Thế Giới Nghịch Phần 71-74

Phần 71-74
Stan Milgram đang lạc lối trong màn đêm vô tận.

Con đường phía trước là một dãy ánh sáng, nhưng hai bên đường anh thấy chẳng có chút biểu hiện gì của sự sống, chẳng thứ gì trừ hoang cảnh sa mạc tối đen như mực trải dài vào tận xa mịt. Về phía Bắc anh thấy rõ luống núi, một đường đen đặc mờ nhạt trên nền đen. Nhưng chẳng thấy gì khác - không đèn, không thành phố, không nhà cửa, không gì cả.

Đã như vậy suốt một giờ đồng hồ.

Anh đang ở cái nơi quái quỷ nào thế?

Từ ghế sau, con chim rít lên một tiếng xé tai. Stan nhảy cẫng lên; tiếng kêu của nó làm nhức cả màng nhĩ. Nếu bạn có bao giờ định lái xe về phía Tây, anh nghĩ, đừng mang theo một con chim khốn kiếp nào lên đường cao tốc cả, tốt nhất là như vậy. Anh đã trùm vải lên cái lồng nhiều tiếng trước rồi, nhưng tấm vải không làm con chim câm mồm được nữa. Từ St. Louis dọc qua Missouri, và từ đó tới Gallup, New Mexico. Suốt đường con chim không chịu câm mồm. Stan đăng ký một khách sạn tên Gallup, và khoảng nửa đêm con chim bắt đầu thét lên những tiếng xé tai.

Không thể làm gì khác ngoài việc đăng ký trả phòng - giữa tiếng la hét của những vị khách khác - và bắt đầu lái xe tiếp. Mỗi khi anh lái xe thì con chim im lặng. Nhưng anh tấp xe vào lề được vài giờ trong ngày để ngủ, và sau đó, khi anh ngừng ở Flagstaff, bang Arizona, thì con chim bắt đầu la hét tiếp. Nó la hét ngay cả trước khi anh đăng ký vào khách sạn.

Anh tiếp tục lái. Winona, Kingman, Barstow, hướng về San Bernardino - San Berdoo, dì của anh gọi như vậy - và tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là chuyến đi này sẽ kết thúc sớm. Làm ơn đi, Chúa ơi. Hãy cho nó kết thúc sớm trước khi anh giết chết con chim.

Nhưng Stan đã kiệt sức, và sau khi lái hơn 3.219 km, anh trở nên mất phương hướng một cách lạ kỳ. Hoặc là anh đã bỏ qua lối ra ở nút San Berdoo hoặc là... hoặc là anh cũng không chắc nữa.

Anh bị lạc.

Và con chim thì vẫn rít lên. “Tim anh nhễ nhại, cơ thể anh run rẩy, anh cần một nụ hôn nữa...”

Anh tấp xe vào lề. Anh mở cửa ghế sau. Anh mở tấm vải ra. “Gerard,” anh nói, “sao mày lại làm vậy hả?”

“Anh không ngủ được, anh không ăn được...”

“Gerard, thôi đi. Tại sao hả?”

“Tôi e sợ.”

“Tại sao?”

“Xa nhà quá.” Con chim chớp mắt, nhìn khoảng tối bên ngoài. “Đây là nơi quái quỷ nào thế?”

“Đây là hoang mạc.”

“Lạnh cóng được.”

“Hoang mạc lạnh về đêm.”

“Tại sao chúng ta lại ở đây?”

“Tao đang dẫn mày tới nhà mới của mày.” Stan nhìn chằm chằm con chim. “Nếu tao bỏ tấm vải ra, mày có chịu im lặng không?”

“Chịu.”

“Không nói gì hết?”

“Phải.”

“Mày hứa không?”

“Hứa.”

“Được rồi. Tao cần yên tĩnh để xem mình đang ở đâu.”

“Tôi không biết tại sao, tôi yêu anh, sau tất cả những thay đổi đó...”

