Nại Nại nói: “Chắc vì mang thai nên mới thèm ngủ vậy, nương nương chớ nên lo lắng”.
Nại Nại là tỳ nữ chăm sóc ta, cũng là tiên tử duy nhất chịu cười với ta, chịu gọi ta hai tiếng “nương nương” trong Tẩy Ngô cung này. Những tiên tử khác hầu hết đều coi thường ta. Bởi vì Dạ Hoa không phong cho ta một danh phận nào, cũng bởi vì ta không phải là thần tiên mà chỉ là một người phàm trần.
Hình như Nại Nại mở cửa sổ, gió nhẹ thổi vào, bên ngoài vẳng tới tiếng bước chân của ai đó. Giọng Nại Nại thoáng ngạc nhiên, vui mừng: “Nương nương, là thái tử điện hạ tới thăm người”.
Ta chui ra khỏi chiếc chăn gấm, ngồi dựa vào thành giường, đầu còn hơi váng vất, tuy rằng vừa mới tỉnh dậy nhưng vẫn hơi buồn ngủ.
Đệm hơi lún xuống, ta đoán rằng Dạ Hoa đang ngồi bên cạnh.
Ta mơ mơ hồ hồ hỏi chàng: “Tối nay sao trên trời có sáng không?”.
Chàng lặng đi một hồi rồi mới đáp: “Tố Tố, bây giờ đang là ban ngày”.
Theo thói quen ta dụi dụi mắt, tay đụng phải dải lụa trắng băng quanh mắt mới nhớ ra đã không còn mắt nữa rồi, dù có dụi thế nào thì cũng không thể phân biệt nổi ngày đêm, vẫn không nhìn được gì.
Dạ Hoa im lặng một lúc lâu rồi mới nói: “Ta sẽ thành thân với nàng, ta sẽ là đôi mắt của nàng”.
Tố Tố, ta sẽ là đôi mắt của nàng.
Theo bản năng ta đẩy chàng ra. Ác mộng đêm hôm đó lại một lần nữa bủa vây ta, ta sợ đến mức toàn thân run lẩy bẩy.
Dạ Hoa nắm tay ta: “Tố Tố, nàng làm sao vậy?”.
Ta run run cắn răng nói dối: “Đột... đột nhiên hơi buồn ngủ. Chàng làm việc của chàng đi, thiếp muốn ngủ một lát”.
Trước đây lòng vạn phần lưu luyến, người vạn phần lưu luyến, còn giờ đây đã khiến người ta không thể chịu nổi, ta chỉ hiếu kỳ rằng, chàng đã yêu người con gái ấy như thế, sao ban đầu lại đồng ý với yêu cầu vô lý của ta.
Ban đầu, ban đầu, đúng là hối hận thì sao ban đầu không làm khác đi.
Dạ Hoa rời đi, Nại Nại nhẹ nhàng cài then cửa. Ta nằm nhoài ra giường, đầu óc rối như tơ vò. Những hình ảnh hiện lên, lúc là núi Tuấn Tật ở Đông Hoang, lúc là khuôn mặt của Dạ Hoa, lúc là lưỡi chủy thủ đẫm máu và đôi mắt bị khoét đi của ta. Rất đau, ta đau muốn khóc nhưng lại khóc không nổi.
Ta thầm nghĩ đợi sinh xong đứa con này, ta sẽ quay trở về núi Tuấn Tật, bắt đầu từ đâu thì nên kết thúc ở đó.
Lại ngây người hồi lâu, Nại Nại rón rén đẩy cửa bước vào, khe khẽ gọi ta: “Nương nương, nương nương, người tỉnh chưa?”.
Ta cố nén, húng hắng ho: “Có chuyện gì thế?”.
Nại Nại ngừng bước: “Thiên phi Tố Cẩm sai tỳ nữ mang thiếp tới, mời người cùng thưởng trà”.
Ta buồn bực, kéo chăn lên che mặt: “Nói ta đi nghỉ rồi”.
