Có thể tôi quá khó tính, quá khích trong tùth trạng hiện tại của xứ sở. Chiến tranh dai dẳng, chán ngấy, tôi không theo phe nào, đứng ngoài nhìn vào như một kẻ bàng quan. Tôi dửng dưng và cố tránh sao cho khỏi bị lôi kéo vào cuộc chiến phi lý giữa hai khối Thực Dân và Cộng Sản. ở vùng Pháp chiếm đóng, tôi trốn lính, thây kệ sự đe dọa thường xuyên của họ. Tôi chai lỳ trước mọi lời tuyên truyền yêu nước, tự do no ấm của phe Cộng mang danh nghĩa kháng chiến. Bao nhiêu là hồn tử sĩ gió ù ù thổi, mặt chinh phu trăng giõi giõi soi. Chết lúc này thật vô lý, tôi phải bảo vệ từ ngón chân đến ngón tay. Kẽm gai không thể làm xước da tôi, nói chi đến chuyện ôm bom ba càng. Nghĩa là tôi ích kỷ, tôi sống cho mình hoàn toàn, chẳng có tí ti lý tưởng nào. Thất tình đau khổ, tôi bỏ Hà Nội đi biệt tăm, chờ một chuyến đi xa. Xuống đây tôi bị chiến tranh vây quanh.
Có thể một ngày nào đó chính tôi là nạn nhân không chừng? Mạng người như con ngoé, nếu phải chết như vậy thì vô lý quá Tôi chẳng là cái quái gì hết, nhưng cẩn sống, sống qua cuộc chiến này.
Cái nhìn của tôi chạm vào đống gạch bên đường, đống gạch đó cao ngất. Nhưng chỉ qua một đêm, sáng hôm sau tôi thấy hết nhẵn.
Chiếc xe nhà binh GMC quen thuộc lại đến đổ đống gạch khác. Tôi vẫn thắc mắc về đống gạch đó, không lẽ lính viễn chinh và lính liên hiệp Pháp ăn gạch thay bánh mì, cơm. ý tưởng dí dỏm đó làm tôi mỉm cười một mình.
Tôi đến lớp học hơi muộn, nhìn xuống đám học trò có vài ngoe mà chán. Chúng lấm lét nhìn tôi, cái nhìn vừa ngu độn vừa sợ sệt.
Tôi lật sổ điểm gọi một đứa lên đọc bài. Nó lễ phép trình cuốn vở bẩn lem nhem, đứng khoanh tay, mắt lấm lét nhìn xuống những ngón chân bết bùn khô cứng. Tôi không buồn giở vở ra xem nữa, nói cộc lốc:
- Đọc bài!
Tên học trò tằng hắng, như lên dây đàn cò, ê a chán mới răn ra được một câu: "Nước Việt Nam a... a... Nước Việt Nam a... a..." Nó nhắc đi nhắc lại mãi điệp khúc đó như một cái hát mòn kim, tôi gắt:
- Nước Việt Nam làm sao?
Tên học trò bấn lên, rồi không biết tại sao nó bật Nước Việt Nam hình cong như chữ "ét sì", chia làm ba miền: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Phía bắc giáp Trung Hoa, phía đông giáp biển Nam Hải, phía nam giáp mũi Cà Mâu, phía tây a... a... giáp nước Tầy...
Tôi đập cái thình xuống bàn:
- Láo, thuộc bài không?
Tên học trò mặt tái mét, trời lạnh mà mồ hôi nó toát ra trán, nó cuống lên:
- Nước Việt Nam sống bằng nghề làm ruộng và có bốn ngàn năm văn hiến.
Lần này tôi nổi nóng thật sự, tôi vụt cho cu cậu ba cái thước kẻ:
- Cút, dê rô!
Lũ học trò ngồi dưới cười ồ, tên đọc bài sợ bị phạt năn nỉ:
- Thầy cho con đọc lại.
- Không hôm nào tao thấy mày thuộc bài hết, tại sao?
Tên học trò vẫn sợ sệt tìm cách chống chế.
- Dạ, đêm qua Việt Minh vào làng thu thóc nên con không học được, tảng sáng vừa giở sách ra thì Tây đồn càn, con sợ quá trốn xuống hầm.
Lý do chính đáng quá, tôi nhún vai gấp cuốn sổ điểm:
- Thế thì học hành quái gì nữa.
Tôi nhìn xuống đám học trò ngồi co ro:
- Tụi bay nên về cày ruộng còn có ích hơn, hoặc đi lính cho Tây hoặc theo Việt Minh ôm bom ba càng. Rồi tôi thấy mình không được bỏ nhiệm vụ của nhà mô phạm nên hỏi một lần nữa cho yên tâm:
- Đứa nào thuộc bài?
Không bàn tay nào giơ lên. Tôi lật cuốn Việt Sử cho học trò chép và cầm cuốn sách đi xuống hàng ghế học trò:
- Hôm nay thầy dậy các em bài Trịnh Nguyễn phân tranh. Đó là thời kỳ đen tối nhất của nước ta, nội chiến kéo dài cả trăm năm. Các vua chúa phong kiến tham quyền cố vị, vì quyền lợi riêng ru nên dân tình khổ sở. Ngoài Bắc có chúa Trịnh, trong Nam có chúa Nguyễn. Cả hai xưng hùng xưng bá mỗi người một phương. Gian thần lộng hành, tham quan ô lại nhũng nhiễu dân tình ngoài phủ huyện. Ngoài Bắc có loạn Tam Phủ, Kiêu Binh. Trong Nam, thừa tướng Trương Phúc Loan chuyên quyền làm nhiều điều tàn bạo khiến dân tình đố thán...
Tôi đang nói thao thao bỗng nghe một tiếng nói nhỏ ở bàn học trò:
- Mình sắp học đến hoàng đế Quang Trung rồi.
Tôi ngừng lời quay lại:
- Dân tình khổ sở thì phải có minh quân ra đời. Nhưng danh tướng có mấy ai sống đến bạc đầu. Số mạng nước mình phải chịu điều nghiệt ngã, một tiểu nhược quốc hẩm hiu thay... Chúng ta có bốn ngàn năm lập quốc viết sử toàn bằng máu, nhưng chúng ta đã hưởng được gì? Mọi bất hạnh đều trút lên đầu lên cổ dân tộc nhỏ bé này. Nhưng tôi nói thế, tôi không muốn các em nhiễm tư tưởng yếm thế, phó mặc. Chúng ta đi tìm, chờ đợi thời cơ. Theo lẽ tuần hoàn của trời đất thì hết suy phải đến thịnh. Dù là cái thịnh ngắn ngủi, nhưng chính nó là nguồn sống cho dân tộc này vươn lên và trở nên bất diệt.. Tôi đi đi lại lại quanh lớp học, ngẩng nhìn lên mái ngói xiêu vẹo, nhìn đám học trò lem luốc, tôi ngậm ngùi.
Giọng tôi thấp xuống, trở thành lời tâm sự, dù chúng không hiểu gì:
- Tôi chán cái cuộc chiến này, tôi thú thật với các em như thế. Không phải tôi không yêu nước, mà vì tôi chỉ muốn không đổ máu vô lý cho bất kỳ chủ nghĩa nào. Với thứ chiến tranh phi chính nghĩa đó tôi có quyền đứng ngoài mà không xấu hổ chút nào. Tôi có quyền nói với các em điều đó, vì tôi từng vác súng lên rừng kháng chiến sốt rét đến vàng da. Tôi không chịu được sự phỉnh phờ lừa bịp, bọn thực dân Pháp với chiêu bài tự do, quốc gia cũng không hơn gì... Tôi quay ra ngoài trời u ám. Lớp học im phăng phắc, đến đỗi tôi nghe thấy cả tiếng lá bàng rụng ngoài sân.
Phía trước cửa lớp học có một cây bàng trụi lá giơ những cành khô cong queo in lên nền trời trắng đục Một nóc tháp chuông nhà thờ vươn cao, chóp đỉnh có cây thánh giá mảnh mai, phía sau là lô cốt, ngọn cờ tam tài bay phấp phới. Tôi nghe xa xa tiếng đại bác nổ ầm vọng vế. Tiếng chuông nhà thờ thường rung lên bất thường trong đêm sau hồi súng bên thanh nổ phía cầu Tôi hoang mang về những hồi chuông đó không kém gì hoang mang về chuyện đống gạch vơi lại đầy mỗi ngày.
Tôi quay nhìn vào lớp học, giở sách, nói:
- Thôi các em chép bài đi?
Tôi giở tấm điện tín của Uyển ra xem lại:
- "Về Hải Phòng ngay stop giấy tờ đã xong stop đã lấy vé tầu thủy".
Việc trước tiên là tôi thu dọn hành lý, chẳng có gì ngoài va ly quần áo và ít sách vở. Xong, tôi tới thanh toán tiền nong với nhà trọ. Tôi phải tới trường học nói chuyện với ông hiệu trưởng tìm người khác thay thế tôi và nhân thể lấy nốt số tiến còn lại. Tuy chúng đáng bao nhiêu, nhưng cũng giúp tôi thanh toán nổi tiền xe, tiền ăn đường từ đây về Hải Phòng.
Ông hiệu trưởng tiếp tôi ở phòng khách. Hương trà tươi thơm, chát làm người tôi tỉnh táo. Buổi sáng cuối đông trời lạnh lạ lùng. Ông hiệu trưởng ngồi thu tay trong bọc. Trông dáng dấp nhỏ bé của ông, tôi bỗng thấy tội nghiệp. Ông nhìn tôi hấp háy sau cặp kính trắng, gọng được nối lại bằng sợi dây thép:
- Vậy thầy nhất định đi sáng nay đấy phỏng?
Tôi đặt ly trà xuống bàn:
- Dạ phải!
Ông kéo chiếc điếu bát đến gần, châm lửa hít một hơi thuốc lào, nhả khói mù mịt:
- Đường từ đây về đến Hải Phòng cũng nguy hiểm lắm đấy, tụi Vẹm giật mìn luôn xoành xoạch, hôm rồi có một đoàn công voa Táy bị phục kích chết ráo. Chỉ khổ cái thằng dân cứ đưa lưng ra mà chịu. Cha bố cái chiến tranh, khổ ơi là khổ, thời buổi làm ăn gì cũng khó. May bà nhà tôi còn buôn bán, chứ không cứ gọi là chết đói. Cái trường của tôi chỉ kiếm đủ tiền hút thuốc lào, học trò có đâu mà dạy. Cũng phải đến dẹp thôi, lớp học tôi làm chuồng bò, chuồng lợn, sân trường rào lại nuôi gà.
Tôi ngồi nói chuyện với ông hiệu trưởng khá lâu để chờ bà vợ ông đi chợ về mới có tiền. Khi tiễn tôi ra cửa, ông nắm chặt tay tôi nói lời chí tình:
- Thầy đi chắc chẳng bao giờ còn trở lại chốn quê mùa này. Vào Nam nếu thầy làm ăn khem khá thì viết thư cho tôi, tôi cũng vào. Xưa kia các cụ mình cứ bỏ xứ đi là điều nhục nhã, nhưng ngày nay khác phải không thầy?
Tôi nhìn ra lớp học, lũ trò nhỏ thập thò ở cửa lớp nhìn tôi. Nhìn chúng, tôi thấy lòng mình se lại, chẳng gì tôi cũng để lại đây ít nhiều kỷ niệm. Tôi giơ tay lên vẫy chúng:
- Thầy đi các em nhé!
Chúng nhao nhao chào tôi và chúc tôi lên đường bình an. Tâm hồn chúng mộc mạc ngu đần, dậy chúng nhiều khi tôi tức uất vì sự ngu dết của chúng, nhưng nghĩ lại tôi thấy thương chúng nhiều hơn là ghét bỏ. Tôi nói với ông hiệu trưởng:
- Chưa biết bao giờ tôi mới trở lại đây, có lẽ phải hết chiến tranh.
Ông hiệu trưởng dường như còn quyến luyến nên tiễn tôi ra tận cổng:
- Chúc thầy lên đường bình an, hai giờ chiều có chuyến xe lên Phòng đấy, thầy liệu thu xếp thì giờ kẻo trễ. Tiếc là hôm nay thầy đi gấp quá không kịp mời thầy bữa cơm xoàng.
Tôi buông tay ông hiệu trưởng:
- Cám ơn cụ, thôi cụ vào đi, cho tôi gửi lời chào cụ bà, hai cụ đối với tôi như vậy là quí hóa lắm rồi. Tôi men theo cánh đồng, qua cầu rồi tới thị trấn.