“Ráng giúp tao đi, Gerard. Làm ơn.” Stan đi xung quanh rồi vào ghế ngồi. Anh nhập vào con đường rồi bắt đầu lái. Con chim im lặng. Từng cây số trôi qua. Rồi anh thấy biển hiệu chỉ dẫn đến một thị trấn tên Earp, cách 4,8 km về phía trước.

“Lời chào êm ái, ukie dukie,” Gerard nói.

Stan thở dài.

Anh lái về phía trước xuyên vào màn đêm.

“Anh làm tôi nhớ tới một người,” Gerard nói.

“Mày hứa rồi mà,” Stan nói.

“Không, anh phải nói thế này mới đúng, ‘Người nào?’ ”

“Gerard, câm mồm đi.”

“Anh làm tôi nhớ tới một người,” Gerard nói.

“Người nào?”

“Người có quyền năng ấy.”

“Quyền năng gì?”

“Quyền năng sử dụng ma thuật.”

“Ma thuật?” Stan nói.

“Anh có đấy.”

“Có gì chứ?”

“Làm tôi nhớ tới một người.”

“Người nào?” Stan nói. Và rồi anh bất chợt nhận ra những gì mình nói. “Gerard, câm đi, nếu không tao tống mày ra ngoài ngay bây giờ.”

“Ui, anh không phải là con thỏ con lệch lạc ư?”

Stan liếc nhìn đồng hồ đeo tay.

Một tiếng nữa, anh nghĩ. Một tiếng nữa là con chim sẽ bị tống ra ngoài.

Ellis ngồi xuống đối diện người em Aaron, trong văn phòng luật của Aaron. Cửa sổ phòng nhìn ra thành phố về phía Nam, nhìn xuống phía tòa nhà Empire State. Hôm nay là một ngày mù sương, nhưng phong cảnh vẫn ngoạn mục, mạnh mẽ.

“OK,” Ellis nói, “anh đã nói chuyện với gã đó ở California, Josh Winkler.”

“À há.”

“Anh ta nói anh ta chưa bao giờ đưa thứ gì cho mẹ cả.”

“À há.”

“Nói thứ mà anh gửi là nước.”

“Chậc, đó là những gì mà anh mong anh ấy nói thôi.”

“Aaron,” Ellis nói, “họ cho mẹ nước đấy. Winkler nói anh ta sẽ không vận chuyển thứ gì xuyên biên giới các bang cả. Mẹ anh ta muốn anh ta làm vậy nên anh ta mới gửi nước đi, để thử nghiệm hiệu ứng giả dược.”

“Và anh tin anh ta,” Aaron vừa nói vừa lắc đầu.

“Anh nghĩ anh ta có tài liệu.”

“Tất nhiên là anh ta có rồi,” Aaron nói.

“Giờ giấc ra vào phòng thí nghiệm, báo cáo thí nghiệm, những tài liệu khác do công ty anh ta nắm giữ.”

“Bị giả,” Aaron nói.

“Mấy thứ giấy tờ đó do FDA đòi hỏi. Làm giả là tội liên bang đấy.”

“Cũng như đưa liệu pháp gien cho bạn bè vậy.” Aaron lấy ra một xấp hồ sơ. “Anh có biết lịch sử của liệu pháp gien không? Đó là một câu chuyện kinh dị đấy, Ellie. Bắt đầu từ cuối những năm 1980, những gã công nghệ sinh học vì hấp tấp nóng vội đã giết người khắp nơi. Ít nhất sáu trăm người chúng ta biết đã bị giết. Và nhiều hơn con số đó chúng ta chưa biết. Anh biết sao chúng ta không biết không?”

“Không, sao?”

“Bởi vì họ tuyên bố rằng - nghe cho kỹ này - những cái chết này không thể trình báo được, bởi vì đó là thông tin độc quyền. Giết chết bệnh nhân là một bí mật kinh doanh.”

“Họ nói vậy thật à?”

“Em bịa ra được thứ cứt này sao? Rồi sau đó họ đòi Medicare(1)_ trả phí cho thí nghiệm đã giết bệnh nhân. Họ giết người, chúng ta trả tiền. Và nếu các trường đại học ấy bị bắt, họ sẽ nói họ không cần thiết phải đưa giao ước ưng thuận có ý thức cho đối tượng thí nghiệm bởi vì họ là những viện nghiên cứu phi lợi nhuận. Đại học Duke, Đại học Penn, Đại học Minnesota - những nơi lớn đã bị bắt rồi. Mấy gã học thuật nghĩ họ đứng trên luật pháp. Sáu trăm cái chết đấy!”

