đó còn xảy ra khá nhiều chuyện, chuyện được coi là tốt, chỉ có một chuyện đó”. Dừng lại một lát, nói: “Tức Trạch luôn tìm thời cơ để hòa ly(*) với A Lan Nhược”. Ánh mắt vẫn nhìn về phía mặt hồ, nói tiếp: “Tức Trạch là một người trượng nghĩa, mặc dù cuộc hôn nhân này không có ý nghĩa gì với chàng ta, nhiều năm qua chàng ta chưa từng trình biểu nói đến việc hòa ly, là vì thương xót A Lan Nhược là một công chúa có thân phận éo le, mang danh nghĩa là thê tử của chàng ta, cuộc sống cũng tốt hơn một chút. Từ sau ngày hôm đó ở Kỳ Nam hậu sơn, Trầm Diệp và A Lan Nhược đã ở bên nhau hai năm, giữa họ đã xảy ra chuyện gì, ta cũng không rõ lắm, thời gian đó ta quay về Tây Hải, chỉ biết trong hai năm đó, Trầm Diệp vẫn bị giam trong phủ của A Lan Nhược”.
____________
(*) Một chế độ ly hôn thời cổ đại, đôi bên nam nữ cùng đồng ý ly hôn.
Phượng Cửu thầm nghĩ, Mạch thiếu gia nói chàng ta về Tây Hải cũng là vì Tây Hải có chuyện, chưa biết chừng là một cái cớ để thoái thác. Có thể lúc đó chàng ta đã hiểu được A Lan Nhược có ý nghĩa với mình như thế nào, đáng tiếc là giai nhân đã có mối lương duyên khác, Mạch thiếu gia vì tổn thương tình cảm nên mới quay về Tây Hải. Đã hiểu ra ẩn ý này, Phượng Cửu tự cảm thấy rằng khi nói chuyện cần tránh né điều này một chút, nói: “Những chuyện ngay cả ngài cũng không biết, không nhắc tới cũng không sao, chỉ là ban nãy ngài nói rằng còn khá nhiều chuyện không hay đã xảy ra, không biết đó là những chuyện gì?”.
Tô Mạch Diệp sững người lại một chút, hồi lâu, nói: “Trong sử sách có ghi, hai năm sau, Thượng Quân Tương Lý Khuyết lâm bệnh qua đời, thái tử Tương Lý Hạ kế vị, ngày kế vị là hai mươi tư tháng bảy, đúng ngày sinh của Long Thụ bồ tát. Bảy ngày sau khi kế vị, bộ tộc láng giềng là Dạ Kiêu chửi mắng thậm tệ bộ tộc Tỷ Dực Điểu dung túng cho dân vùng biên giới vượt biên săn bắn, xuất binh khiêu chiến. Tương Lý Hạ ngự giá thân chinh, đánh lui quân của bộ tộc Dạ Kiêu ra ngoài sông Tư Hành, ngày mười bảy tháng tám, Tương Lý Hạ tử trận. Tương Lý Hạ không có con, theo đúng thứ tự thừa kế vương vị, nếu Quất Nặc không bị phế làm thường dân, nàng ta sẽ kế vị, sau đó tới A Lan Nhược, rồi tới Thường Đệ. Ngày mười chín tháng tám, Quất Nặc đang bị lưu đày được đón về Vương đô kế vị, ngày hôm sau, A Lan Nhược thắt cổ tự vẫn”.
Phượng Cửu chấn động.
Tô Mạch Diệp nói tiếp: “Có thể là do A Lan Nhược hồn phi phách tán, mà theo lời của bộ tộc Tỷ Dực Điểu, thắt cổ tự vẫn là cách thức tốt nhất để hồn phi phách tán, nên bọn họ mới dám dùng cái đó để lừa gạt ta”.
Phượng Cửu lấy lại bình tĩnh trong giây lát, cau mày nói: “Ta từng nghe nói, sau khi A Lan Nhược qua đời, vị nữ vương kế nhiệm kia lập tức hạ lệnh liệt ba chữ tên của nàng thành cấm ngữ. Bây giờ ta lại có chút nghi hoặc, Quất Nặc qua mặt A Lan Nhược để kế vị, tông tộc lại cho phép ư? Hơn nữa bọn họ nói chắc như đinh đóng cột rằng A Lan Nhược đã thắt cổ tự vẫn, lại không hề đưa ra cho ngài một lý do gì sao? Còn Quất Nặc, tại sao nàng ta lại liệt ba chữ tên của A Lan Nhược thành cấm ngữ?”.
Sắc mặt của Tô Mạch Diệp không chút biểu cảm, nói: “Có tin đồn nói rằng, Thượng Quân không phải đã qua đời vì lâm bệnh, mà là do bị A Lan Nhược hạ độc”.
Chàng đưa mắt nhìn Phượng Cửu: “Đương nhiên, nếu là lý do này, câu hỏi mà ngươi đưa ra cũng không khó giải thích, nhưng liệu ngươi có tin vào tin đồn này không?”.
Phượng Cửu lắc đầu theo bản năng, bỗng nhớ ra, nói: “Còn Trầm Diệp lúc đó thì sao?”.
Tô Mạch Diệp lạnh lùng cười nói: “Trầm Diệp? Theo tin đồn, sau khi Thượng Quân qua đời, hắn ta đã được đón về Kỳ Nam thần cung, A Lan Nhược bị bắt giam vì cái chết của Thượng Quân, hắn ta từng dâng tấu...”.
Trong lòng Phượng Cửu bỗng trĩu nặng: “Trong tấu chương đã viết những gì?”.
Nụ cười trong ánh mắt của Tô Mạch Diệp vô cùng lạnh lùng: “Trong tấu chương thỉnh cầu giao vụ án của A Lan Nhược cho thần cung, nói rằng nàng đã phạm trọng tội như vậy, xét về lý cần để thần cung đích thân xử tử”. Dừng lại hồi lâu, nói: “Ngay ngày hôm sau, A Lan Nhược bèn tự vẫn”.