Con sông ở đây rộng, nước chảy xiết, uốn khúc vòng vèo tới một miền xa thẳm nào đó. Suất ngày trên cầu có lính gác, hai bên bờ sông rào kẽm gai, dân chúng vùng này không được phép lai vãng gần bờ, không một con thuyền nào qua lại ngoài mấy chiếc tầu tuần tiễu của quân đội viễn chinh. Cầu trước kia xây bằng xi măng, nhưng hồi mới kháng chiến Việt Minh phá xập. Bây giờ công binh Pháp làm lại bằng sắt và những tấm ván ghép. Điều đặc biệt nhất là cầu chỉ có một bên tay vịn. Nhiều hôm đi qua cầu, tôi nhìn xuống dòng nước cuồn cuộn mà thấy rợn cả người, chóng mặt lao đao.
Tôi tới thị trấn khoảng trưa, trời bớt lạnh, cảm thấy đói nên rẽ vào hàng cơm. Tôi ngồi ăn, vô anh lại nhìn ra đống gạch cao nghêu.
Tôi thắc mắc về đống gạch cả tháng rồi. Hay là quân viễn chinh xây thêm một đồn nào đó. Tôi tò mò hỏi vài người ở đây lâu năm, họ trả lời không biết. Có người khuyên tôi đừng tò mò, không nghe và không thấy là tốt hơn hết.
Hai giờ trưa, hành lý tôi sẵn sàng. Chiếc xe hàng ngừng lại.
Tôi lên xe, thị trấn lùi lại phía sau, đống gạch khuất bên một khúc rẽ. Gía từ. Tôi nói thầm. Bây giờ thì hết thắc mắc, tôi nghĩ đến Hải Phòng, con tầu biển đưa tôi ra vịnh Hạ Long, men theo hải phận rẽ sóng tiến về phương Nam. Tôi tưởng tượng đến Sài Gòn hoa lệ, hòn ngọc Viễn Đông, những cánh đồng lúa vàng cò bay thằng cánh, những chàng công tử Bạc Liêu hào hoa phong nhã nức tiếng phong lưu mà tôi nghe đồn đại, những nàng con gái Cần Thơ, da trắng như ngà, mắt bồ câu, hơi thở thơm mùi nước dừa. Tôi tưởng tượng về miền Nam đủ thứ trong giấc ngủ lơ mơ.
Cửa kính xe đóng kín, nhưng tôi vẫn run lên vì lạnh. Hành khách ngồi trong xe phần nhiều là đàn bà nhà quê, họ có vẻ yên phận chịu đựng. Có những xe nhà binh chở đầy lính chạy ngược lại, người tài xế phải lái xe dạt vào bên đường. Anh ta luôn miệng càu nhàu vì đường xấu, ổ gà, sống trâu.
Trời về chiều, xe hàng xọc xạch cố mở hết ga để kịp đến nơi an toàn. Xe đang chạy bỗng một chiếc xe nhà binh chạy ngược chiều ra hiệu cho ngưng lại. Hành khách trong xe nhao nhao bàn tán:
- Chắc khám giấy?
Không, hình như có chuyện gì xảy ra phía trước.
Xe nhà binh ngưng lại, người lính Việt nhảy xuống, nói chõ vào trong xe hàng:
- Không đi được đâu, xe trước mới bị mìn chết vô khối.
Nói xong anh ta nhảy bíu lên xe, xe nhà binh đi ngược trở lại. Anh tài xế thở phào:
Thôi ngủ lại ở đây đêm nay vậy, chỉ còn hai chục cây số nữa là đến Phòng. Thật tội vạ... Mấy người đàn bà hình như quen thuộc với cảnh này nên chỉ than thở qua loa, lấy lệ rồi tìm chỗ nằm ngả lưng.
Trời xụp tối, tôi mang cơm nắm ra ăn đỡ dạ. Ngồi mãi trên xe cũng chán, tôi leo xuống tìm chỗ đi tiêu Người lơ xe dặn:
- Nhớ đừng đi xa, quanh quẩn ở đây thôi.
Tôi gật đầu, đi xuống bờ ruộng cách xe hàng không quá trăm thước. Sau khi đi tiêu xong, tôi toan trở lại xe, bỗng có bóng người trong bóng tối nhô ra:
- Ai, đứng lại!
Một cảm giác kinh hoàng chạy dọc sống lưng.
Tôi run run giơ tay lên, qui lát đạn xoành xoạch. Không phải Việt Minh, một tiểu đội hỗn hợp vừa lính Tây, lính ta. Người lính cầm súng ngắn đến bên tôi lục soát khắp người:
- Mày ở đâu ra?
Tôi ở xe hàng kia, tôi đi tiêu!
Thình lình một báng súng nện hự vào ngực tôi:
- Nói láo, mày là Việt Minh phải không?
- Dạ không, tôi lên Hải Phòng, tôi cồ đủ giấy tờ.
Thằng lính ta quay lại nói nhố nhăng gì đó với thằng chỉ huy Tây, rõ ràng tôi nghe gã chỉ huy nói tha tôi tôi khấp khởi mừng. Nhưng gã lính Việt quay lại nhìn thẳng vào mặt tôi. Trong bóng tối nhá nhem tôi nhìn thấy đôi mắt gã long lanh:
- Quan bảo đưa mày về đồn điều tra!
Tôi há miệng cãi:
- Quan nói tha tôi rồi!
Gã dộng thêm một báng súng nữa vào ngực tôi:
- á à mày biết tiếng Tây phải không? Mày lại dám giỏi hơn cả ông nữa kia à! Mày khinh ông thì mày chết con ạ! Tôi bị đạp ngã khụy. Gã lính Việt ra lệnh cho hai tên lính khác tới xốc nách tôi. Chúng trói nghiến tôi lại nhét giẻ vào họng, bịt mắt:
- Mang nó ra xe! Cái đồ lên giọng học thức đó thì cho chết!
Tôi hoàn toàn không trông thấy gì, bước đi chệnh choạng trên đất ruộng khô nứt, đi một quãng khá xa. Hai thằng lính luôn mồm càu nhàu:
- Có đi hẳn hoi không, ông lại dộng thêm cho mấy báng súng nữa bây giờ.
Lần này thì chết thật rồi, họ không để cho tôi giải thích một cáu. Những hình ảnh loáng thoáng chạy qua đầu tôi rất nhanh. Mộng đi Nam tiêu tan, nhưng tôi vẫn còn hy vọng, may ra về đồn, tôi được phép giải thích. Tôi có cảm giác mình bị nhấc bổng, ném vào một thùng xe lúc nhúc những con người, hình như họ cũng bị bịt mắt. bịt miệng và trói giật cánh khuỷu như tôi Tôi ngửi thấy mùi hôi hám của những chiếc áo nâu lâu ngày không giặt, mùi bùn đất, tai nghe tiếng thở phì phò, mệt nhọc.
Xe chuyển bánh, giật ngã chúng tôi, những người đồng cảnh ngộ không quen, không kêu ca. Xe chạy băng băng, bất kể ổ gà đường xóc, chúng tôi bị nhồi, bị tung lên, dập xuống, thân thể tôi đau nhừ. Tôi không biết xe đưa chúng tôi đi đâu, tai nghe tiếng gió ù ù và mặt se lại vì lạnh. Số phận tôi sẽ ra sao, điều đó không thể
biết được. Thời buổi này mạng người như cỏ rác, phe nào cũng có thể giết người. Tôi buồn vì mình thành nạn nhân một cách phi lý. Những ý nghĩ lan man trong đầu tôi, những hình ảnh gần nhất lần lượt hiện ra. Xe đi chậm lại, hình như rẽ vào một nơi nào đó đông người. Chúng tôi được móc giẻ trong miệng ra, xuống xe, tháo băng mắt. Bên trong một đồn lính, chúng tôi bị dồn vào một góc.
Tôi nhìn quanh, đồng bào tôi tất cả. Họ run sợ nhìn những người lính cầm súng rồi nhìn nhau:
- Đây là đâu?
Tất cả đều lắc đầu, lúc này tôi thấy mình cần phải thưa thốt. Tôi gọi người lính:
- Ông ơi, cho tôi thưa chuyện.
Người lính đi lại:
- Mày muốn gì?
- Tôi muốn gặp ông xếp để thưa chuyện tôi bị bắt oan.
Tên lính thuận tay giáng liền một báng súng vào miệng tôi:
- Hỗn, quan nào thèm nói chuyện với mày, câm miệng ngay, ông thì đánh hộc máu mày ra.
Tôi ngồi im thúc thủ, lúc này tôi mới nhận ra mình không có quyền làm người. Tôi nhìn lên lô cất, ánh đèn pha quét thủng màn đêm âm u. Chiếc đồng hồ vẫn đeo ở tay tôi, kim dạ quang chỉ đúng ba giờ sáng. Đám đông quanh tôi thì thào hỏi nhau:
- Nó làm gì mình nhỉ?
- Ai biết, hồi chiều chúng bị phục kích chết mấy đứa, chúng bắt mình làm con tin. Cùng lắm là giết bọn mình chứ gì. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, tội cái thằng dân, sống với Việt Minh cũng khổ, về Tề cũng khốn nạn. Chết là rảnh, tôi chả sợ gì, chỉ lo cho vợ con.
Anh chàng cao gầy, có vẻ cán bộ Việt Minh thừa địp tuyên truyền:
- Nhân dân ta thà chết vinh hơn sống nhục, đảng và nhà nước ghi công anh hùng liệt sĩ. Không có sự dã man tàn bạo của thực dân Phấp thì...
Tôi nổi giận, ném một câu cộc cằn vào mặt gã:
- Câm mẹ nó cái mõm thối của mày lại, chúng mày chỉ được cái họng...
Đám đông gần kề cái chết nhao nhao hưởng ứng lời nói của tôi. Tên cán bộ im bặt ngồi một xó. Tôi bực mình vì mình bị chết quá sớm, bị chết mà chưa được hưởng hết tuổi trẻ.
Cái rét cuối đông làm chúng tôi ngồi co rúm lại với nhau, đến năm sáu chục người chớ không ít. Tiếng xe tăng mở máy rầm rầm. làm chúng tôi choàng tỉnh, mở mắt thật to nhìn. Xe tăng ra ngoài cổng đồn, tiếng máy xa dần.
Một lát sau những người lính gác thúc chúng tôi đứng lên:
- A lê? Dậy! Đến giờ rồi!
Một chiếc xe nhà binh khác mở máy. Chúng tôi bị dồn lên thùng xe.
- Chúng mang mình đi đâu nữa đây?
Một người nào đó nói nhỏ vào tai tôi:
- Chúng bắt mình đi đắp đường, may ra chuyến này mình được thả về.
Nghe xong câu nói, lòng tôi nhóm lên một tia hy vọng. Anh chàng đó nói cũng có lý. Xe chạy ra ngoài cổng đồn, trong bóng tối mờ mờ tôi nhận ra lần lần nơi ở quen thuộc mà tôi mới bỏ đi lúc hai giờ chiều. Vậy ra mình lại bị tụi chúng đưa về nơi cũ, nóc chuông nhà thờ thị trấn, các hàng ăn và đường phố lầy lội. ánh đèn pha trên lô cốt quét từng vệt dài vào bóng tối. Sao lại đống gạch?
Người lính ra lệnh cho chúng tôi xuống xe, gã hét:
- Mỗi đứa lượm sáu cục gạch!
Sao lại chỉ có sáu cục gạch? Tôi tự hỏi. Chắc chắn những người khác cũng cùng một ý tưởng như tôi. Tất cả đều thi hành theo mệnh lệnh. Xong xuôi chúng tôi bị giong đi. Đống gạch hết nhẵn, có người thiếu phải xin thêm bạn đồng cảnh một hai cục. Có lẽ đắp đường thật. Tôi khư khư ôm sáu cục gạch. Nhưng tôi vẫn thắc mắc, sao chỉ có sáu cục gạch? Chúng tôi bị giong đến chân cầu thì dừng lại, bị lùa vào một đám:
- Tất cả đủ gạch chứ?
- Dạ đủ!
Một người lính khác phát cho mỗi người năm cái túi bao cát, bắt chia gạch bỏ vào trong đó, bốn túi bốn cục và một túi hai cục. Mọi người nhìn nhau ngơ ngác, không ai hiểu gì, nhưng vẫn phải thi hành lệnh. Người lính giục:
- Mau lên Chúng tôi răm rắp làm theo lệnh, đeo túi gạch hai cục vào cổ, tứ chi bốn cục. Tôi nghe dưới chân cầu nước xoáy ầm ầm.