Ellis nói, “Anh không thấy chuyện này có liên quan gì tới...”

“Anh biết liệu pháp gien giết người như thế nào không? Đủ thứ cách có thể giết người. Họ chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra nữa. Họ nhét gien vào người ta, từ đó kích hoạt gien ung thư làm những người này chết vì ung thư. Còn không thì những người này bị phản ứng dị ứng mà chết. Mấy người dở hơi này không biết họ đang làm cái quái gì cả. Họ khinh suất và không tuân theo luật lệ. Còn chúng ta,” anh nói, “chúng ta sẽ đánh vỡ đít họ ra.”

Ellis rục rịch trên ghế. “Nhưng nếu Winkler nói thật thì sao? Nếu chúng ta sai thì sao?”

“Chúng ta không vi phạm luật,” Aaron nói. “Họ mới vi phạm. Giờ thì mẹ bị Alzheimer, còn họ thì gặp rắc rối lớn, lớn lắm đấy.”

Khi Brad Goron bắt đầu cuộc ẩu đả trong quán rượu ở tiệm Lucky Lucy Saloon trên đường Pearl thuộc thành phố Jackson Hole, bang Wyoming, hắn không định trước kết cục phải vào bệnh viện. Với hắn, hai gã mặc áo thun sọc vuông bó sát người, với túi áo có cúc ngọc trai vểnh lên ấy, trông như mèo và hắn nghĩ hắn có thể hạ bọn họ dễ dàng. Chẳng cách nào biết được bọn họ là anh em, không phải tình nhân, mà họ thì không có thiện cảm cho lắm với những lời nhận xét của hắn về họ.

Và chẳng có cách nào biết được gã thấp bé trong số hai gã ấy dạy karate tại trường Wyoming State và đã giành được chức vô địch nào đó ở cuộc thi đấu võ thuật Lý Tiểu Long tại Hồng Kông.

Môn quyền cước với giày ủng cao bồi có mũi kim loại. Brad kéo dài được đúng ba mươi giây. Và mấy chiếc răng của hắn lung lay. Hắn đã nằm ở cái bệnh viện chết tiệt này ba tiếng rồi, nằm chờ người ta cố gắng đẩy răng vào lại vị trí. Có một nha sĩ người ta liên tục gọi nhưng không thấy ông ta trả lời, có lẽ bởi vì (như người sinh viên thực tập giải thích) ông ta đang đi săn trong kỳ nghỉ cuối tuần - ông ta thích nai sừng tấm. Thích ăn thịt đầy hương v ị.

Nai sừng tấm! Cái miệng khốn kiếp của Brad đang giết hắn từ từ.

Vậy là người ta để hắn ở đó với túi đá chườm trên mặt và chiếc hàm được tiêm đầy Novocain, và bằng cách nào đó hắn rơi vào giấc ngủ, và sáng hôm sau, vết sưng đã xẹp xuống đủ để hắn có thể nói chuyện điện thoại, vậy là, tay cầm tấm danh thiếp giữa ngón cái và ngón trỏ bầm tím hắn gọi cho luật sư, Willy Johnson, ở Los Angeles.

Người tiếp tân rất niềm nở: “Johnson, Baker và Halloran.”

“Xin cho tôi gặp Willy Johnson.”

“Xin anh chờ máy.” Điện thoại nghe một tiếng cách, nhưng hắn không được đặt ở chế độ chờ, và rồi hắn nghe người phụ nữ ấy nói, “Faber, Ellis và Condon.”