Không hiểu sao gần đây Tố Cẩm nhiều lần tỏ ý đối tốt với ta. Có lẽ vì đã có được đôi mắt của ta, hại ta thành kẻ mù lòa, cho nên ít nhiều cũng có chút hổ thẹn trong lòng chăng? Nhưng rõ ràng là nàng ta, là nàng ta đã khiến Dạ Hoa khoét đi đôi mắt của ta.
Ta đã không còn là tiểu cô nương mới đến của ba năm trước, ngốc nghếch muốn sẽ được lòng tất cả mọi người.
Ước chừng là buổi chiều, Nại Nại lay ta tỉnh, nói rằng nắng chiều đang chiếu chênh chếch ngoài sân, dẫn ta đi phơi nắng một chút.
Nại Nại dời một chiếc xích đu ra sân rồi đỡ ta qua đó. Ta không chịu để nàng ấy hầu hạ mà mò mẫm bám vào mặt bàn, vào tường… từng bước từng bước đi qua bên đó. Những việc này đều nên làm, nếu không, sau này quay trở lại núi Tuấn Tật ta sẽ sống một mình như thế nào?
Sưởi nắng một lúc, lại hơi buồn ngủ. Trong cơn mơ màng, hình như lại nằm mơ, trong mơ, lại trở về cái ngày đầu tiên gặp Dạ Hoa trên đỉnh núi Tuấn Tật ba năm trước. Tay chàng cầm thanh lãnh kiếm, toàn thân đầy máu ngã trước gian nhà tranh của ta. Ta cuống quýt vực chàng vào trong nhà, đắp thuốc cầm máu, chỉ biết trố mắt líu lưỡi nhìn vết thương của chàng tự khép miệng lại.
Không phải ta cứu chàng, nhưng chàng nhất định đòi báo đáp, ta nói: “Vậy thì chi bằng chàng lấy thân đền đáp đi”, thế nên thành thân, lại có đứa con trong bụng này.
Từ khi ta bắt đầu nhớ được sự việc, thì đã một mình trên núi Tuấn Tật rồi, xung quanh chỉ có muôn loài chim thú côn trùng, cho nên ta chẳng có tên. Chàng gọi ta là Tố Tố, còn nói từ đây về sau, đây là tên của ta, khiến ta thầm vui đến tận mấy ngày sau.
Sau này, chàng dẫn ta lên Cửu Trùng Thiên, ta mới biết rằng phu quân của mình hóa ra là cháu của Thiên Quân.
Khi ấy, chàng vẫn chưa được phong làm thái tử.
Nhưng trên Cửu Trùng Thiên này chẳng có ai thừa nhận chàng là phu quân của ta. Trước mặt Thiên Quân, chàng cũng chưa bao giờ nhắc đến chuyện chàng đã từng cưới một người phàm trần ở Đông Hoang làm phu nhân.
Đêm hôm đó, ta mang canh tới tẩm điện của Dạ Hoa. Bốn bề tẩm điện không người canh giữ, giọng của thiên phi Tố Cẩm vọng lại hết sức bi ai: “Chàng lấy một người phàm trần, chẳng qua vì muốn báo thù thiếp đã phản bội chàng theo Thiên Quân, có đúng không? Nhưng thiếp đâu có cách nào khác, thiếp đâu có cách nào khác? Đàn bà trong bốn bể tám cõi, ai có thể chống lại sự ân sủng của Thiên Quân? Hãy nói cho thiếp biết, Dạ Hoa, người chàng yêu vẫn là thiếp, đúng không? Chàng gọi nàng ta là Tố Tố, có phải vì, có phải vì có một chữ “Tố” trong tên thiếp không?”.
Giấc mộng ăn khớp với hiện thực ấy đến đây bỗng ngừng bặt, ta sợ hãi toàn thân ướt đẫm mồ hôi lạnh. Nhẹ nhàng xoa cái bụng đã hơi nhô cao, ta thầm tính, hoài thai đã hơn ba năm, có lẽ cũng sắp tới lúc lâm bồn rồi.