Tôi chợt hiểu, hoảng hốt la lên:
-Tôi oan các quan ơi!
Cả bọn hình như cũng vỡ lẽ ra, họ kêu rầm rĩ:
- Lạy các quan tha cho con, con còn mẹ già vợ đại con nhỏ. Trăm lạy ngàn lạy các quan. Những chiếc báng súng đập như tưới lên mình mẩy chúng tôi. Tôi nhìn thấy chiếc xe tăng đậu sừng sững giữa cầu, khẩu đại liên trên tháp xe đen ngòm chĩa xuống. Túi bao cát đựng gạch treo lủng lẳng trên cổ tứ chi tôi. Chúng tôi bị dẫn từng tốp mười người ra đứng ở cầu, lưng quay ra sông, phía không có tay vịn. Lúc này chúng tôi không còn kêu ca nữa. Vô ích, chúng nó sắp sửa làm thịt chúng tôi. Tôi lấy làm lạ khi gần kề cái chết mình lại trở nên bình tĩnh lạ lùng. Có lẽ những nạn
nhân kia cũng đồng tư tưởng như tôi. Hình ảnh dĩ vãng hiện ra trong đầu rất rõ và rất nhanh. Người lính bắn súng liên thanh từ pháo tháp xe tang nhẩy nhanh xuống, bước cồm cộp qua mặt chúng tôi, tiếng giầy đinh sắc đanh buốt óc. Hắn tới lục soát, móc trong túi các nạn nhân bất cứ thứ gì có thể lấy được thồn đầy vào hai túi quần "trây di".
Mồ hôi tôi toát ra lấm tấm trên trán, tôi không run lên vì lạnh mà vì sợ, tôi sắp lìa cõi thế, tôi không theo đạo nào để có bài kinh đọc lúc lâm chung. Dưới chân cầu nước xoáy ầm ầm. Ai có thể ngờ được tôi chết một cách nhục nhã như thế này. Ông hiệu trưởng chắc đã ngủ say và yên chí tôi đến Hải Phòng từ hồi chiều. Còn Khanh, nàng đang nghĩ gì, đang mơ thấy gì chắc chắn không còn nhớ đến tôi. Trời lạnh này, đệm chăn ấm áp. Hà Nội! Hải Phòng! Sài Gòn! Tôi nghĩ đến tên các thành phố mà lòng bỗng sót sa. Bên tai tôi văng vẳng tiếng học trò đọc bài: "Nước Việt Nam hình cong như chữ S. chia ra làm ba miền: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt..."
Nước mắt tôi chảy ràn rua trên má, tôi cúi đầu nhìn xuống chân mình.
Gã bắn súng liên thanh đi tới, tiếng giầy gõ cồm cộp trên ván cầu khô khan, nặng nề. Tiếng động đó xoáy cuồn cuộn trong đầu tôi như tiếng sóng. Chỉ còn một cơ hội chót, tôi nói liệu dẫu có phải ăn thêm hai ba cái báng súng trước khi chết: - Tôi còn chiếc đồng hồ vàng, ông tháo giùm, tôi là thầy giáo ở thị trấn này, chiều nay đi lên Hải Phòng, chẳng may bị các ông bắt lầm...
Gã bắn súng liên thanh đứng dừng lại, bàn tay hộ pháp của hắn nâng mặt tôi lên, nhìn:
- Thật không? à, à! Tôi nhận ra rồi, anh dạy trường làng.
Tôi cũng nhận ra hắn, hắn vẫn thường đến quán uống rượu với lũ Tây gạch mặt. Có một lần hắn cụng ly với tôi và nhờ tôi dậy đứa nhỏ con của mụ nhân tình hắn. Hắn cười, kéo thốc tôi ra: - Anh mà không nói, tôi đâu có biết, đứng đó để tôi xét lại trường hợp anh. Nhanh nhầu cái mồm như thế là may đấy. Thấy tôi được tha, đám nạn nhân lại nhao nhao:
- Lậy quan tha cho con, con oan.
Gã cai đội bắn súng liên thanh không đếm xỉa đến những lời xin xỏ đó. Gã leo lên ổ súng máy ngồi dạng háng. Hắn còn ngoái cổ xuống nói với tôi:
Anh nhờ lính cởi gạch ra cho, muốn chết chìm à?
Tiếng đạn nổ giòn đinh tai nhức óc. Tôi nghe thấy những tiếng thét ghê rợn, tiếng xác người rơi xuống sông lõm bõm, tiếng sóng vỗ vào mạn gầm cầu và mùi khói súng khét lẹt.
Tôi nhắm nghiền mắt cho đến khi tiếng súng ngưng. Tiếng gã bắn súng liên thanh hét to:
- Xong rồi, về!
Gã nhảy xuống xe, xoa tay khoan khoái:
- Chết mát mẻ nhé! A men!
Tên lính đi theo chiếu đèn pin xuống chân cầu, chạy lại báo cáo:
- Thưa xếp chìm hết!
- ừ phải chìm chứ, nổi thế chó nào được? Thôi rút!
Lúc đó tiếng chuông nhà thờ bỗng nhiên đổ hồi.
Gã bắn súng liên thanh gầm lên:
- Điếc tai quá, mai tao phải mang súng ra bắn xập cái gác chuông mới được. Bảo bao nhiêu lần rồi mà cái ông cố đạo đó không nghe. Tim tôi còn đập thình thịch, gã bắn súng liên thanh kéo thốc tôi lên xe:
- Sợ không?
Tôi gật đầu, khi đi qua đống gạch tôi nói:
- Bây giờ tôi hiểu tại sao đống gạch lại vơi đầy.
Gã nhìn tôi đe dọa:
- Muốn sống thì câm họng!
Tôi đã câm họng suốt mười lăm năm nay. Bây giờ tôi mới nói ra điều đó. Nói cho tất cả mọi người biết đống gạch tại sao vơi lại đầy. Bao nhiêu sông ngòi Việt Nam còn giấu bao nhiêu bí ẩn.
Tất cả những dòng sông chẩy ra biển cả. 1.
Mưa bụi từ trời cao rắc xuống.
Tôi khoác chiếc áo mưa trắng, đầu để trần, bụi nước mưa làm mát mặt.
Ngõ hẻm sâu hun hút, tối đen, không lẽ điện lại tắt suốt đêm nay. Không lẽ một cột điện Danhim nào lại bị phá hoại? Tổ cha quân phá hoại, tôi chửi thầm. Tôi đang về nhà, mò mẫm trong đêm hôm khuya khoắt. Thuốc lá không còn một điếu, tôi vò nát bao không ném ở đầu hẻm. Tôi thèm một hơi khói. Nếu có thể thì một điếu thuốc lào cũng đủ say đê mê. Chỉ còn một quãng ngắn nữa tôi về đến nhà, sẽ được hưởng thú vị đó
Đường đất gập ghềnh trơn trượt, tối thui, thỉnh thoảng tôi lại bước lầm xuống một vũng nước. Tôi chửi thề. Gã phu xích lô đạp nhất định không chịu đưa tôi vào ngõ hẻm:
- Thầy hiểu cho, tôi không thể vô trỏng.
- Tại sao?
Đường tối khó đi, vả lại nguy hiểm cho tôi.
- Ai làm gì anh mà nguy hiểm?
- Bộ thầy không thấy báo đăng du đãng lợi dụng đường tối cướp của giết người đó sao?
Tôi nhìn chiếc nón rúm ró trên đầu hắn, chiếc áo xanh rách xả vai, chiếc quần đùi để hở cả "của quí" ra yên xe.
- Anh còn có c.. c. gì nữa mà lột?
Hắn cười nhe hàm răng chiếc còn chiếc mất:
- Dạ còn chứ, thẻ căn cước bọc lát tích và năm chục bạc lẻ. Du đãng hồi này trốn lính nên ưa làm ẩu, mười đồng nó cũng lột đó thầy. Thẻ căn cước thì nó lột hình liệng đi dán hình nó vô, ba chớp ba nháng xài tạm được rồi.
Tôi phải lần mò đi vào một mình.
Có thể lắm chứ, anh xích lô nói có lý, một vài tên du đãng đói nào đó đang rình mò quanh đâu đây. Nó sẽ bước ra chặn lối, trong tay có một lưỡi lê nhọn hoắt, dí vào bụng tôi:
- Người anh em, qua là du đãng đây, lột cho qua mượn tạm chiếc đồng hồ, hà, có tiền hôn? Tết, tốt, cám ơn, thôi yên trí về nhà nghe.
Nghĩ đến điều đó, tôi vừa tức vừa sợ. Tôi thọc tay vào túi quần tìm bật lửa Zippo cầm tay. Tôi hoạch định ngay một đòn giang hồ chống cự trả miếng. Tưởng tượng ra tôi là một tay cự phách, đánh chúng bò lê bò càng. Nhưng đó chỉ là tưởng tượng
Đường vẫn vắng tanh vắng ngắt. Tôi không mong gặp du đãng để thử lửa, có thể gặp trục trặc trong khi thi hành kế hoạch chớ. Nếu bọn du đãng có súng đứng xa tôi khạc bậy một viên vào bụng. Chính tôi là kẻ nằm xuống.
Tôi bước hụt xuống một vũng nước suýt ngã. Màn mưa và bóng tối làm nổi bật những cây thập tự giá ở nghĩa địa ngay sát đường, những cây thập tự giá quét vôi trắng. Cỏ ở đó mọc cao che gần kín những ngôi mả xây, chỉ còn những cây thập tự vươn cao, như những oan hồn mặc áo liệm trắng đứng dang tay. Tiếng gió buồn trong cỏ sắc cùng với tiếng mưa rơi tạo thành thứ âm thanh rì rào, tiếng côn trùng hòa nhịp buồn bã.
Tôi bước thấp bước cao, nước bắn tung toé làm ướt cả vớ trong giầy. Tôi chửi thầm luôn miệng. Tôi tránh nhìn ra nghĩa địa, nhưng tầm mắt tôi không thể quá thu hẹp. Tôi bỗng thấy rờn rợn sau gáy.
- Gì đó?
Tôi quay phắt lại.
Chẳng có gì hết, cổ áo mưa lạnh chạm vào gáy tôi đó thôi. Thần hồn nát thần tính.
Tuy chẳng có gì nhưng tôi vẫn thấy rờn rợn. Phải, tôi đã nghe chuyện đó rồi.
Trong đêm mưa gió sụt sùi, bỗng nhiên có một người con gái mặc áo đen từ đâu đi lại. Nàng đẹp não nề, nàng khóc lóc và nói, rồi nàng nhấc chiếc đầu ra khỏi cổ xách lủng lẳng đi vào nghĩa địa, cái đầu vẫn than khóc. Ghê thấy mẹ, tôi rợn cả người. Tôi muốn chạy, nhưng tôi lại không chạy, hồn ma có thể đuổi theo như quỉ nhập tràng. Tôi tự nhủ không nghĩ đến chuyện đó nữa.
Tôi thở phào vì đã ra khỏi con đường trong vòng đai nghĩa địa. Tôi ngoặt vào một con đường nhỏ hơn, tối hơn, gồ ghề hơn. Hai bên đường tre mọc kín, gió làm những thân tre cọ vào nhau nghe cót két, cọt kẹt. Gió thốc tháo trong lòng hẻm sâu. Tôi nghe tiếng giầy mình đạp bình bịch trên nền đất Bên cạnh con đường nhỏ có một cái hào dài, chạy suốt nước từ trên cao đổ dồn xuống chảy ồ ồ. Tôi quen thuộc với con hào này nên không sợ sa xuống hào. Tôi cẩn thận đi men theo bờ tre. Tôi nghe rõ hơn tiếng cót két. Nếu lúc này bỗng dưng có một thân tre ngã rạp xuống. Tôi không biết mình sẽ đứng lại hay bước qua. Nếu tôi bước qua, cây tre sẽ bật lên hất văng tôi lên cao như một cây pháo thăng thiên. Có chuyện đó được không? Tôi tự hỏi.
Một người lớn tuổi một lần ngồi ở quán chú Lì đã nói chuyện.
Cách đây gần hai chục năm, những đêm mưa dầm, người ta thường thấy lủng lẳng trên ngọn tre những chiếc đầu lâu còn nhỏ máu... Chúng há hốc miệng cười như nắc nẻ. Tôi nghiến chặt răng, đừng nghĩ quẩn. Tôi mạnh dạn hơn, mắt nhìn thẳng. Chỉ có tiếng gió đấy thôi. Không, không phải tiếng gió. Tiếng người. Một câu hát, kéo dài như rên xiết:
- như chim li..ề..ề..n... cánh...như... cây... l..i..ê..ề n... c..à..à..nh..