Brad nhìn lại tấm danh thiếp trên tay. Địa chỉ trên đó là một tòa nhà văn phòng ở Encino. Hắn biết chỗ đó. Một tòa nhà nơi những luật sư hành nghề đơn độc có thể mướn một văn phòng bé xíu và dùng chung một tiếp tân được đào tạo để trả lời điện thoại như thể cô ta đang làm việc tại một công ty luật lớn, để các khách hàng không nghi ngờ luật sư của họ đơn thương độc mã. Tòa nhà đó chỉ chứa loại luật sư kém thành đạt nhất. Những tay chỉ lo những vụ buôn bán ma túy tầm thường. Hoặc là những người bản thân đã vào nhà đá.

“Xin lỗi...” hắn nói vào điện thoại.

“Xin lỗi anh, tôi đang cố tìm ông Johnson cho anh.” Cô ta lấy tay che ống nghe. “Có ai thấy Willy Johnson không?”

Rồi hắn nghe một tiếng hét bị bóp nghẹt vọng lại, “Willy Johnson là một thằng ngu.”

Ngồi đó ngay lối vào phòng cấp cứu, yếu ớt và đau đớn, hàm thì đau như quỷ, Brad bực bội khi nghe những lời này. “Cô tìm được ông Johnson chưa?”

“Xin anh chờ chút, chúng tôi đang tìm...”

Hắn dập máy.

Hắn muốn khóc.

 

Hắn ra ngoài ăn sáng, nhưng vết thương đau quá khiến hắn không ăn gì được, và người trong quán cà phê nhìn hắn lạ lẫm. Hắn soi hình mình trong ly và nhận thấy nguyên bộ hàm của mình chỉ một màu xanh dương và đang sưng phồng lên. Dù sao thì cũng đỡ hơn tối qua. Hắn không lo thứ gì khác ngoài tên luật sư Johnson này. Toàn bộ những nghi hoặc ban đầu của hắn về gã này đã được xác nhận. Tại sao hai người lại gặp mặt trong nhà hàng mà không phải tại công ty luật của gã? Bởi vì Johnson không thuộc công ty luật nào cả.

Chẳng còn gì khác để làm ngoài việc gọi cho ông chú Jack của hắn.

“Tập đoàn đầu tư John B. Watson đây.”

“Xin cho tôi gặp ông Watson.”

Họ nối máy cho hắn gặp thư ký, người này nối máy cho hắn gặp chú mình.

“Chú Jack.”

“Mày đang ở cái nơi chết tiệt nào thế?” Watson nói. Giọng ông ta không thân thiện thấy rõ.

“Con đang ở bang Wyoming.”

“Để tránh xa rắc rối phải không, tao hy vọng vậy.”

“Thật ra thì, luật sư của con phái con tới đây,” hắn nói, “và đó là lý do con gọi cho chú đây. Con hơi lo, ý con là, con lo cái gã này...”

“Này,” Watson nói, “mày đang bị cáo buộc tội dâm ô đấy, và mày có một chuyên gia về tội dâm ô lo vụ này. Mày không cần phải thích ông ta. Cá nhân tao cũng nghe hắn là tên đê tiện.”

“Chậc...”

“Nhưng hắn thắng kiện. Hắn nói gì thì làm vậy. Sao mày nói chuyện nghe lạ vậy?”

“Không có gì...”

“Tao bận rồi Brad. Mà mày đã được dặn là không được gọi mà.”

Cạch.

 

Brad cảm thấy tệ hơn bao giờ hết. Trở lại phòng khách sạn, anh chàng tiếp tân nói có ai đó từ đám cảnh sát vừa đến tìm hắn. Họ có nói gì đấy về tội kỳ thị. Brad quyết định đã đến lúc rời thành phố Jackson Hole xinh đẹp.

Hắn vào phòng để thu dọn đồ đạc, và xem một chương trình thực tế trên ti vi về tội phạm đang chiếu cảnh cảnh sát tóm một tên đào phạm nguy hiểm bằng cách giả vờ cho tên này lên truyền hình. Họ dựng lên một vụ phỏng vấn giả trên truyền hình, và ngay khi tên này thoải mái, họ tra tay gã vào còng. Và giờ thì tên này đang chờ thi hành án tử hình.

Cảnh sát càng lúc càng tinh vi. Brad vội thu dọn đồ, trả hóa đơn, rồi gấp gáp ra xe.