Màn đêm buông xuống, xưa nay Nại Nại chưa từng phải hầu hạ ta đi nghỉ. Nhưng bây giờ ta không thể tự mình lấy nước rửa mặt súc miệng được, đành nhờ nàng ta. Nại Nại đắp chiếc chăn hoa lên người giúp ta, nói: “Nương nương, đợi thêm chút nữa, có lẽ đêm nay điện hạ sẽ tới không chừng”.
Ta im lặng buồn rầu. Sau khi xảy ra chuyện ấy, Dạ Hoa chưa bao giờ nghỉ lại đây. Ta biết, sau này cũng không bao giờ nghỉ lại nữa.
Khi ấy, trên núi Tuấn Tật ở Đông Hoang, nếu Dạ Hoa nói với ta rằng chàng đã có người trong mộng, thì ta sẽ không để chàng lấy ta.
Khi ấy, ta vẫn chưa đem lòng yêu chàng, chẳng qua chỉ là sống một mình nên cảm thấy quá cô đơn.
Nhưng chàng chẳng nói gì, chàng cưới ta, còn dẫn ta lên Cửu Trùng Thiên này.
Trời vốn sinh ta khéo giả vờ giả vịt, cho nên vô vàn vướng mắc giữa Dạ Hoa và thiên phi Tố Cẩm ta đều coi như không biết.
Ta nghĩ, cho dù như thế nào, người chàng lấy là ta, chúng ta đã bái thiên địa ở Đông Hoang, cùng nhau thề nguyền, ta còn mang thai đứa con của chàng, ta yêu chàng như vậy, rồi sẽ có một ngày chàng sẽ cảm động vì ta.
Đúng là chàng cũng dần dần đối xử dịu dàng với ta.
Thậm chí ta còn mừng thầm, cứ ngỡ rằng cho dù không yêu ta thì chàng có chút gì đó thích ta rồi chăng?
Có những lúc, tình yêu làm con người ta trở nên vô cùng hèn mọn, nhỏ bé.
Thế nhưng chuyện ấy đã xảy ra. Cho nên hễ tỉnh mộng là ta lại ý thức được rằng mình đã mất đi đôi mắt, mất đi ánh sáng.
Ngày hôm đó, thiên phi Tố Cẩm mời ta đi đến Dao Trì ngắm hoa. Ta cho rằng đó là một buổi tiệc nhỏ của nữ giới, nên ngu ngốc nhận thiếp mời. Khi đến Dao Trì mới hay chỉ có hai ta.
Cho cung nga lui hết, ả kéo ta một mạch đến Tru Tiên đài.
Đứng trước Tru Tiên đài, ả lạnh lùng nhìn ta cười: “Ngươi có biết không? Thiên Quân sắp phong Dạ Hoa làm thái tử, còn ban cho ta làm phu nhân của Dạ Hoa”.
Xưa nay ta không thể hiểu nổi những quy củ của đám thần tiên bọn họ, chỉ cảm thấy có một dòng máu nóng trào lên giữa lồng ngực, không biết là đang tức giận hay là hoang mang.
Ả vẫn cười ngạo mạn: “Ta và Dạ Hoa tâm đầu ý hợp, Cửu Trùng Thiên vốn là nơi đám người trần các ngươi không nên tới, sinh con xong, ngươi hãy từ Tru Tiên đài này nhảy xuống, trở về chốn cũ của ngươi đi”.
Ta không biết nhảy xuống Tru Tiên đài có thể quay trở về núi Tuấn Tật hay không, khi ấy, chưa bao giờ ta nghĩ đến chuyện ra đi. Ta ngẩn người hỏi ả ta: “Là Dạ Hoa đưa tôi về ư? Tôi là vợ của chàng, nên đương nhiên sẽ đi theo chàng”.
Bây giờ nhớ lại, câu nói đó thực sự là tự chuốc nhục vào thân.
Nhưng khi ấy ta luôn ngây ngô nghĩ rằng Dạ Hoa chí ít cũng hơi thích ta, chỉ cần chàng thích ta một chút, một chút thôi thì ta sẽ luôn ở bên chàng.