Tôi đứng dừng lại, nấp bên cạnh một mô đất, nín thở, hồi hộp. Tiếng bước chân chệnh choạng của người nào đó bước gần lại phía tôi.
Miệng hắn vẫn líu lo hát, líu lo nồi lối như giọng phường tuồng:
- Có nghe chăng trăm vạn hồng binh rồi cũng trôi theo thời gian... Mộng bá vương... ha ha... Mộng bá vương còn trơ nơi cổ mộ... nực cười thay chuyện thế thái nhơn tình... Người đàn ông đi tới, hắn chệnh choạng bước. Tôi thở phào, ra khỏi chỗ nấp. Màu áo mưa tôi khoác trắng lôm lốp.
Hắn đột nhiên đứng xửng lại. Hắn lùi, hai tay giơ lên trời, chới với:
- ối đừng, con lạy ngài.. ối! ối?
Hắn ngã tòm xuống hào nước. Bàn tay hắn cố gắng bíu lấy chỗ vịn trên bờ đất trơn, nước xoáy giằng co với thân thể hắn.
Tôi nhẩy đến, túm cồ áo hắn lôi lên, hắn không ngớt kêu oan:
- Lậy ngài... con có nói gì đâu.
- Không tôi đây mà, tôi là người.
Hắn co rút như con tôm, mặt giấu vào hai cánh tay:
- Con có nói bậy đâu, lạy ngài?
Tôi bật sáng hộp quẹt, ánh lửa bập bùng, hắn từ từ buông tay, một khuôn mặt già, nhăn nheo, đôi mắt lờ đờ có những tia máu đỏ. Hắn mở to mắt nhìn ngọn lửa, uể oải đứng dậy. Hắn nhìn tôi không nói.
Tôi đậy nắp hộp quẹt, lửa tắt.
Từ hơi thở lão già bốc ra mùi rượu nồng nặc.
Lão lại ề à:
- Như chim l..i..ê...ền...cánh... nhức..ô..y.. l..i..ề..ri cành...
Lão tập tễnh đi, cách tôi chừng ba bước, dừng lại có vẻ nghe ngóng. Đột nhiên quay lại phía tôi, lão đưa tay che miệng thì thào:
- Này, mày có nghe thấy gì không?
Tôi lắng nghe, lắc đầu:
- Có gì đâu?
- Có, tiếng loa!
Tôi lắng tai nghe lại, lắc đầu nữa:
- Chẳng có gì hết, tôi không thấy gì.
Đồ điếc rõ ràng có tiếng loa. Tiếng loa nói như vầy tên Việt gian Nguyễn Văn Khôn là kẻ đại gian đại ác. Để xây dựng cách mạng, nhân dân tuyên án chặt đầu kẻ phản bội dân tộc... Nghe thấy không, ở ngay dưới ruộng kia..
Tôi lắc đầu, nắm bả vai lão, đẩy đi:
- Thôi bác về đi, khuya rồi.
Lão đứng trầm ngâm, nói với vát: - Đêm nào cũng vậy, tao nghe thấy hoài, từ hai mươi năm nay chúng nói hoài câu đó. Nói xong lão bỏ đi. Lão bị ám ảnh vì một chuyện gì đó. Lão lại nghêu ngao hát. Tôi đứng ngẩn ngơ một lát. Tôi thở phào cũng quay lưng đi, thầm nghĩ bằng tiếng thở ra: Ôi dào, bợm nhậu hơi sức đâu... Mưa nặng hạt dần. Ngõ hẻm tối đen, gió thổi ào ạt làm cây cối la đà. Đâu đó có tiếng chó tru...
Tiếng cầu kinh, tiếng mưa rơi rỉ rả. Ngần ấy âm thanh hòa hợp nhau nhịp nhàng buồn nản. Hình như có nhiều ông sư cùng xướng lên một lượt. âm thanh đó từ phía sau nhà tôi vọng lên.
Tôi nằm yên, đêm tối đen. Tôi đoán ngôi chùa phía sau nhà chắc có mở một đàn chay nào đó. Tôi liền hình dung ra những vị sư mặc áo vàng, nối đuôi nhau vừa đi vừa niệm Phật. Người đi đầu cầm cái thanh la nhịp nhàng gõ, người thứ hai điểm nhịp bằng tiếng mõ. Họ cứ nối nhau đi quanh như thế suốt đêm, dưới ánh hồng lạp âm u từ chánh điện rọi xuống. Bóng họ khi chập vào nhau, khi dang xa, phóng lớn rồi loãng như sương. Họ cứ đi vòng tròn, đi mãi đi mãi, nhẫn nại, thống khổ, miệng xướng lên thứ ầm thanh trầm, buồn nản. Đôi mắt luôn luôn nhìn xuống những ngón chân trần. Cho tới khi trời tang tảng, những ngọn hồng lạp trên chánh điện tàn lụi dần. Tiếng cầu kinh suốt đêm đó lâu lâu tôi lại nghe thấy một lần. Những lần trước tôi dễ ngủ, âm thanh như lời ru bất tận, kéo mí mắt tôi nặng trĩu xụp xuống. Khi tôi bừng mở mắt ra, trời sáng, tiếng cầu kinh tắt. Nhưng đêm nay, tiếng cầu kinh không ru tôi vào giấc ngủ, trái lại còn làm tôi nhức nhối.
Tôi giở mình, xoay tròn trên chiếc giường rộng thênh thang. Ly cà phê đen đặc ở quán đầu Phú Nhuận hồi tối làm tôi tỉnh táo kỳ lạ. Tôi mở mắt thao láo nhìn lên đình mùng, tôi quấn kín mền chỉ để hở đầu Đêm mưa không khí se se lạnh. Tôi thấy lòng mình rộn rã, nghĩ bậy, ước ao bậy. Trong đầu ộc tôi lúc này lổn nhổn những hình ảnh khêu gợi, phía dưới thân thể tôi nóng rẩn rần, những thớ thịt tự động rung lên. Tôi ép khít hai đùi vào nhau lăn tới góc giường, ôm lấy cái gối kẹp vào đùi. Tôi tự nhủ, tự trấn tĩnh mình không nghĩ đến nữa. Thật khó khăn, những hình ảnh khác chỉ mỏng manh như khói. Trời lạnh thế này nếu có một con nhỏ nằm bên cạnh? Phải, đúng con nhỏ đó, đôi chân thuôn dâi, mũi cao và đôi mắt màu hạt dẻ. Con nhỏ ở cuối xóm, nó như đầm lai. Thỉnh thoảng tôi gặp nó đi rong trong xóm. Ngực và mông nó ngồn ngộn dễ sợ.
Tôi nhắm nghiền mắt, tự xỉ vả mình. Đồ đốn, nghĩ tầm bậy hoài.
Tiếng tụng kinh im bặt, tôi mở bừng mắt nghe ngóng. Chỉ còn tiếng gió reo, tiếng mưa rơi rỉ rả. ý tưởng bậy bạ bỗng nhiên bị phân tán nhanh chóng. Phải chăng những nhà sư đã dừng lại, họ không còn đi vòng tròn? Những ngọn hồng lạp đã tàn lụi rồi chăng? Buổi chiều tôi đã leo lên nóc nhà ngắm nhìn tứ phía, xem xét địa thế.
Tôi mua căn nhà gần được một năm, nhưng chưa lần nào tôi đi sâu vào trong xóm. Tôi đứng trên cao nhìn xuống, buổi chiều thật đẹp, nắng quái chiếu qua lá cây những luồng sáng vàng chói lói. Thấp thoáng sau rặng tre những mái lá tỏa khói lam êm đềm. Ngay đằng sau nhà tôi là một ngôi chùa cổ. Tôi nhìn thấy chiếc sân gạch rộng vắng bóng người. Gần đó có một ngôi nhà lợp ngói âm dương, tường đất. Ngôi nhà ẩn sau hàng chuối rậm rạp. Tôi nghĩ đến việc mở một chiếc cửa hậu, tôi sẽ được khu đất hoang. Thuê người dọn cỏ, quây hàng rào, tôi sẽ có một khu vườn. Hàng xóm vẫn nói đất đai ở đây vô tội vạ ai chiếm lấy miếng nào được miếng đó Tôi dự định làm theo họ. Những đêm trăng sáng, tôi bắc ghế ra ngồi ở vườn sau hút thuốc lá, uống cà phê, ngắm phong cảnh. Mình phải thực hiện điều đó bằng được, chắc cũng chẳng tốn kém bao nhiêu. Bên cạnh nhà tôi có một ngôi mả cổ xây bằng đá ong đố sộ, ngôi mả kiên cố như một cái thành nhỏ bỏ hoang, rong rêu mọc đầy. Những ngày mưa, những con ốc sên to không biết từ đâu bò ra, bám đầy trên rêu xanh. Lọt vào trong sân nhà tôi, một chiếc mả khác, cũng bằng đá ong nhưng nhỏ hơn. Những phiến đá ong lỗ chỗ bị thời gian làm lún sâu xuống đất, chỉ còn chừa lại bốn cái cọc hình búp sen nhô cao.
Tôi từng thắc mắc về lai lịch hai ngôi mả đó.
Một tên bạn giang hồ, một lần đến nhà tôi, nhìn thấy ngôi mả bỗng reo lên:
- Nhà này có một kho vàng, kho báu vật.
Tôi ngạc nhiên, hắn chỉ vào ngôi mả:
- ở dưới này, chỉ cần bỏ một ngày công đào sâu xuống năm thước đất. Một gia tài khổng lồ chôn theo người chết chứ không ít.
Đêm đó, hắn ngôi uống rượu với tôi ngay trên ngôi mộ cổ, hoạch định một chương trình đại qui mô. Rồi những đêm sau nữa. Viễn tượng đào vàng mỗi lúc một lớn dần trong đầu tôi. Chúng tôi tưởng tượng ra một cuộc sống nhàn hạ phong lưu trong những ngày sắp tới. Đêm đêm ngồi uống rượu dưới trăng phó mặc chuyện đời. Nhưng chuyện đó không bao giờ thực hiện được, người anh em tôi bị chết mất xác trong một trận đánh lớn ở miền đông. Kho vàng vẫn còn đó, và tôi vẫn tin như vậy. Câu chuyện đào vàng đành gác lại. Khi đi làm, mỗi lúc bực mình với chủ, tôi vẫn thầm đe: "Đồ khốn, mấy ngàn bạc của mày chưa to đâu, con ơi! Chưa biết ngày nào ông đấm b... vào, ông về nhà đào vàng xài mệt nghỉ". Tôi miên man với ý nghĩ ấy cho tới khi tiếng cầu kinh buồn bã lại nổi lên. Mưa vẫn không ngớt, bóng tối mông lung, tôi thấy chóng mặt vì hình ảnh các ông sư đi vòng tròn trong đầu.
Tôi thấy ý nghĩ mình kỳ quái. Tại sao tôi cứ phải nghĩ là những ông sư đi vòng tròn mới cầu kinh được. Tại sao tôi không nghĩ họ ngồi kiết già. Nhưng ý nghĩ tiên khởi cứ bám chắc lấy đầu óc tôi như những con ốc ma bám trên rêu xanh ngôi cổ mộ. Tôi mệt mỏi thiếp đi, hình ảnh những ông sư áo vàng cầm thanh la, mõ, gõ nhịp đi vòng tròn lán quẩn trong đầu tôi suốt giấc ngủ mệt mỏi.
Khi tôi ra đi, người thợ hồ nói với tôi:
- Được thầy cứ yên tâm, chiều nay thầy về tới nhà là có cửa sau rồi.
Tôi còn dặn với, nửa đùa nửa thật: - Anh phải làm cho xong, nội trong chiều nay, tôi về mà không có cửa là không yên với tôi đâu.
Anh thợ hồ cười nhe cả hàm lợi xám:
- Mà làm chi gấp vậy thầy?
Tôi nói không cần suy nghĩ:
- Hôm nay ngày rằm, tôi muốn mở cửa này để ngắm trăng.
- Chỉ có vậy thôi sao?
- Vậy thôi
Buổi chiều năm giờ tôi đã vội ra về. Chiếc cửa ra vào và cửa sổ đã hoàn tất. Tôi xoa hai tay khoan khoái Tôi mở rộng cánh cửa sổ, gió lùa vào mát lồng lộng Tôi mở tiếp cánh cửa ra vào. Khu đất hoang hiện ra trước mắt. Buổi chiều thật đẹp, thật êm đềm trên những mái tranh tỏa khói lam.
ánh nắng chiếu lung linh trên lá cây như bụi kim nhũ, gió làm lay động lá cây la đà. Mặt trời xuống thấp làm mặt nước sông xa ánh vàng. Ngôi chùa vẫn vắng vẻ quạnh hiu, chiếc sân gạch Tầu rộng vắng bóng người.
Tôi bước ra hắn ngoài cửa, gai cỏ chắn lối đi. Tôi cúi xuống vạch cỏ tìm chỗ đặt chân. Cỏ sắc xước vào da thịt tôi rát, xót. Không chừng còn cả rắn rết đang rình núp đâu đây.
Lối đi gập ghềnh, chắc chắn từ bao nhiêu năm nay không có ai đặt chân đến chỗ này. Một cái vấp đau điếng, tôi mất đà ngã trên cỏ. Những con kiến to bằng đầu đũa từ trên lá cây rụng xuống người tôi. Một vài con luồn nhanh vào cổ áo chạy lung tung trong ngực. Tôi dí tay đè nát chúng sau lần vải.
Khi ngồi dậy, tôi nhìn thấy một phiến đá xô nghiêng. Chính nó làm tôi vấp ngã, ngón chân cái đau điếng. Tôi vạch cỏ, phiến đá được đẽo gọt vuông vức, trồi một nửa lên mặt đất. Những hàng chữ khắc trên đá đã mòn nhưng còn đọc được. Một tấm bia. Tôi ghé sát đọc: Trần thị Nhan Sắc, sinh năm 1930, chết 1948.
Tôi đứng dậy, nghĩ bụng trong khu đất hoang này hẳn còn nhiều mồ mả khác. Tôi vén cỏ tìm tòi, khoảng nửa giờ sau tôi tìm thấy gần một chục ngôi mả. Ngót chục ngôi mả trong một khoảnh đất không tới năm mươi thước vuông. Toàn những
người chết trẻ. Họ chết trong những năm 45, 48. Tôi đang đứng trên hài cốt họ, có những ngôi mộ không còn nấm. Buổi chiều đang tàn, mặt trời chìm dưới lòng sông, tôi nghĩ thế, nó lặn xuống nằm ngủ yên lòng đáy nước mát mẻ sau một ngày vã mồ hôi. Tôi vẫn thường có những phút mơ mộng như trẻ thơ. Tôi đứng thẳng người, vươn vai. Tiếng những lóng xương sống kêu lắc cắc. Bầu trời sẫm màu dần, gió khua nhẹ lá cây rì rào, ánh nắng còn thoi thóp.
Tôi nhìn ra căn nhà sau rặng chuối, căn nhà vắng vẻ, hình như những người ở đó đều sống âm thầm. Tôi vạch lá tìm một lối đi nhỏ. Tôi nhìn thấy một khung cửa sổ trấn song gỗ. Tôi vượt qua một rãnh nước đen ngòm, tới sát tường nhìn qua cửa. Căn nhà hoang, tường đất xiêu vẹo, có chỗ tường lở nhìn xuyên được ra sông. Trên nền nhà bằng đất bừa bãi rác rưởi, những mảnh vải trắng, đèn cầy, vài cánh hoa héo. Hình như tất cả những rác rưởi đó còn mới, ai mới liệng ra vung vãi bồi đêm rồi. Căn nhà bao phủ không khí lạnh lẽo âm u. Tôi phân vân, không có ai ở đây sao? Tôi nhíu mày, lắng nghe.
Có tiếng chân ai đó đang lạo xạo bước trên lá cây âm thanh đô không phải từ phía sau lưng tôi mà từ phía bên kia căn nhà, nơi mặt tiền nhìn ra sông. Rồi, một bóng người hiện ra, một lão già, chính lão già say rượu tôi gặp đêm rồi ngoài ngõ. Lão đứng nghiêng ngó vào nhà. Khuôn mặt lão tối, tôi chỉ nhìn thấy đôi mắt, mái tóc và những sợi râu bạc. Tôi đứng sát tường xem lão làm gì. Lão nhìn đống rác, đi thẳng vào nhà, đá tung rác rưởi. Đột nhiên lão bật ra một câu chửi thề:
- Đ M. hết trơn hà!
Có vẻ thất vọng, lão ra cửa, ngồi xuống thềm, quay lưng lại phía tôi, mặt hướng ra sông. Lão lẩm bẩm nói, giọng than vãn:
- Mới lai rai ba sợi hồi trưa mà ngủ dữ, nếu biết sớm đâu đến đỗi.
Lão nói xong, im lặng thật lâu. Lão ngồi như tượng đá. Lão gầy ốm, chiếc áo đen bận trên người bạc phếch. Tôi nổi tính tò mò, muốn biết lão già tìm kiếm cái gì trong ngôi nhà hoang này giữa đống rác rưởi bừa bộn kia. Tôi rời chỗ nấp, bước thật nhẹ để khỏi gây tiếng động. Tôi luồn qua một khoảng tường vỡ nhẹ nhàng vào nhà, lão già vẫn không hay biết. Tôi gây một tiếng động nhỏ, lão già nghe ngóng nhưng vẫn không quay lại. Tôi tằng hắng, lão già chồm lên, quay phắt lại đôi mắt trợn trừng khiếp sợ. Lão há hốc mồm nhưng như á khẩu. Tôi tiến tới, mỉm cười:
- Xin lỗi, tôi làm bác giật mình.
Vẻ khiếp sợ vẫn hằn trên khuôn mặt già cỗi:
- Ông... Ông... là ai? Vào đây lúc nào?
Khuôn mặt lão dịu dần, lão thở phào vuốt ngực, bàn tay có những móng dài bẩn thỉu, khô khan như rễ cây: - Ông làm tôi hết hồn, gặp ông hoài toàn trong những mửng này, có bữa tôi đứt mạch máu chết tốt.
Tôi cười dễ dãi:
- Tôi cũng gặp bác hoài à, tôi tưởng bác không nhận ra tôi chớ?
Lão già đứng dậy:
- Người lối xóm mà, mới cũ gì tôi đều biết hết trơn.
Tôi nói "vậy hả " rồi ngồi xuống cạnh lão thán mật gợi chuyện:
- Chắc bác ở đây lâu lắm rối?
Lão già nhìn ra sông, mặt nước sông buổi chiều óng ánh như tráng kim nhũ:
- Lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ... à mà tôi sinh trưởng ở đây, lớn lên ở đây và rồi có lẽ cũng sẽ chết ở đây, như ông cha tôi vậy.
Giọng lão già trầm xuống, người lão tỉnh táo hơn bao giờ. Lão nói giọng lơ đãng:
- Nhà cửa trong xóm này mỗi ngày mọc lên một nhiều.
Lão giơ tay chỉ bao quát một vùng trước mặt:
- Ông biết không, ngày xưa nơi đây rậm rạp như rừng. ừ, đúng là rừng, những con rạch chạy ngang dọc khắp xóm. Dưới cù lao kia là bãi tắm voi, bên kia sông là bãi tắm ngựa, voi chiến, ngựa chiến. Vậy mà bây giờ...
Lão già bỏ lửng câu nói, đôi mắt lão nhìn xa xôi. Những ngón tay như rễ cây của lão tần ngần lồng vào nhau. Lão bẻ lóng tay kêu lắc cắc:
- Mấy giờ rồi ông?
Tôi không nhìn đồng hồ đeo tay, trả lời phỏng chừng:
- Độ sáu giờ, còn sớm mà.
Bỗng nhiên lão già hỏi:
- Ông ra đây làm gì?
Tôi chỉ ngược lại phía sau lưng:
- Nhà tôi mới mở cái cửa hậu, phía trước ồn ào quá nên tôi muốn ra phía sau yên tĩnh hơn.
- Hèn gì.
- Tôi muốn chiếm khu đất trống kia làm vườn để lâu lâu đêm sáng trăng ra ngồi nhậu đế.
Lão già bỗng cười rung những sợi râu bạc ở cằm:
- Ông cũng biết nhậu?
- Tôi nhậu hoài.
Lão già nói "vậy hả" rồi tiếp tục về khu vườn:
- Ông gặp toàn mồ mả, phải không?
Tôi trả lời "đúng vậy " và nói không còn ý định làm vườn nữa. Giọng lão già tranh cãi: - Không ăn thua gì, mình sống toàn trên xương cốt thiên hạ không. Ông tưởng cái nhà ông ở không có mả sao? Thiếu giống. Ngày xưa ở đây là một bãi chiến trường. ở đâu có hơi người là ma quỉ tự khắc đi hết.
Lão nhìn vào bức tường đổ nát của căn nhà hoang:
- Hồi trước căn nhà này có một gia đình hai vợ chồng và một đứa con trai nhỏ. Hai vợ chống không phải người xóm này, họ ở đâu đến mua đất làm nhà ở đây Người vợ trẻ và đẹp. Khi Tây càn quét vào đây cả gia đình bị bắt. Đứa bé bị chúng đập đầu vào mả đá kia tan sọ rối xé tan xác. Người chồng bị trói ném nằm một xó, chị vợ bị đến mười lăm thằng Tây vừa đen vừa trắng hãm hiếp trước mặt chồng...
Đôi mắt lão già ánh lên nét kinh hoàng:
- Tôi còn nhớ như in mà, tôi nằm dưới đường mương kia, bên trên có lá bao phủ. Tôi nghe rõ tiếng rên la của người vợ, tiếng chửi bới của người chồng, tiếng cười man rợ của tụi mọi đen trắng. Cuối cùng cả hai vợ chồng bị chúng giết nốt. Tôi nghe rõ cả tiếng rú thất thanh của họ. Khi chúng đi khỏi, tôi mò lên, thật khiếp đảm ông ạ.
Lão già chỉ ngay chỗ tôi đang ngồi:
- Người vợ nằm chết ở đây, một nhát lưỡi lê rạch suốt từ âm hộ lên tới ức, ruột gan lòi ra cả đống, hai vú bị cắt ném ra góc nhà, máu lênh láng. Còn người chồng nằm chết gục ở kia, hai mắt bị khoét, cổ họng bị đâm nát bấy, khắp người bị băm ra, con cu cũng chẳng còn nguyên vẹn.
Tôi chặc chặc lưỡi, nói khiếp thế, dã man quá. Lão già nhìn ra một bụi rậm phía trước mặt:
- Tôi thương tình đào hố chôn họ ở bụi rậm đó, cả xác của đứa nhỏ nữa. Từ đó căn nhà này bỏ hoang, không ai dám đến ở vì có ma, nhiều người nói ban đêm họ thấy nhà này vẫn sáng đèn. Người chồng mặc bộ bà ba trắng đọc báo, người vợ ngồi cạnh may vá còn đứa con nhỏ lê la dưới đất. Cảnh tượng hệt như khi họ còn sống.
Tôi thấy rợn khắp người, lão kể thản nhiên, bình tĩnh và chân thật:
- Căn nhà này bỏ hoang suốt từ đó đến nay, dễ thường gần hai chục năm, lâu lâu nhà chùa dùng một lần.
- Nhà chùa dùng làm gì vậy?
Bỗng nhiên lão già nhìn tôi hỏi:
- Đêm qua ông có nghe tiếng tụng kinh gõ mõ không?
- Có họ tụng kinh suốt đêm.
- Họ tụng kinh ở đây! Không phải ở trong chùa sao?
- Không, họ tụng kinh siêu độ cho một xác chết mang tới đây trước khi nhập quan, tụng kinh luôn cho những linh hồn uổng tử quanh đây.
Tôi thấy rợn tóc gáy:
- Ghê quá nhỉ, hồi đêm tôi nghe thấy họ tụng kinh hoài, tôi cứ ngỡ trong chùa cúng. Lão già vẫn ngồi thản nhiên, tư lự nhìn ra khúc sông và bầu trời sẫm màu dần. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao lão già vào bới đống rác, có lẽ lão muốn tìm đồ cúng kiễng bỏ lại. Tôi chỉ đoán vậy thôi chớ không hỏi, tôi tránh làm lão phật ý.
Lão già đứng dậy, ngáp, vươn vai, nói:
- Gần tối rồi đó.
Tôi đề nghị mời lão ra đầu xóm nhậu. Lão cười, nhe hàm răng khấp khểnh chiếc còn chiếc mất: "Số dách! " Bóng tối phủ nhờ nhờ khuôn mặt lão làm những vết nhăn trên trán thêm sâu. Khi đi qua khu đất hoang, lão nói:
- Hồi cách mạng ở đây Việt Minh giết biết bao nhiêu người. Đêm đến họ đưa tội nhân ra ruộng bắc loa tuyên án rồi chém đầu. Chính tôi cũng bị giết hụt nữa.
Tới cửa tôi giữ lão lại, hỏi:
- Tại sao bác không bị chúng giết?
Lão cười hì hì:
- Mấy tướng tự vệ bắt nhầm tôi. Chúng đi bắt thằng Việt gian Nguyễn Văn Khôn nào đó, nhè tôi tên Nguyễn Văn Khuâng, khi nghe đọc bản án thấy không phải tên mình tôi mừng hũm, tôi la chói lói kêu oan, chúng tính giết đại cho xong, may nhờ có thằng biết mặt tôi xin cho chớ không bây giờ tôi thành đất rồi. Mẹ, mạng người hồi đó rẻ như bèo, chúng muốn giết ai là giết hà. Tôi còn nhớ như in đêm hôm đó,
tôi sợ đến đái ỉa ra quần. Nghĩ đến con dao mã tấu cùn tôi còn rợn ở ót. Có người chúng chém đến cả chục nhát không đứt đầu. Đêm đến người trong xóm nghe tiếng loa đều nằm im không dám cựa, sau đó nghe tiếng thét hãi hùng của từng nạn nhân, tiếng chửi rủa. Ông biết họ chửi ra sao không?
Tôi lắc đầu. Lão già nhăn mặt, đôi mắt kinh hoàng:
- Đ M quân cướp cạn, mày chém tao một nhát cho chết đi. Trời ơi là trời Tiếng chửi rủa của cả chục người chớ không ít, dai dẳng cả tiếng đồng hồ. Ngày hôm sau dân ra xem, nhiều người chưa đứt hẳn đầu. Khiếp quá ông ơi? Rồi đến chính phủ Nam Kỳ Quốc, bọn tay chân chúng nó trả thù mới rùng rợn, cỡ Bắc kỳ như ông, chúng trùm bao bố đập đầu chết như đập đầu cá lóc
Trời tối dần.Tôi mời lão vào nhà. Lão đứng lại trước hai cái mả đá, nói:
- Tôi biết hai cái mả này mà.
Tôi mời lão điếu thuốc lá. Tôi nói:
- Chắc mả ông tướng nào hồi xưa.
Lão già hỏi một câu bất chợt ngoài câu chuyện:
- Mình có đi nhậu không?
- Đi chớ, chờ tôi khóa cửa.
Tôi và lão già ra ngoài. Trời tối hẳn, gió mát hây hây.
Những đứa trẻ đang chơi, ngưng đùa nghịch. Chúng nhìn tôi, nhìn lão già. Chúng lên tiếng trêu chọc lão. Lão dừng lại nạt nộ, lũ trẻ càng cười dữ. Tôi ghét cay đắng lũ trẻ trong xóm. Nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn phải cười với chúng, xoa đầu chúng, đôi khi phải cho tiền để chúng khỏi phá phách. Tôi dừng lại rút mười đồng đưa cho thằng lớn nhất bọn:
- Nè, cho tụi bay, chia nhau.
Quả nhiên chúng buông tha chúng tôi. Chúng bu lấy đứa cầm tiền. Lão già vừa đi vừa nói:
- Con nít ở đây mất dậy quá trời!
Khi đi đến lòng hẻm sâu, hai bên tre mọc cao, một đứa con gái đi ngược chiều lại. Đứa con gái lai, có đôi chân dài, đôi mắt màu hạt dẻ và chiếc mũi cao. Nàng đứng lại, lão già cũng đứng lại.
Đứa con gái lên tiếng:.
- Tía đi đâu đó?
Lão chỉ tôi:
- Ông này mời tao đi nhậu, sao hôm nay mày về sớm vậy?
- Hết việc tía à.
Lão chỉ nàng giới thiệu:
- Con gái tui đó, hai cha con tui sống với nhau.
Đứa con gái nhìn tôi cười, hàm răng đều trắng bóng. Bóng tối loáng thoáng trên mặt nàng. Tôi nhìn nàng rồi nhìn lão già xấu xí. Nhan sắc nàng lồ lộ không có một nét nào giống lão. Nàng khoảng mười bảy mười tám tuổi. Và tôi chợt hiểu.
Tôi nói cho đỡ trống trải:
- Tôi gặp con gái bác đi trong xóm này luôn. Lão nói "vậy hả? Thiệt duyên kỳ ngộ". Lão kéo tay tôi đi, ngoái cổ lại dặn con gái:
- Lát để cửa tao "dĩa" nghe Đầm.
Nàng khẽ cúi chào tôi.
Khi nàng đi khỏi, lão già nói: - Con nhỏ ngộ há ông, nó chưa chịu lấy chồng, nó thương tui lắm, nó không muốn lấy chồng xa. Lão quay lại nhìn tôi, cười một cách vô cớ:
- Tôi cũng ưng gả chồng làm ăn đàng hoàng cho nó.
Lão đi cạnh tôi, im lặng một lát. Lão nói:
- Sao ông chưa chịu lấy vợ?
Tôi nói:
- Tôi chưa ưng ai.
Lão nói:
- Ông kén quá!
Tôi im lặng cho tới khi bước chân vào quán nhậu chú Lì. Trời đã tối hẳn.
Lão già khà một tiếng sau khi nốc cạn ly đế. Lão dằn mạnh cái ly xuống bàn gây một tiếng động nhỏ:
- Ngày xưa, khi loạn quân Lê Văn Khôi nổi dậy, chống lại quân triều đình ở vùng Gia định này, chính ông cố nội tôi là lính của ngài. Thành Gia Định bấy giờ rộng lớn lắm, phải tính luôn cả Sài Gòn, Chợ Lớn bây giờ.
Lão già nhìn ra ngoài trời tối, chỉ tay một vòng:
- Tất cả vùng này là thành trì của ổng, quân triều đình phải dẹp mấy năm mới yên, nói ví thử ngài Lê Văn Khôi không chết sớm thì còn lâu quân triều đình mới thắng nổi. Ông cố nội tôi nói thế mà. Khi thắng trận, quân triều đình giết hại biết bao nhiêu là người dân vô tội, có đến năm trăm nghĩa sĩ tự sát chết theo thành. Mả ngụy chôn dài dài khắp Gia Định. Còn hai cái mả đá trong nhà ông, tôi biết, ông cố nội tôi có kể lại tới ngày nay tôi còn nhớ rành rọt, vì tôi có kể lại nhiều lần cho bà con lối xóm nghe chơi. Tôi tiếp đồ nhậu vào chén của lão, rớt thêm rượu:
- Bác biết rõ thiệt sao?
Men rượu làm lão sừng sừng, tiếng nói của lão trở nên lè nhè:
- Vậy ra "chú nghĩ tôi không biết gì ráo trọi? Thằng này ở đây lâu quá rồi mà, mấy thứ vặt đó mà không biết thì biết cái gì.
Tôi vỗ về lão:
- Tôi đâu có định nói thế, tôi chỉ là thứ sinh sau đẻ muộn...
- Khà khà chú em ăn nói đàng hoàng hết sức vậy đó tôi càng ưng gả con gái cho chú. E, bà con, chú này là thằng rể tương lai của tôi đó. Bảnh hôn, bà con?
Lão già cười rung cả chòm râu bạc. Những người trong xóm cũng cười theo, họ nhìn tôi.
- Con gái anh mà lấy được chồng chịu ăn nhậu như vậy là phước. Nhậu tỉnh chớ không nhậu say như anh.
Chú Lì vừa châm đế vào xị vừa nói đùa. Lão già vỗ tay đen đét vào đùi cười rầm rĩ:
- Không ngờ về già tôi sướng ta, số được nhờ con gái.
Bỗng nhiên lão nắm tay tôi:
- Con ơi con, con ở đâu tới đây để nên duyên chồng vợ trong cái xóm hẻo lánh này. Con xứng đáng lắm, con là dân Bắc kỳ phải không? Ngày xưa ngài Lê Văn Khôi cũng là dân Bắc Kỳ, ngài có cọng rau muống lòng thòng ở lỗ đít, con có không? Mọi người cười cái rầm, tôi ngượng chín người. Cũng sừng sừng men rượu, tôi nói mạnh luôn:
- Con gái bác ở đâu lạc vào xóm này?
Nó là đồ nhập cảng ở bên Tây, một thằng lính Lê Dương nhập cảng vào vợ tao, vợ tao đẻ ra nó, nó lại là con tao. Đồ Tây "o-li-din" quí lắm chớ bộ. Vậy mà tao nuôi nó bằng giá sống đó. Hà, hà, duyên kỳ ngộ. Tao không đòi gì hết, vợ chồng mày chỉ cần cho tao mỗi ngày một bữa nhậu xoàng. Tao sẽ làm vườn cho mày, sửa nhà và trông con cho mày. Vậy thôi. Tôi nói dút dạt vậy đó, có bà con đây làm chứng.
- Nhưng con gái bác không ưng tôi thì sao?
- Ưng, ưng liền, nó chịu mày hết sức vậy đó, nó có nói với tao.
Tôi hoang mang:
- Nói với bác hồi nào vậy?
- Nó nói mày là người đàng hoàng, dân thầy chú. Nó mới nói với tao mấy hôm rày.
- Vậy đâu đã chắc cô ấy ưng?
- Ưng là cái chắc, tao rành đời mà mày, nghe nó nói cái, tao hiểu liền, tao biết nó để ý đến mày, tại sao nó không nói gì đến những thằng khác trong xóm. Nhưng con gái nó đâu có nói ra miệng, tâm lý mà mày. Mày khù khờ vậy thì biết bao giờ mới có vợ. Tao cho mày ba ngày o nó. Nó xinh đẹp vậy mà chưa xứng với mày sao, hay mày khi bố con tao nghèo?
Tôi xuống giọng an ủi lão:
- Đâu có chuyện đó, tôi cũng biết điều mà bác, chỉ bởi tại tôi khù khờ.
Lão cười khà khà khoái chí tử. Lão uống rượu tràn cung mây.
Những người nhậu lai rai ra về, tôi và lão già vẫn ngồi uống. Lão nói huyên thuyên từ chuyện nọ sang chuyện kia. Lão trở lại chuyện ngôi mộ đá trong nhà tôi:
- Một đêm kia, hổ tướng Phan Nhà của ngài Lê Văn Khôi đang ngồi uống rượu ngắm trăng với phu nhân thì quân vô báo có bọn quân binh triều đình tới khiêu chiến dưới thành. Tướng quân Phan Nhà nổi giận, bóp nát ly rượu trợn mắt quát:"Cha chả là tức, đêm hôm khuya khoắt bọn gà chết còn muốn đánh nhau, vậy để ta ra xách vài cái đầu về cắt tai nhậu chơi". Nói xong, tướng quân xách đao nhẩy lên ngựa không thèm mặc giáp trụ. Ngài không quên dặn phu nhân hâm rượu nóng chờ ngài về cùng vui. Đơn thương độc mã ngài phóng như bay ra trận tiền. Quân trên thành giục trống trợ oai hùm. Qua giờ tí, ngài phóng ngựa trở vào thành, trên cồ ngựa treo lủng lẳng đầu lâu, trong đó có cả đầu tướng địch. Ngài vừa cười ha hả vừa phóng ngựa như bay. Khi phu nhân nhận thấy chồng về thì tất tả ra đón. Ngài ngồi trên ngựa ngửa mặt nhìn trăng cười ha hả, ném đầu quân địch xuống cho ba quân xem. Dứt hồi cười, ngài té nhào xuống ngựa. Lúc đó mọi người mới nhận ra ở lưng ngài ghim một mũi tên, máu chảy ướt đầm chiến bào. Ngài nhìn quân tướng xung quanh mím môi trợn mắt nói: "Ta buồn vì không bị địch giết mà
bị chính quân nhà, trong bọn ngươi có kẻ bội phản, tiếc cho chí lớn của ngài Lê Văn Khôi, ôi mộng bá vương..." Đôi mắt ngài dịu lại khi nhìn thấy phu nhân, phu nhân khóc nức nở. Tướng quân Phan Nhà buồn bã:"Phu nhân ơi, ở lại ta đi, mộng lớn của ta đến đây là dứt". Nói rồi ngài nhắm mắt, hơi rượu vẫn chưa hả.
Lão già khà tuôn miệng, lão chóp chép. Tôi hỏi:
- Sao bác biết chuyện đó?
- Ông cố nội tao phục vụ dưới trướng ngài, chính ông chứng kiến. Tao nghe chuyện này đến thuộc lòng. Thiệt là một dũng tướng có một không hai.
Lão hớp thêm ly rượu nữa:
- Sau khi chôn cất xong, phu nhân thương nhớ chồng cũng tự tử chết theo, vẹn tình vẹn nghĩa. Khi đó ngài Lê Văn Khôi còn sống, chôn cất hai người cạnh nhau để sống làm chim liền cánh, chết làm cây liền cành. Đó chính là hai ngôi mả đá trong nhà mày hiện nay.
Tôi thắc mắc:
- Nếu tôi không lầm thì sau khi thành Gia Định bị phá, quân binh đến nhân dân trong thành đều bị tàn sát, đến độ mả ông Lê Văn Duyệt, bố nuôi của Lê Văn Khôi cũng bị khai quật trị tội thì ông cố nội của bác làm sao sống được để kể lại chuyện này.
Lão già đặt ly rượu xuống bàn:
- Một ổ kiến ai có thể giết được hết không bỏ sót con kiến nào, ông cố nội tao sống sót như con kiến, trốn chui trốn nhủi ở vùng này, riết thành quê hương luôn. Tôi gật đầu nói "có lý, có lý". Đêm khuya dần. Trăng sáng vằng vặc ngoài nghĩa địa. Những cây thập tự giá trắng toát dưới ánh trăng bạc. Tôi và lão dìu nhau về. Trên con đường gập ghềnh lão lè nhè hát: Như chim liền cánh, như cây liền cành... Tới một khúc quanh bỗng nhiên lão hỏi tôi:
- Mày nghĩ sao lại mua nhà tuất tận trong xóm này?
Tôi nhìn con đường gập ghềnh thấp thoáng bóng trăng:
- Tôi nghe nói ít lâu nữa chính phủ sẽ phóng một con đường qua xóm này, đâm ngang từ đường Chi Lăng sang Tân Định, căn nhà của tôi sẽ có giá trị vì ở ngay cạnh lộ.
- Thiệt vậy sao?
- Thiệt mà.
- Con đường chúng ta đang đi đây xưa là đường của voi chiến đi tắm, vòi đi riết thành đường cho người
Lão già đưa mắt nhìn khắp vùng:
- Đâu có ai ngờ xưa kia nơi đây từng là bãi chiến trường, sông máu núi xương, nơi đây vợ con tao đã chết, bao nhiêu người đã chết. Ngày xưa loạn quân Lê Văn Khôi... Hai chục năm trước là bưng biền của Việt Minh, ma quỉ đã hoành hành ở đây...Tao biết nhiều quá bao nhiêu là biến cố, bao nhiêu là thay đổi... Đọ, đọ tao
lại nghe thấy tiếng loa rồi... Tao không muốn chúng trở lại đây, mày thấy đó, hết đất chôn rồi.. Tao cũng cần một nấm mồ...
Lão già lắc đầu liền liền, giọng lão trở nên hổn hển và nét mặt kinh hoàng:
- Tao cứ uống rượu vào là nghe thấy tiếng loa, kỳ quái thiệt.
Lão già từ giã tôi, lão đi xuống con dốc, ở đó thưa thớt cây cối. Tôi nhìn theo, bóng lão mờ dần dưới ánh trăng bạc. Tiếng nói của lão văng vẳng từ miệt ruộng cạnh bờ sông vọng lên: "Tên Việt gian Nguyễn Văn Khôn là kẻ đại gian đại ác, để xây dựng cách mạng, nhân dân tuyên án chặt đầu kẻ phản bội". Từ hai mươi năm nay, tiếng loa cứ sống mãi trong đẩu lão già hằng đêm.
Tôi chợt liên tưởng đến những nhát mã tấu chém xuống, những tiếng thét hãi hùng. Sáng ngày hôm sau người ta nhìn thấy những cái đầu chưa lìa khỏi cổ. Bất chợt tôi đưa tay sờ cổ và rùng mình. Tóc gáy tôi dựng đứng. Con đường sáng bạc ánh trăng mù mù sương đêm. Bóng lão già kỳ quái đã mất tăm. Đêm chuyển mình trong tiếng đại bác từ phương xa vọng về. Rượu ngấm. Tôi hoa mắt ôm đầu chệnh choạng trở về Tôi nghe như có tiếng sắt thép khua động đâu đây, tiếng mã tấu xé gió vụt xuống. Tiếng thét hãi hùng. Tôi lao đao gục ngã dưới chân dốc. Tôi mơ hồ cảm thấy móng tay mình cào xuống đất lạnh. Nắng tắt sớm vì những đụn mây đen kéo về phủ kín bầu trời. Gió lặng không khí bỗng trở nên oi bức lạ thường. Một trận mưa có thể thình rinh ập xuống.
Trên những cành cây sao trụi lá, hàng chục con chim kền kền đứng củ rũ nhìn xuống khu nhà xác, cây khô héo vì đã chết lâu ngày. Bao nhiêu năm nay dân ở quanh khu nhà xác không thấy cây mọc lá. Có người nói hồi bốn lăm, khu này bị bom, cây cháy và chết khô luôn từ đó. Cây quá cao, nặng, đất lại mềm, người ta khám phá ra nhiều đường nứt phát xuất từ gốc cây. Một dạo dân quanh nhà xác la
hoảng vì sợ cây đổ đè xập nhà. Người có trách nhiệm viết bài nhờ đăng báo kêu gọi bộ Công Chánh tới triệt hạ cây. Nhưng bài báo đó không gây nổi tiếng vang, mất tâm như viên sỏi ném xuống ao. Riết roi không ai để ý đến việc đó nữa. Cây chết vẫn đứng trơ, cành khô vươn ra bốn phía như những cánh tay xương. Và những con chim kền kền, có lẽ là chim cùng loại, không biết từ đâu bay tới đậu đầy trên những nhánh cao. Mỗi con đứng riêng rẽ một cành, chúng bất động, chỉ khi nào cửa nhà xác mở, xác chết mang vào hoặc khiêng ra mới làm chúng kêu lên quang quác, cánh vỗ phạch phạch, tung mình bay lượn vòng tròn trên khu nhà xác. Chúng xà thấp, lướt trên xác chết. Đôi cánh chúng quạt mạnh làm mát mặt người. Gã lao công coi nhà xác lại ngẩng lên chửi:
- Đ M chúng bay, bộ thèm lắm sao, tao mà có quyền tao cho tụi bay tuốt luốc, đỡ chật đất chôn.
Chiều hôm nay những con chim đậu bất động, chi riêng cái cổ ngó ngoáy nhìn bốn phía. Mùi hôi khăm khẳm từ khu nhà xác xông ra, tỏa khắp một vùng. Chiều hôm qua hai chuyến xe nhà binh vừa đổ xuống ngót sáu chục xác chết đã thối, những xác chết đó được bao kín trong bọc ni lông, vậy mà mùi hôi vẫn xì ra.
Ban đêm xóm nhà xác vang động tiếng búa, tiếng đục, tiếng cưa. Họ phải hoàn thành gấp hàng áo quan. Công nhân đào huyệt làm việc luôn tay, rảnh tay kéo nhau ra quán cóc ngồi nhậu đế lai rai. Nửa đêm lão già coi nhà xác cầm xị rượu ngất ngưởng đi ra. Lão say mèm, lão hát líu lo, lão nhẩy nhót băng qua những nấm mồ mới nhấp nhô, như bóng quỉ. Những con chim to xác đậu trên cành cây cao thấy động vỗ cánh phành phạch và kêu quang quác. Tiếng kêu lạnh lẽo khô khan. Chúng tung mình bay lượn trên nền trời tối đen, xà thấp, có lúc như muốn bổ nhào xuống đầu lão già. Lão vung tít chiếc chai không, chửi bới om xòm: Mẹ cha tụi bay, còn lâu các con mới được đớp, xéo đi nơi khác kiếm ăn, ở đây có mà hít hơi
thối thôi các con ạ. Để xác chết cho tụi bay thanh toán thì dân vùng này chết đói ráo trọi sao? Những cánh chim dang rộng, đen, lao bổ xuống đầu lão già, chúng không mổ vào đầu lão, không tấn công mà chỉ làm lão mát mặt. Lão già cười xằng xác:
- A ha, mát quá! Mát quá! Quạt nữa đi các con để bố già ngủ.
Lão lăn ình ra sàn gạch bông hàng hiên nhà xác, tu đế ừng ực Một lát sau lão ngáy pho pho. Đàn chim vẫn bay lượn, chúng đậu trên nóc nhà xác hít hơi, vỗ cánh phành phạch.
Nửa đêm lão già bỗng kêu rú lên, ôm lấy mặt.
Đôi cánh đen trùm nửa người lão, chiếc mỏ khoằm của con chim vừa xả vào mặt lão, trúng ngay con mắt. Lão hét lên, chống trả kịch hệt. Con chim bay lên. Lão ôm mặt, lao mình vào bóng tối, chạy xuyên qua nghĩa địa vào xóm. Lão kêu la rầm rĩ làm cả xóm thức giấc. Họ bật đèn sáng, mở toang cửa nhìn ra. Lão già điên cuồng:
- Chết tôi rồi, bà con ơi!
Một người đàn ông tung cửa chạy ra, ôm lấy lão rối rít:
- Gì đó, bác Sáu?
Gã giằng tay bịt mắt lão ra:
- Trời ơi, máu? Sao vậy?
Lão già giẫy đành đạch: Chết tao rồi, chim, những con chim mổ lòi tròng tao. Khốn nạn, bất nhơn, tụi chúng tưởng tao là xác chết.
Thêm ba người đàn ông từ xưởng hòm chạy ra ôm lấy lão. Khi đó máu ở mặt lão chảy chan hòa. Lỗ mắt mất tròng sâu hoắm.
Họ dìu lão vào nhà, đặt nằm trên đi văng:
- Phải cấp cứu ngay!
- Mẹ, mất trọn tròng mắt, may mới bị một bên. Một người đàn bà cầm khăn vừa lau máu cho lão vừa đắp lên mắt. Lão rên rỉ. Sáu cánh tay trần, cứng như thép dần lão xuống mới giữ nổi. Lão quằn quại, giẫy đạp kêu la, đập chân thình thình trên đi văng, làm náo động cả xóm.
Y tá Chín trong xóm xách thùng thuốc cấp cứu chạy đến, rẽ đám đông bu cửa, vào nhà:
- Các người dang ra để tôi coi.
Gã mở thùng thuốc lấy bông gòn tẩm an côn, lau rửa, đắp lên mắt. Lão già xót, giẫy lên đành đạch. Y tá Chín hét ra lệnh: - Nằm yên để người ta băng cho, phải sát trùng chớ. Anh em giữ chặt cho tôi, còn phải chích thuốc cầm máu, thuốc giảm đau.
Lão thầy cúng kiêm thầy pháp trong xóm cũng có mặt. Lão ngó qua cửa, lắc đầu:
- Thánh thần ơi! Bọn chim này lộng quá rồi, mới hôm qua chúng nó xơi tái con chó nhà Hai Thợ. Riết rồi chúng làm luôn cả người sống, nhà nào có con nít phải coi chừng...
Y tá Chín băng mắt và chùi máu cho nạn nhân xong, nói với bà con lối xóm đang bu quanh:
- Phải mang bác Sáu đi nhà thương gấp.
Một người cãi:
- Mang sao được giờ này, khoan chờ một giờ nữa, hết giới nghiêm.
- ừ thôi cũng được, vô nhà thương họ cũng chỉ làm như tôi vậy thôi. Để chả nằm nghỉ ít phút không hại gì.
Thầy giáo Lượn nhìn ra ngoài cửa, hướng lên phía ngọn cây sao chìm trong bóng tối chặc lưỡi:
- Chà, phải tìm cách diệt bọn này, chúng lộng quá rồi.
Y tá Chín ngồi xuống đi văng an ủi nạn nhân. Nạn nhân vẫn quằn quại rên rỉ, chửi lảm nhảm. Anh Bẩy Xê ra cửa nạt đám người hiếu kỳ:
- Các người về chớ, đứng xem gì đây, liệu mà giữ lấy thân.
Đám đông từ từ rút lui, họ sát vào nhau, nhìn lên cây cao bàn tán về những con chim quái ác và tai nạn vừa xẩy ra cho bác Sáu coi nhà xác.
Đêm vẫn còn tối đen.
Buổi tối, các đạo tì, âm công, thợ đóng áo quan rảnh rang kéo nhau ra quấn nhậu lai rai ba sợi. Quán ở đầu hẻm, chuyên bán đế và rượu rum Vĩnh Sanh Hòa. Món bia ở đây coi như đồ bỏ, vì không ai thèm uống. Dân nhậu toàn là những tay có thể tu nguyên xị đế một hơi mà vẫn ngồi tỉnh. Qua hết nguyên lít người say mặt tím ngắt lại rồi từ từ đổ xuống, không một tiếng la lối hay phá phách. Đồ nhậu phổ thông nhất vẫn là món canh chua lươn, trộn rau chuối và phi hành thơm ngậy, món canh có thể ăn với bún no bụng.
Anh Bẩy Lươn Um chủ quán là một người đàn ông đứng tuổi, tóc hoa râm, tối ngày ở trần, cái quần đùi đen rộng thùng thình ngắn ngang đầu gối, khăn rằn ri vắt vai, mặt và người đỏ như mặt gà chọi. Miệng luôn luôn phì phà cái ống đót tiện bằng xương beo lên nước vàng. Tay anh cầm cái ly cối đầy rượu Vĩnh Sanh Hòa đi từ bàn này sang bàn khác. Bọn khách nhậu là người trong xóm, như có bổn phận, mỗi tối đều đến, mỗi lúc một đông. Họ bận quần áo đen, có xọc trắng, những chiếc kết đội đầu cũng màu đen, huy hiệu kim tuyến thêu hoa lá cành. Họ lột mũ ra liệng chúng ở một cái bàn trống. Hai Thợ, một gã trong bọn lên tiếng:
- Anh Bẩy à, sửa soạn đồ nhậu cho nhiều nghẹn. Hôm nay anh trúng mối đa.
Bẩy Lươn Um khật khưỡng đi ra:
- Nhấp nháy mà các cha, có chuyện gì đó?
- à vụ cha Sáu nhà xác và mấy con chim.
- ứa, mấy con chim, mấy con ác điểu.
Nói xong Bẩy Lươn Um ngửa cổ nốc một hơi cạn gần nửa ly cối Vĩnh Sanh Hòa. Đám âm công, đạo tì nhao nhao mời:
- Anh Bẩy ngồi luôn đây nhậu với bọn này cho vui.
Bẩy Lươn Um khà một cái:
- ấy cái đó hổng được, tôi mà không để mắt vào mấy món nhậu ở nhà bếp là hư hết ráo.
Từ bao nhiêu năm nay, chưa có một khách hàng nào mời được Bẩy Lươn Um ngồi chung bàn. Anh luôn luôn tìm cách này hay cách khác từ chối. Khách hàng thì không nghĩ thế, họ cho rằng anh coi thường lượng nhậu của họ. Bẩy Lươn Um cầm ly cối, luôn luôn châm đầy, trong khi khách hàng ngã như chuối thì anh vẫn tỉnh khô, vẫn cười khà khà ngồi ở một góc bàn trống, lâu lâu góp một lời vô hại. Anh chưa từng chê bai tửu lượng khách nhậu. Anh im lặng, nhũn nhặn, chính điều đó làm các bợm nhậu trong xóm tức ói mật. Có người ngầm so tài với anh bằng cách ngầm uống đua cùng lúc Bẩy Lươn Um cầm ly cối đầu tiên trong ngày. Họ ngồi từ sáng đến tối, khi Bẩy Lươn Um buông ly vào dọn dẹp, khách ra về vừa bước chân ra cửa là khụy xuống hôn mê bất tỉnh. Bẩy Lươn Um mỉm cười ra đỡ địch thủ dìu về nhà. Trong cơn say, địch thủ bèn phun ra hết ý nghĩ của mình và
tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Bẩy Lươn Um nghe nói vậy vẫn chẳng có một lời nào, anh chỉ mỉm cười. Nụ cười đó như ngầm bảo với địch thủ: "Còn khuya con mới theo kịp bố già, bận sau đừng có dại dột thế nghe con".
Mười mấy năm qua vẫn chưa có kẻ nào đánh gục được Bẩy Lươn Um bằng rượu. Bẩy Lươn Um có cái đức của kẻ uống rượu. Không còn một ai dám thách thức nữa. Bẩy Lươn Um vẫn ngồi riêng rẽ một ghế. Khách hàng muốn giữ tiếng của mình là tay chơi, tửu lượng cao, chỉ còn một cạch tán nhảm, tào lao cho hết giờ. Không nói bậy và khi say chịu hết nổi chỉ ngã âm thầm. Họ ngán nụ cười kiêu ngạo của Bẩy Lươn Um.
ánh sáng từ chiếc đèn măng sông treo giữa quán bỗng tối lại. Bẩy Lươn Um đặt ly rượu xuống bàn, anh bê chiếc ghế đẩu ra giữa nhà rồi leo lên, một tay giữ đèn, một tay bơm. Tiếng ga bị ép xịt ra tim đèn kêu khè khè quán sáng trưng trở lại. Vừa lúc đó có thêm mấy người nữa vào quán. Lão thầy pháp, mặt xùi như đá ong cao lỏng khỏng. Y tá Chín miệng lúc nào cũng cười toe toét. Đi sau rốt là thầy giáo Lượn, giáo viên độc nhất kiêm hiệu trưởng trường học tư của thầy trong xóm. Hầu hết con nít trong xóm đều là học trò của thầy. Thầy giáo Lượn người như cái que, nhưng lúc nào trông cũng có vẻ chải chuốt, tóc phết "bi ăng tin" bóng lưỡng, cầm mặt nhăn nhụi, mắt mang kính trắng gọng vàng. Thầy giáo là người được quí trọng nhất trong xóm rồi mới tới thầy chích, rốt là thầy pháp Ba Gà Mổ. Thầy pháp Ba Gà Mổ không lấy làm hài lòng về địa vị của mình, nhất là cái tên chó đẻ do Hai Thợ, chủ nhân xưởng đóng hòm ôn dịch đặt cho, bởi tại cái mặt lão lỗ chỗ như bị gà mổ. Tên đó dân trong xóm tránh kêu trước mặt thầy. Còn y tá Chín lúc nào cũng toe toét với tất cả mọi người, lúc nào cũng nồng nhiệt với nghề nghiệp "cấp cứu" của mình. Hắn cười nhiều quá nên trở thành vô duyên. Trong ba người, chi riêng thầy giáo Lượn trẻ nhất và còn độc thân. Do độc thân và dáng trí thức diêm dúa đó mà thầy giáo Lượn hưởng được nhiều điều tốt lành ở bà con lối xóm. Nhà nào có con gái lớn, tuổi cập kê cũng chỉ mong được thầy giáo để mắt tới. Nhưng
dân trong xóm nhận xét hình như thầy chưa để mắt đến đám nào. Họ kính phục thầy hơn vì thầy là người đứng đắn đàng hoàng. Tất cả mọi người trong bàn đều đứng dậy mời ba vị vào bàn. Hai Thợ dành chỗ cho thầy giáo ngồi cạnh mình. Anh ta lấy cớ phải bàn với thầy giáo nhiều điều quan trọng, vả lại anh ta là liên gia trưởng. Bốn tô canh lươn và những đĩa bún từ dưới bếp mang lên bầy ra bàn. Rượu Vĩnh Sanh Hòa pha soda đá lạnh đã được mang ra. Liên gia trưởng Hai Thợ nói:
- Hôm nay thầy giáo lai rai với tụi tui chớ?
Thầy giáo Lượn gật đầu:
- Nhậu thì nhậu tôi đâu ngán, hôm nay tôi thả dàn...
Mọi người trong bữa nhậu cười phụ họa. Những chiếc ly cối nâng lên cụng nhau lanh canh. Sau đợi rượu đầu, Hai Thợ đặt ly xuống bàn, lên tiếng: - Sở dĩ hôm nay có bữa nhậu này do tui muôn bày tỏ với anh em một vấn đề quan trọng về an ninh cho bà con trong xóm.
Hai Thợ nhìn đảo một vòng:
- Nhiều anh em ở đây đã biết lý do, nhưng tôi muốn nói rõ hơn. Tôi muốn nói đến những con chim, giống ác điểu, không hẳn là quạ, không hẳn là kền kền, chính những con chim đậu trên ngọn cây sao kia, loài chuyên ngửi hơi thối và ăn xác chết.
Hai Thợ ngoái cổ chỉ ra ngoài trời, nhiều người như máy nhìn theo. Hai Thợ tiếp, giọng gay gắt:
- Chúng đang phá chúng ta, như trường hợp tai nạn xây ra cho bác Sáu nhà xấc.
Một người trong đám nâng ly uống:
- Biết rồi, vòng vo hoài, muốn gì thì nói phứt cho rồi.
Đang ngon trớn bị kê ngược, Hai Thợ đổ quạu:
- Đ M. dân gì đâu không hà, bộ mày muốn chửi cha tao sao đấy, hả Cộc? Trình bầy chuyện gì cũng phải có đầu có đuôi chớ, đây là chuyện quan trọng đến đời sống bà con, mày biết rồi kệ xác mày, nhiều người không biết thì sao? Mày muốn chơi cha tao. Kê tủ đứng vào họng tao...
Vẻ mặt Cộc lạnh như tiền, như khi đào huyệt cho người ta. Hắn uống thêm một hớp rượu nữa, nói: ở đây không ai chơi cha ai hết, tôi khoái cái gì cũng vắn tắt nên lên tiếng đó.
Đôi mắt Hai Thợ nẩy lửa. Bàn nhậu xôn xao, mỗi người can một câu. Hai Thợ bắt buộc phải nhịn, nhưng vẫn thấy ấm ách trong lòng. Hắn tiếp tục trình bày:
- Chúng ta phải tìm cách triệt hạ những con chim kia.
Cộc vừa uống rượu vừa cười khinh khỉnh:
- Rồi, gọn bàn vậy có tốt hơn không.
Như lúc khác thì Hai Thợ không ngần ngại cho thằng chả một búa, nhưng lúc này, Hai Thợ thấy mình quan trọng hẳn lên, chẳng gì thì gã cũng là liên gia trưởng, một người chức sắc trong xóm. Anh ta đành làm lơ để bàn đại sự:
- Đó, bà con nghĩ sao?
- Đồng ý.
Cả bàn tiệc đồng ý, kể cả Cộc, thằng cha đào huyệt lý lắc nhất xóm. Hai Thợ nhìn khắp lượt:
- Ai có ý kiến gì nên trình bày ra dể thảo luận.
Thầy giáo Lượn ngồi trầm ngâm trước ly Vĩnh Sanh Hòa đã vơi được một phần tư ly. Thầy y tá mủm mỉm cười, những người khác thì ngồi gật gù ra điều suy nghĩ lung lắm. Thầy pháp Ba Gà Mổ sau khi nhằn hết một khúc lươn, bỏ xương ra bàn, lên tiếng:
- Há... bà con, tui có ý kiến!
Những con mắt đổ dồn nhìn thầy pháp:
- Sao thầy Ba Gà... có ý kiến gì?
Thầy pháp Ba Gà Mổ nhìn gã vừa buột miệng ra câu Ba Gà. Nhưng thầy bỏ qua, thầy sắp sửa bàn đại sự. Giọng thầy trầm xuống:
- Chim kền kền ở đây là một giống quái điểu, không thể sống chung lộn với người được.
Một người nóng ruột hỏi:
- Hẳn thầy đã có phương pháp trừ khử.
Thầy pháp Ba Gà Mổ hơi ngưng lại, đoạn tiếp:
- Ngày xưa, khi tôi còn theo thầy học đạo trên núi Tà Lơn, thầy tôi có luyện được một đạo bùa...
Có tiếng cười xì ra, thầy pháp Ba Gà Mổ làm lơ, kể tiếp:
- Một ngày kia hai thầy trò xuống núi, tới một vùng kia có một cây đa vĩ đại, nghe đồn cây đa đó có ma nên thầy tôi liền ra tay. Sư phụ tôi ếm một đạo bùa vào gốc cây, niệm chú. Sáng hôm sau dân làng ra xem, thấy một con chim mỏ khoằm có mào đỏ nằm chết dang cánh dưới gốc cây, từ đó cây hết còn ma. - Hay quá há, nhưng xin thầy Ba vắn tắt cho vì ở đây, chúng ta đang bàn chuyện trừ khử mấy con chim quái ác chớ không bàn chuyện ma quỉ thánh thần.
Thầy pháp Ba Gà Mổ cau có: - Các người đừng có nóng, từ chuyện nọ mới sang chuyện kia được, tui có học được đạo bùa đó.
- Bộ thầy tính ếm vào gốc cây?
- Uà tôi ếm, nếu chúng không chết thì cũng bay đi hết ráo.