Người tự xưng là nghệ nhân về môi trường Mark Sanger, vừa trở về từ chuyến đi tới Costa Rica, rời mắt khỏi chiếc máy vi tính và nhìn lên sửng sốt khi bốn người đàn ông đánh sập cửa xông vào căn hộ ở Berkeley của anh. Từ đầu đến chân bốn tên này toàn một bộ hazmat cao su xanh dương, có mũ bảo hộ cao su to đùng và kính bảo vệ mắt, găng tay cao su, giày ủng, và bọn họ mang những cây súng trường trông dữ dằn và những khẩu súng lục loại lớn.

Anh chưa kịp phản ứng với cú sốc này thì họ đã nhào vào anh, chộp anh bằng đôi tay đeo găng cao su rồi vật anh ra khỏi bàn phím máy tính.

“Đồ con lợn! Đồ phát xít!” Sanger hét lên, nhưng đột nhiên dường như tất cả mọi người trong phòng đều la hét ầm ĩ. “Thật quá quắt! Đồ con lợn phát xít!” anh hét lên khi họ còng anh lại, nhưng anh thấy được mặt họ đằng sau chiếc mặt nạ, và họ sợ sệt. “Chúa ơi, các ông nghĩ tôi đang làm gì ở đây hả?” anh nói, và một người trong số họ trả lời, “Chúng tôi biết ông làm gì, ông Sanger,” rồi dẫn anh đi.

“Ê! Ê!” Họ kéo anh đi - một cách thô bạo - xuống bậc tam cấp. Sanger chỉ có thể hy vọng báo giới đang chờ, máy ảnh sẵn sàng quay lại cảnh lăng nhục giữa thanh thiên bạch nhật này.

Tuy nhiên, báo giới đã bị cảnh sát ngăn rào nên phải đứng bên kia đường. Họ nghe Sanger la hét, và họ đang ghi hình anh, nhưng khoảng cách của họ ngăn cản việc đối mặt để ghi cận cảnh, kiểu ghi hình ngay-trước-mặt mà anh hy vọng. Thực tế thì, Sanger bỗng dưng nhìn ra được cách hiểu của phóng viên về cảnh tượng này qua ống kính của họ - cảnh sát trong bộ hazmat đáng sợ hộ tống một gã râu quai nón ngoài ba mươi mặc quần jean và áo thun Che Guavara, vừa vùng vẫy trong vòng tay cảnh sát vừa la hét và chửi rủa.

Sanger biết chắc hẳn anh trông như một tên điên. Như một trong mấy gã tên Ted ấy: Ted Bundy, Ted Kaczynski(1), một trong những gã đó. Đám cảnh sát sẽ nói rằng anh có thiết bị vi sinh trong căn hộ, rằng anh có công cụ để thực hiện chuyển đổi gien và anh đang tạo ra một dịch bệnh, tạo ra một loại virus, tạo ra một căn bệnh - một cái gì đó khủng khiếp lắm. Một tên điên.

“Thả tôi ra,” anh nói, cố ép mình phải bình tĩnh. “Tôi đi được. Để tôi đi.”

“Được thôi,” một người nói. Họ để anh tự đứng vững bước đi.

Sanger bước đi bằng tất cả sự nghiêm trang của mình, lưng thẳng, mái tóc dài lắc lư, khi họ dẫn anh tới một chiếc xe đang chờ sẵn. Dĩ nhiên đây là một chiếc xe không sơn chữ. Đáng lẽ anh phải biết như vậy từ lâu rồi chứ. Bọn FBI hay CIA chết tiệt hay gì đó. Tổ chức chính phủ mật, chính phủ đối lập. Trực thăng đen. Không thể lý giải được, những tên Đức Quốc xã bí mật trong số chúng ta.

Vì quá giận dữ nên trước đó anh chẳng để ý đến bà Malouf, người phụ nữ da đen sống trên tầng hai khu chung cư, đang đứng bên ngoài cùng hai đứa con nhỏ. Khi anh đi ngang qua, bà ta rướn người về phía trước và bắt đầu quát nạt anh. “Đồ tồi! Anh đánh cược gia đình tôi! Anh đánh cược mạng sống của các con tôi! Đồ quỷ nhập tràng! Quỷ nhập tràng!”