Tố Cẩm thở dài nhưng lại ra vẻ tức cười nhiều hơn, đột nhiên chộp lấy tay ta, kéo ta ngã xuống mép Tru Tiên đài.
Ta còn tưởng ả sẽ đẩy ta xuống Tru Tiên đài, nào ngờ kẻ rơi khỏi đài cao chính là ả ta, ta còn chưa kịp phản ứng, bên cạnh đã có một bóng đen lao vút qua, bổ nhào xuống dưới.
Dạ Hoa ôm Tố Cẩm đứng trước mặt, lạnh lùng nhìn ta, trong đôi mắt đen thẳm nung nấu ngọn lửa giận dữ ngút trời.
Tố Cẩm nằm trong lòng chàng, thở hắt ra: “Đừng trách Tố Tố, không phải nàng ấy cố ý đẩy thiếp, mà là nghe tin Thiên Quân ban thiếp cho chàng nên nàng ấy hơi xúc động”.
Thật khó tin, rõ ràng ta không làm gì cả.
“Không phải thiếp, không phải thiếp, thiếp không đẩy nàng ta, Dạ Hoa, chàng phải tin thiếp, chàng phải tin thiếp…”. Ta hết lần này đến lần khác giải thích với chàng, kinh hoàng, lắp bắp, giống hệt một tên tiểu nhân đang vụng về phân bua.
Chàng vung tay, gằn giọng: “Đủ rồi. Ta chỉ tin những gì ta thấy”.
Chàng không chịu nghe ta giải thích, chàng không tin ta, chàng ôm Tố Cẩm, mày nhíu lại, vội vội vàng vàng rời khỏi Tru Tiên đài.
Đêm đó, mang khuôn mặt u ám, chàng đứng trước mặt ta: “Đôi mắt của Tố Cẩm đã bị chướng khí ở Tru Tiên đài làm hỏng, Tố Tố, nhân quả luân hồi, nợ cái gì của người khác, thì nhất định phải trả cái đó. Tố Tố, đừng sợ, ta sẽ thành thân với nàng, từ đây về sau, ta sẽ là đôi mắt của nàng”.
Trước đó, chàng chưa bao giờ nhắc đến chuyện sẽ cùng ta thành thân trên Cửu Trùng Thiên này. Sự lạnh lẽo, phẫn nộ và sợ hãi cùng lúc tuôn trào trong lòng ta.
Ta nghĩ, trước đây ta chưa bao giờ mất tư thế như bây giờ, ta nắm chặt tay chàng: “Tại sao chàng lại muốn đôi mắt của thiếp? Là nàng ta tự nhảy xuống, là nàng ta tự nhảy xuống, chẳng liên quan gì đến thiếp cả, tại sao chàng không tin thiếp?”.
Ánh mắt chàng trầm ngâm đau đớn, nhưng vẫn cười lạnh lùng: “Khí độc bao quanh Tru Tiên đài, nàng ta tự mình nhảy xuống há chẳng phải không muốn sống sao? Tố Tố, nàng đúng là càng ngày càng không biết lý lẽ”.
Cửu Trùng Thiên này, ta chỉ có mình chàng. Ta luôn nghĩ rằng, sau khi đứa trẻ được sinh ra, sẽ cùng chàng nắm tay đứa trẻ, ngắm mây đùn trên biển suốt mười dặm, ráng chiều mênh mang đỏ ối khắp vạn trượng. Chẳng biết tự lúc nào, đối với ta, chàng đã trở nên quan trọng như vậy.
Ta bị khoét đi đôi mắt. Nại Nại chăm sóc ta suốt ba ngày, sau ngày thứ ba, Tố Cẩm đứng trước mặt ta, nói: “Đôi mắt của ngươi hiện ta dùng rất tốt”.
Ta chợt bừng tỉnh.
Bạn đã từng yêu một người?
Bạn đã từng hận một người?
Thực ra yêu hận tình thù giữa hai người đó, ta chẳng qua chỉ là người qua đường, mơ mơ hồ hồ bị giữ lại, là kiếp số đã định sẵn mà thôi.