Sanger ý thức đến cao độ khoảnh khắc đó sẽ được thể hiện như thế nào trong bản tin thời sự buổi tối. Một người mẹ da đen quát anh, gọi anh là quỷ nhập tràng. Còn mấy đứa nhỏ bên cạnh thì khóc lóc vì sợ sệt mọi chuyện đang diễn ra xung quanh.

Rồi sau đó đám cảnh sát đẩy Sanger vào trong chiếc xe không sơn chữ, một tay đeo găng cao su đặt trên đầu anh, luồn anh vào ghế sau. Và khi cửa xe đóng sập lại, anh nghĩ, Mình toi rồi.

 

Ngồi trong xà lim, xem ti vi đặt ở hành lang, cố nghe bản tin bình luận giữa tiếng cãi cọ của mấy gã khác trong xà lim, vừa xem ti vi vừa cố làm ngơ cái mùi nôn mửa yếu ớt và cảm giác tuyệt vọng sâu thẳm càng lúc càng dâng cao trong người.

Đầu tiên là một thước phim nói về chính Sanger, tóc dài, ăn mặc như kẻ vô công rồi nghề, bước đi giữa hai gã mặc đồ hazmat. Trông anh còn tệ hơn những gì anh đã sợ. Phát ngôn viên, kẻ xu nịnh các tập đoàn, đang nói rành rọt tất cả những từ thời thượng: Sanger là một kẻ thất nghiệp. Y là một kẻ vô học làm hết việc này đến việc khác. Y là một kẻ cuồng tín và là kẻ duy nhất có vật liệu phục vụ cho chuyển đổi gien trong căn hộ bẩn thỉu, chật chội của mình, và y được xem là nguy hiểm bởi vì y có khuôn mặt nhìn nghiêng của một tên khủng bố sinh học điển hình.

Tiếp theo đó, một luật sư San Francisco râu quai nón từ một nhóm bảo vệ môi trường nào đó nói Sanger phải bị truy tố ở mức cao nhất mà luật pháp cho phép. Sanger đã gây ra những thiệt hại không thể khắc phục đối với những loài nguy cấp, và đã gây ra nguy cơ cho chính sự tồn tại của những loài này bằng những hành động phá hoại của mình.

Sanger chau mày: tên này đang nói cái quái gì thế nhỉ?

Tiếp đó ti vi chiếu bức ảnh một con rùa luýt và bản đồ của Costa Rica. Giờ đây cơ quan chính quyền dường như đã cảnh giác đối với các hoạt động của Sanger bởi vì anh đã đến Tortuguero, trên bãi biển Đại Tây Dương của Costa Rica, một thời điểm trước đó. Và bởi vì anh đã gây ra nhiều mối đe dọa đối với môi trường liên quan tới rùa luýt.

Sanger không hiểu chuyện này. Anh chẳng bao giờ tạo ra mối đe dọa nào cả. Anh muốn giúp đỡ, chỉ vậy thôi. Và sự thật là, khi về lại căn hộ, anh chưa thể thực hiện kế hoạch. Anh mua cả chồng sách giáo khoa về di truyền, nhưng tất cả đều quá phức tạp. Anh mở tập sách mỏng nhất ra rồi lướt qua vài chú thích hình ảnh: “Một plasmid chứa LoxP bình thường rất ít có khả năng được tích hợp vào một bộ gien tại một thụ thể LoxP bởi vì enzym tái kết hợp Cre sẽ loại bỏ đoạn ADN được tích hợp...” “Vật chủ trung gian chứa virus tác động chậm (lentivirus) tiêm vào phôi đơn bào hoặc ủ bằng phôi mà zona pellucida được rút ra đặc biệt rất...” “Một cách hiệu quả hơn để thay thế gien là sử dụng tế bào ES đột biến không chứa gien HPRT (hypoxanthine phosphoribosyl transferase). Những tế bào này không thể sống sót trong môi trường HAT vì môi trường này chứa hypoxanthine, aminopterine, và thymidine. Gien HPRT được đưa vào vùng dự kiến bằng quá trình tái kết hợp đồng đẳng kép...”