Hai ngày nay, ta đã không còn phân biệt nổi ngày đêm, đã học được cách dùng tai để tìm manh mối, phân biệt ngày đêm.
Sau khi dùng xong bữa trưa, Nại Nại sấp ngửa chạy vào sân, thở hổn hển: “Nương nương, nương nương, Thiên Quân vừa ban chỉ, sẽ ban, sẽ ban thiên phi Tố Cẩm cho, cho, cho thái tử điện hạ”.
Ta cười cười, Dạ Hoa được phong làm thái tử đã được một thời gian, chuyện này sớm muộn gì cũng xảy ra mà thôi. Nhưng Tố Cẩm rốt cuộc vẫn không thành chính thất của Dạ Hoa được. Gần đây ta có nghe nói, năm đó Thiên Quân và Đế Quân Bạch Chỉ của nước Thanh Khâu đã từng có ước hẹn, người kế ngôi Thiên Quân sẽ phải lập con gái của Đế Quân Bạch Chỉ là Bạch Thiển làm Thiên Hậu.
Bụng bỗng đau dữ dội.
Nại Nại gào lạc cả giọng: “Nương nương, người làm sao thế?”.
Ta ngẩng đầu nhìn nàng ấy, gượng cười: “Hình như sắp sinh rồi”.
Trong suốt quá trình sinh nở, ta ngất đi rồi lại tỉnh, vô cùng đau đớn. Lúc Tố Cẩm thay mắt, Dạ Hoa bên ả ta suốt một ngày một đêm, nhưng lúc này, bên cạnh ta chỉ có mình Nại Nại bầu bạn. Ta khổ sở cố kìm nén không gọi tên Dạ Hoa.
Đã đủ bi thảm rồi, cho nên không thể bi thảm hơn nữa.
Nại Nại vừa khóc vừa nói: “Nương nương, người bỏ tay con ra, con đi tìm thái tử điện hạ, con đi tìm thái tử điện hạ”.
Ta đã đau đớn không thốt lên lời, chỉ có thể mấp máy môi ra hiệu: “Nại Nại, ngươi ở đây cùng ta một lúc, chỉ một lúc thôi”.
Nại Nại càng khóc to hơn.
Là con trai.
Ta không biết Dạ Hoa đã đến từ lúc nào, khi tỉnh dậy chàng đã nắm chặt tay ta, đôi tay lạnh như băng.
Chàng ẵm đứa trẻ qua, nói: “Nàng có thể sờ mặt con, nó rất giống nàng”.
Ta không nhúc nhích. Ta rất yêu đứa trẻ này, nhưng ta không thể đem nó về sống ở núi Tuấn Tật, ta phải để nó ở lại.
Đã như thế thì tốt nhất là đừng động vào nó, đừng ôm ấp nó, sẽ không khiến mình nảy sinh tình cảm sâu đậm.
Dạ Hoa ngồi cạnh ta rất lâu, chỉ im lặng không nói lời nào.
Khi Dạ Hoa đi rồi, ta gọi Nại Nại đến trước mặt, dặn dò Nại Nại rằng ta đặt tên con là A Ly, sau này nhất định phải chăm sóc cho nó thật chu đáo.
Ngày ngày Dạ Hoa đều đến thăm ta, chàng vốn là người ít nói. Trước đây ta nói rất nhiều, nhưng gần đây chẳng còn hứng thú nhắc đến điều gì, cho nên phần lớn thời gian, hai người chúng ta cứ lặng lẽ bên nhau như thế.
Chàng không nhắc đến hôn sự với Tố Cẩm, Nại Nại cũng không dám nói.
Ba tháng sau, cơ thể ta đã hồi phục. Chàng mang tới rất nhiều vải vóc, váy áo, hỏi ta thích cái nào, nói sẽ may áo cưới cho ta.
Chàng nói: “Tố Tố, ta đã từng nói, ta sẽ thành thân với nàng”.
Đương nhiên ta biết, chàng chỉ là thương hại ta, cảm thấy ta là một người phàm trần, lại bị mù lòa, tuy là tự làm tự chịu, nhưng vừa đáng giận lại vừa khiến người ta phải thương xót.
Ta tự nhủ chắc chắn ta sẽ ra đi, Cửu Trùng Thiên này chẳng còn lý do nào để ta ở lại nữa.
Nại Nại đi dạo cùng ta, hết lần này đến lần khác, chúng ta đi đi lại lại trên con đường từ Tẩy Ngô cung đến Tru Tiên đài, Nại Nại vô cùng khó hiểu. Ta nói với nàng ta, ta thích ngửi mùi hoa phù dung ven đường đi.
Nửa tháng nữa lại trôi qua, dựa vào cảm giác, ta đã có thể tự mình đi một mạch từ Tẩy Ngô cung đến Tru Tiên đài mà không gặp bất cứ chướng ngại nào.
Nói dối Nại Nại là một chuyện quá dễ dàng. Đứng trên Tru Tiên đài, lòng ta nhẹ nhõm, A Ly đã có Nại Nại chăm sóc, ta còn gì yên tâm hơn?
Nhưng trong giây lát lại rất muốn nói cho Dạ Hoa biết rằng ta không hề đẩy Tố Cẩm, cho dù chàng có tin hay không đi nữa.
Trên đỉnh núi Tuấn Tật, Dạ Hoa đã từng tặng cho ta một chiếc gương đồng rất đẹp. Khi ấy, chàng phải đi rất xa làm một việc quan trọng, một mình ta vò võ, chàng bèn lấy một bảo bối từ trong tay áo ra, dặn ta rằng, dù chàng có ở nơi đâu, chỉ cần ta nhìn gương này gọi tên chàng, chàng sẽ nghe thấy, nếu chàng không bận thì sẽ lập tức nói chuyện cùng ta.
Ta cũng chẳng hiểu sao khi lên Cửu Trùng Thiên ta vẫn mang theo chiếc gương này bên mình, có lẽ vì đó là món đồ duy nhất mà Dạ Hoa đã tặng cho ta.
Ta rút chiếc gương ra, đã lâu rồi không gọi tên chàng, hơi ngập ngừng ta khẽ gọi: “Dạ Hoa”.
Một hồi lâu, bên tai văng vẳng tiếng chàng: “Tố Tố?”.
Ta đã quên rằng chàng không ở bên ta, nên chỉ chầm chậm gật đầu, thật khó khăn mới có thể mở lời lần nữa: “Thiếp phải về núi Tuấn Tật rồi, đừng đi tìm thiếp, một mình thiếp vẫn có thể sống được. Xin chàng hãy giúp thiếp chăm sóc A Ly cho thật tốt. Trước đây thiếp vẫn mơ rằng sẽ có một ngày có thể vừa nắm tay chàng cùng ngắm trăng sáng giữa trời sao, ngắm ánh dương nhô trên biển mây, vừa kể cho con nghe những chuyện khi xưa chúng ta ở trên núi Tuấn Tật, bây giờ e là không thể nữa rồi”. Ta ngẫm nghĩ rồi bổ sung, “Đừng nói với con mẹ của nó chỉ là một người phàm trần, vì các thần tiên trên trời đều coi thường người phàm”.
Rõ ràng chỉ là những lời cáo biệt tầm thường, mà sao trong phút chốc lại muốn rơi lệ, ta vội ngửa đầu nhìn trời xanh, chợt nhớ ra, mình đã chẳng còn đôi mắt, nước mắt chảy từ đâu?
Giọng nói của Dạ Hoa dường như có chút đè nén: “Nàng, nàng đang ở đâu?”.
“Tru Tiên đài”, ta đáp, “Thiên phi Tố Cẩm nói với thiếp rằng nhảy xuống Tru Tiên đài, thì thiếp quay về được núi Tuấn Tật. Bây giờ thiếp đã quen với việc không nhìn thấy gì, núi Tuấn Tật là cố hương của thiếp, mọi thứ xung quanh đều vô cùng quen thuộc, cuộc sống một mình sẽ không quá khó khăn, bất tiện với thiếp”.
Chàng vội vã ngắt lời ta: “Tố Tố, nàng đứng yên ở đó, ta lập tức tới ngay”.
Cuối cùng ta vẫn không có dũng khí để giải thích với chàng một lần nữa, khi đó không phải ta đẩy thiên phi Tố Cẩm xuống, rốt cuộc chàng vẫn chẳng tin ta, còn ta chẳng thể tiếp nhận nỗi thất vọng và mất niềm tin của chàng.
Ta nói, “Dạ Hoa, thiếp bỏ qua chàng, chàng cũng bỏ qua thiếp, hai người chúng ta, không ai nợ ai”.
Chiếc gương đồng rơi từ trên tay xuống “keng” một tiếng, Dạ Hoa ở nơi nào đó đang gào lên điên cuồng: “Nàng đứng yên ở đó cho ta, đừng nhảy…”.
Ta quay người nhảy xuống Tru Tiên đài. Dạ Hoa, ta chẳng thể yêu cầu thêm gì ở chàng nữa, chẳng còn gì.
Khi ấy, ta không biết rằng, Tru Tiên đài diệt tiên, thực ra là diệt đạo hạnh tu hành của thần tiên. Còn người phàm trần mà nhảy xuống Tru Tiên đài thì sẽ tan thành tro bụi.
Khi ấy, ta cũng không biết rằng, mình thực ra đâu phải người phàm trần.
Chướng khí dưới Tru Tiên đài làm ta bị thương khắp mình, cũng bởi vì đó là chướng khí có thể địch với ngàn vạn thần binh tuyệt thế, nên đã xé toang phong ấn trên trán ta. Ta không ngờ rằng vết chu sa trên trán ta là do khi Quỷ Quân Kình Thương phá vỡ chuông Đông Hoàng, để nhốt hắn ta một lần nữa, ta đã cùng hắn đại chiến một trận và bị hắn phong ấn. Dấu ấn đó đã lấy mất ký ức, dung mạo và tiên khí trùm thân của ta, biến ta thành một người phàm trần.
Những chuyện xa xưa liên tiếp dội về, ta thầm nhắc mình: “Bạch Thiển, ngươi sinh ra là tiên thai, không cần tu hành cũng đã là tiên nữ. Nhưng khắp bốn bể tám hướng đâu có những việc dễ dàng như thế, không trải qua thiên kiếp này, sao ngươi có thể thăng lên làm thượng thần?”.
Cho nên, những yêu hận ân oán của mấy chục năm, trong phút chốc chẳng qua cũng chỉ là thiên kiếp mà thôi.
Ta rơi xuống nằm ngất trong rừng hoa đào mười dặm của thượng thần Chiết Nhan ở phía đông của Đông Hải, lão cứu ta tỉnh dậy rồi than thở: “Cha mẹ cùng mấy ca ca của ngươi đã phát điên lên vì tìm ngươi, ta cũng lo lắng tới mức hai trăm năm nay chưa được một giấc ngủ ngon, đôi mắt này của người, thương tích trên người ngươi, rốt cuộc là thế nào?”.
Là thế nào? Một kiếp số mà thôi.
Ta vừa cười vừa nói với Chiết Nhan: “Con nhớ rằng ở chỗ của người có một loại thuốc, uống vào có thể quên hết những chuyện nên quên đúng không?”.
Chiết Nhan nhíu mày: “Xem ra mấy chục năm nay ngươi đã gặp không ít chuyện đau lòng”.
Chén thuốc nóng hổi trước mặt tỏa mùi thơm nồng.
Thế gian này sẽ không có một Tố Tố trên núi Tuấn Tật nữa. Đó chẳng qua chỉ là một giấc mộng của thượng thần Bạch Thiển - con gái của Đế Quân Bạch Chỉ của nước Thanh Khâu, mang theo biết bao cay đắng khổ sở và sắc hoa đào phai nhạt.
Sau khi tỉnh giấc, những gì đã mơ cũng sẽ quên sạch.