Sanger đã ngừng đọc.

Và bây giờ màn hình ti vi chiếu những con rùa trên bãi biển phát sáng về đêm một màu tím kỳ lạ... và họ nghĩ anh đã làm ư? Chính cái ý tưởng ấy cũng đã lố bịch rồi. Nhưng một quốc gia phát xít luôn đòi hỏi máu của bất kỳ ai vượt quá giới hạn chuẩn mực, dù hành động đó có thật hay chỉ là tưởng tượng. Sanger có thể thấy trước bản thân bị tống vào nhà đá vì một tội mà anh không phạm - một tội mà ngay cả làm cách nào để phạm anh cũng không biết.

Sắp xuất hiện thú nuôi chuyển gien mới

 

Gián khổng lồ, Cún con vĩnh viễn

 

Các nghệ nhân, ngành công nghiệp đang nỗ lực

 

 

Nghệ nhân được đào tạo từ trường Yale là Lisa Hensley đã hợp tác với công ty di truyền học Borger and Snodd Ltd. để tạo ra loài gián khổng lồ sẽ được bán như thú nuôi. Những con gián được chuyển gien này dài 91,4 cm và cao khoảng 30,48 cm. “Chúng sẽ có kích thước như chó chồn dachshunds loại lớn,” Hensley nói, “nhưng dĩ nhiên là chúng không sủa.”

Hensley xem những con thú nuôi này là tác phẩm nghệ thuật với mục đích làm con người có ý thức về cộng đồng côn trùng. “Phần lớn những sinh chất trên hành tinh chúng ta đều bao gồm côn trùng,” cô nói. “Nhưng chúng ta vẫn duy trì một thành kiến vô lý đối với chúng. Chúng ta nên ôm ấp những người anh em côn trùng của chúng ta. Hôn chúng. Yêu chúng.”

Cô nhận thấy “nguy cơ thật sự của vấn đề nóng toàn cầu là chúng ta có thể làm nhiều loài côn trùng bị tuyệt chủng”. Hensley thừa nhận cô được khơi nguồn cảm hứng từ tác phẩm của họa sĩ Catherine Chalmers (Cử nhân Cơ khí, Đại học Standford), người lần đầu tiên đưa gián lên tầm cao mới trong hội họa đương đại với dự án Gián Mỹ.

Trong khi đó, ở ngoại ô bang New Jersey, công ty Kumnick Genomics đang nỗ lực tạo ra một con vật mà họ tin là những ai nuôi chó sẽ rất thích: những con cún vĩnh viễn không lớn. “Cún con vĩnh viễn của Kumnick sẽ không bao giờ lớn,” theo người phát ngôn Lyn Kumnick. “Khi bạn mua một con PermaPuppy, nó sẽ là cún con mãi mãi.” Công ty đang nỗ lực để loại bỏ những hành vi cún con không được mong muốn, chẳng hạn như nhai giày dép, một hành vi làm nhiều người nuôi chó rất khó chịu. “Một khi răng cún mọc đầy đủ thì hành vi này sẽ chấm dứt,” Kumnick nói. “Đáng tiếc, vào thời điểm này, sự can thiệp về mặt gien của chúng tôi đã ngăn cản cả quá trình phát triển của răng, nhưng chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề này.” Cô nói tin đồn cho rằng công ty sẽ đưa ra thị trường một con thú không răng tên GummyDog là không có thật.

Kumnick nhận thấy vì quá trình trưởng thành ở người dần được thay thế bằng quá trình dậy thì vĩnh viễn, một cách tự nhiên người ta muốn những chú chó trẻ trung đi cùng mình đến suốt cuộc đời. “Như Peter Pan, chúng ta không bao giờ muốn lớn cả,” cô nói. “Di truyền học biến chuyện đó thành sự thật!”

Hết phần 74. Mời các bạn đón đọc phần 75

Nguồn: truyen8.mobi/t36882-the-gioi-nghich-phan-71-74.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận