Thế Giới Nghịch Phần 80- 85

Phần 80- 85
Chiếc xe cứu thương tăng tốc về hướng Nam trên đường cao tốc.

Ngồi ở ghế tài xế, khoác trên mình cặp tai nghe Bluetooth mới, Dolly nói chuyện với Vasco. Vasco đang giận, nhưng Dolly không làm được gì. Gã lại xuất phát sai hướng lần thứ hai. Gã chỉ có thể đổ lỗi cho bản thân.

“Xem này,” Dolly nói. “Chúng ta vừa nhận được hồ sơ các cuộc gọi trong năm năm qua. Vừa mới nhận được thôi. Những người Alex gọi có mã vùng này là vợ chồng Kendall, Henry và Lynn. Kendall là nhà sinh hóa; chúng ta không biết cô ta làm gì. Nhưng Lynn và Alex cùng tuổi nhau. Chúng ta nghĩ có lẽ hai người cùng lớn lên với nhau.”

“Họ đang ở đâu?” Vasco nói. “Gia đình Kendall ấy.”

“La Jolla. Phía Bắc của...”

“Tôi biết chỗ đó ở đâu rồi, khốn kiếp thật,” Vasco nói.

“Bây giờ anh đang ở đâu?” Dolly hỏi.

“Từ Elsinore quay về. Cách La Jolla ít nhất một tiếng. Đường ngoằn ngoèo bỏ mẹ. Khốn kiếp, tôi biết con bé đang ngủ đâu đó trên đường.”

“Sao anh biết?”

“Tôi biết chứ. Mũi tôi thính lắm.”

“OK, chậc, bây giờ cô ta có lẽ đang trên đường tới La Jolla. Có thể cô ta đã ở đó rồi cũng nên.”

“Còn cô ở đâu?”

“Cách nhà Kendall hai mươi phút. Anh muốn mình đưa chúng vào xe không?”

Vasco nói. “Tay bác sĩ sao rồi?”

“Tỉnh táo.”

“Chắc không?”

“Gần như đủ tỉnh táo để làm việc cho chính phủ,” Dolly nói. “Anh ta đang uống cà phê từ tec mốt.”

“Cô kiểm tra tec mốt rồi à?”

“Phải. Tất nhiên. Vậy thì - mình đưa chúng vào xe, hay chờ anh?”

“Nếu là con bé Alex thì để cô ta yên. Nhưng nếu cô thấy thằng nhóc, thì tóm nó.”

“Hiểu rồi,” Dolly nói.

“Bob,” Alex nói, tay giữ điện thoại bên tai.                            

Cô nghe có tiếng rên rỉ bên kia đầu dây. “Mấy giờ rồi vậy?”

“Bảy giờ sáng rồi.”

“Chúa ơi.” Đầu anh ta đánh thịch vào gối. “Chuyện này quan trọng đấy Alex.”

“Anh lại đi nếm rượu à?” Robert A. Koch, người đứng đầu xuất sắc của công ty luật, rất quan tâm đến các loại rượu. Để bộ sưu tập của mình trong tủ khóa khắp thị trấn. Mua rượu trong một buổi đấu giá do Christie’s chủ trì; đi đến Napa, Úc, Pháp. Nhưng theo Alex biết thì tất cả chỉ là một cái cớ để có thể bù khú thường xuyên.

“Tôi đang chờ, Alex,” anh ta nói. “Chuyện sẽ ổn mà.”

“OK. Hai mươi tư tiếng trước, tôi bị một tên săn tiền thưởng truy đuổi, một gã lực lưỡng không khác gì cục gạch biết đi vậy, hắn truy đuổi mẹ con tôi để lấy tế bào từ cơ thể chúng tôi bằng những cây kim làm sinh thiết.”

“Rất hay. Tôi đang chờ đây.”

“Tôi nghiêm túc đấy Bob. Có một tên săn tiền thưởng đang truy đuổi mẹ con tôi.”

“Bất thình lình có một tên như vậy à?”

“Không, tôi nghĩ có liên quan tới BioGen.”

“Tôi nghe nói BioGen đang gặp rắc rối,” Bob nói. “Và họ đang tìm cách lấy tế bào của cô ư? Có lẽ họ không làm được đâu.”

Có lẽ không phải là từ mà tôi muốn nghe.”

“Cô biết mà, luật đâu có rõ ràng.”

“Này,” cô nói, “tôi có đứa con trai tám tuổi ở đây; chúng tìm cách chộp lấy nó và rồi dùng kim thọc vào gan nó ở đằng sau một chiếc cứu thương, tôi không muốn nghe chữ không rõ ràng. Tôi muốn nghe Chúng ta sẽ chấm dứt chuyện này.”

“Chúng tôi nhất định sẽ cố gắng,” anh ta nói. “Đây là vụ của bố cô à?”

“Ừ.”

“Cô gọi ông ấy chưa?”

“Bố tôi không bắt máy.”

“Cô gọi cảnh sát chưa?”

“Ngoài kia đang có lệnh bắt tôi. Ở Oxnard. Hôm nay có phiên tòa thảo luận ở Oxnard. Tôi cần ai đó giỏi biện hộ đến đó thay mặt tôi.”

“Tôi sẽ cử Dennis đi.”

“Tôi đã nói là cần người nào đó giỏi cơ mà.”

“Dennis giỏi mà.”

“Dennis giỏi nếu anh ta có thời gian một tháng chuẩn bị. Còn chúng ta chỉ có ngày hôm nay thôi, Bob.”

“Chậc, vậy cô muốn ai?”

“Tôi muốn anh đi,” cô nói.

“Chúa ơi. Oxnard ư? Xa bỏ xừ... Tôi còn chưa uống ngụm rượu nào nữa...”

“Tôi có một khẩu súng săn cưa nòng ở ghế sau đấy Bob. Tôi không quan tâm chuyện anh nghĩ đường xa hay đường gần.”

“Được rồi, được rồi, bình tĩnh đi,” anh nói. “Tôi phải sắp xếp vài thứ.”

“Anh có đi không?”

“Có, tôi đi. Cô có muốn nói cho tôi biết một chút xíu chuyện này là như thế nào không?”

“Anh cứ tìm trong hồ sơ Burnet sẽ biết. Tôi giả định là chuyện này liên quan tới mấy vụ chiếm hữu, chiếm hữu trưng dụng hay chuyển đổi chiếm hữu đơn giản.”

“Chiếm dụng tế bào của cô ư?”

“Họ cho rằng họ sở hữu chúng.”

“Sao họ sở hữu tế bào của cô được kia chứ? Họ sở hữu tế bào của bố cô mà. Ồ, tôi hiểu rồi. Cùng loại tế bào. Nhưng chuyện này vớ vẩn thật đấy Alex.”

“Nói cho quan tòa biết ấy.”

“Họ không thể xâm phạm quyền toàn vẹn của cơ thể cô được, cũng không được xâm phạm cơ thể của con cô, thật là...”

“Anh để dành những lời ấy mà nói với quan tòa,” cô nói. “Lát nữa tôi gọi lại, xem chuyện tiến triển ra sao.”

Cô đóng nắp điện thoại lại.

Cô cúi nhìn Jamie. Nó vẫn đang ngủ, ngủ yên bình như một thiên thần.

Nếu Koch tới Oxnard vào cuối giờ sáng, anh ta có thể dự phiên tòa khẩn cấp vào buổi trưa. Có lẽ cô nên gọi cho anh ta khoảng bốn giờ chiều. Từ giờ đến khi ấy dường như sẽ là một khoảng thời gian rất dài.

Cô lái về phía La Jolla.

Chúng ta chẳng bao giờ muốn vậy cả, Henry Kendall nghĩ bụng. Khách khứa! Anh kinh ngạc đứng nhìn Lynn quàng tay quanh Alex Burnet rồi cúi người ôm đứa con Jamie của Alex. Alex và Jamie vừa tới, tới mà không báo trước. Hai người phụ nữ vào bếp lấy thức ăn cho Jamie, vừa đi vừa háo hức trò chuyện, vung vẩy hai tay, hớn hở vì gặp nhau. Trong khi đó, con trai Jamie của anh và Dave đang chơi trò Drive or Die! trên máy PlayStation. Tiếng kim loại bị nghiền răng rắc và tiếng bánh xe rít lên tràn ngập căn phòng.

Henry Kendall cảm thấy choáng ngợp. Anh bước vào phòng ngủ và cố nghĩ thông suốt mọi chuyện. Anh vừa mới từ đồn cảnh sát về, ở đó anh đã xem lại băng ghi hình an ninh ở sân chơi vào ngày hôm kia. Chất lượng hình ảnh không tốt lắm - cảm ơn Chúa - bởi vì hình ảnh thằng nhóc Billy ấy đấm đá con anh kinh khủng đến nỗi anh hầu như không thể xem được. Anh phải quay mặt khỏi màn hình nhiều lần. Còn tụi nhóc kia, cái băng nhóm trượt ván ấy, tất cả bọn nó phải vào tù mới phải. Nếu may mắn một chút thì bọn nó cũng sẽ bị đuổi học.

Nhưng Henry biết chuyện sẽ không dừng ở đó. Chuyện chưa bao giờ dừng lại cả. Ngày nay ai cũng thích kiện cáo, và nhất định bố mẹ của mấy thằng nhóc trượt ván sẽ đâm đơn kiện xin phục hồi danh dự cho đám nhóc. Họ sẽ kiện gia đình Henry, rồi họ sẽ kiện Jamie và Dave. Và từ những vụ kiện cáo đó chắc chắn sẽ lòi ra chuyện chẳng có hội chứng nào gọi là hội chứng Gandalf-Crikey hay hội chứng gì khác mà Lynn đã bịa ra cả. Chắc chắn sẽ lòi ra chuyện Dave thực tế là một con tinh tinh chuyển gien.

Rồi thì sao nữa? Một gánh xiếc truyền thông ngoài sức tưởng tượng. Phóng viên cắm trại nhiều tuần trên bãi cỏ sân trước. Gia đình anh đi đến đâu sẽ bị săn đuổi đến đó. Họ sẽ bị ghi hình ngày đêm bằng máy quay điệp viên. Đời sống của họ bị phá hoại. Và đến lúc đám phóng viên bắt đầu chán chường thì đám người sùng giáo và những nhà môi trường sẽ nhảy vào. Henry và gia đình anh sẽ bị gọi là những Kẻ Vô thần. Họ sẽ bị gọi là tội phạm. Họ sẽ bị gọi là những kẻ nguy hiểm, là những kẻ phi Mỹ, và là những kẻ gây hiểm họa đối với sinh quyển. Trong tâm trí anh, anh hình dung ra cảnh các bình luận viên truyền hình nói nhiều thứ tiếng hỗn độn - tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức, tiếng Nhật - ai cũng huyên thuyên, kèm theo hình anh và Dave trên màn hình.

Và đó mới chỉ là khởi đầu.

Dave sẽ bị dẫn đi. Henry có thể sẽ phải ngồi tù. (Mặc dù anh không nghĩ vậy; các nhà khoa học đã vi phạm luật lệ về thử nghiệm gien cả hai thập kỷ nay rồi, và chưa ai đi tù cả, ngay cả khi bệnh nhân tử vong.) Nhưng chắc chắn anh sẽ bị cấm nghiên cứu. Anh có thể bị đá ra khỏi phòng thí nghiệm trong một năm hoặc hơn. Anh sẽ nuôi sống gia đình bằng cách nào đây? Lynn không thể một mình gồng gánh được, và công việ c làm web của cô ấy gần như chắc chắn sẽ chẳng tiến triển được. Và chuyện gì sẽ xảy ra với Dave? Rồi con trai anh nữa? Tracy nữa? Và còn cộng đồng của họ thì sao? La Jolla là thành phố khá tự do (suy cho cùng thì là nhiều vùng ở La Jolla), nhưng người ta có thể sẽ không chấp nhận cái ý niệm người tinh tinh đi học cùng con của họ. Một ý niệm cấp tiến, nhất định là vậy rồi. Người ta chưa sẵn sàng chấp nhận nó. Những người theo chủ nghĩa tự do cũng chỉ tự do đến một mức nào đó.

Gia đình anh có thể sẽ phải dọn nhà đi nơi khác. Họ có thể sẽ phải bán nhà và đi đến một nơi xa xôi nào đó, như bang Montana chẳng hạn. Mặc dù ở đó có lẽ người ta thậm chí sẽ còn ít chấp nhận họ hơn.

Những ý nghĩ này và nhiều ý tưởng khác vụt qua tâm trí anh, giữa tiếng xe rít bánh và đâm vào nhau, và giữa tiếng vợ anh và cô bạn đang cười đùa trong bếp. Anh cảm thấy choáng ngợp. Và giữa cảm giác ấy, giữa tâm điểm của mọi thứ, là cảm giác tội lỗi sâu sắc trong anh.

 

Có một điều rất rõ ràng. Anh phải trông coi mấy đứa con của mình. Anh phải biết chúng ở đâu. Anh không thể mạo hiểm để những sự cố như chuyện đã xảy ra ngày hôm kia tái diễn. Lynn đã giữ các con ở nhà thêm một thời gian nữa, định bụng sau một thời gian mới cho chúng đi học, để không xảy ra sự cố nào với những đứa lớn khác ở trường. Thằng nhóc Cleever ấy là một mối họa, và không nhiều khả năng nó sẽ bị bỏ tù. Người ta chắc sẽ dọa cho nó một trận rồi giao cho bố nó trông nom là xong. Bố nó, Henry biết, là một nhà phân tích quốc phòng làm việc cho một nhóm chuyên gia cố vấn ở địa phương và là một gã thích súng ống cực kỳ. Một trong những gã trí thức có sở thích bắn cái này cái kia. Một nhà trí thức đầy nam tính. Không thể nói trước được chuyện gì có thể xảy ra.

 Anh quay sang kiện hàng mà anh đã mang về từ phòng thí nghiệm. Trên kiện có ghi TrackTech Industries, thành phố Chiba, Nhật Bản. Bên trong là năm ống bạc sáng bóng dài 2,54 cm, nhỏ hơn ống hút một chút. Anh lôi mấy cái ống ra nhìn. Những tuyệt tác thu nhỏ này có tích hợp công nghệ định vị toàn cầu, cũng như có cả thiết bị theo dõi nhiệt độ, mạch đập, hô hấp và huyết áp. Chúng được kích hoạt bằng cách chạm vào một miếng nam châm ở một đầu. Đầu ống ánh lên màu xanh dương một lần rồi tắt ngóm.

Chúng được thiết kế để theo dõi những con Linh trưởng trong phòng thí nghiệm, khỉ và khỉ đầu chó. Ống được cấy vào con vật bằng một dụng cụ giải phẫu đặc biệt trông như một ống tiêm quá cỡ. Ống được đặt dưới lớp da ở phần cổ, ngay trên xương đòn. Henry dĩ nhiên không thể làm vậy với bọn trẻ. Vì vậy câu hỏi đặt ra là, phải đặt ống ở đâu?

Anh vào lại phòng khách nơi tụi nhỏ đang chơi. Để cảm biến trong cặp sách bọn nó ư? Không được. Để ở dưới cổ áo bọn nó ư? Anh lắc đầu. Bọn nó sẽ thấy cộm và phát hiện ra.

Vậy thì ở đâu?

 

Cái dụng cụ giải phẫu ấy rất đượ c việc. Thiết bị được cài suôn sẻ vào phần cao su dưới gót giày thể thao. Anh nhét dưới giày của Dave, rồi giày của Jamie, và rồi, trong một cơn bốc đồng, anh ra ngoài lấy cả chiếc giày của Jamie, con trai Alex.

“Để làm gì ạ?” Jamie nói.

“Chú cần đo nó. Chút nữa chú trả lại.”

Anh nhét một thiết bị cảm biến vào chiếc giày thứ ba.

Còn lại hai thiết bị. Henry nghĩ ngợi một hồi lâu. Anh nghĩ ra được nhiều khả năng.

Chiếc Hummer dừng lại đằng sau chiếc xe cứu thương, Vasco bước ra ngoài. Gã tới gần xe cứu thương.

Dolly trườn mình vào ghế hành khách.

“Chuyện gì vậy?” Vasco nói khi đã vào trong xe.

Dolly gật đầu về phía căn nhà ở cuối đường. “Đó là nơi ở của gia đình Kendall. Anh thấy chiếc xe của Burnet trước nhà đấy. Cô ta đã ở trong đó được một tiếng rồi.”

Vasco chau mày. “Chuyện gì thế?”

Ả lắc đầu. “Tôi có thể lấy micro định hướng, nhưng mình phải gắn sát vào cửa sổ, mà tôi nghĩ anh không muốn tôi đến gần căn nhà đó hơn.”

“Phải, tôi không muốn.”

Vasco dựa lưng vào ghế. Gã buông một tiếng thở dài. Gã nhìn đồng hồ đeo tay.

“Chậc, mình không thể vào trong đó.” Những tay săn tiền thưởng được phép vào gia cư của kẻ đào phạm, thậm chí không cần lệnh khám nhà, nhưng họ không thể xâm nhập gia cư của bên thứ ba, mặc dù họ biết kẻ đào phạm đang ở đó. “Sớm muộn gì,” gã nói, “chúng cũng phải ra thôi. Và khi chúng ra thì chúng ta đã chờ sẵn ở đây.”

 

Gerard đang mệt mỏi. Nó đã bay được một tiếng kể từ lần nghỉ cuối, lần nghỉ ấy như thể một tai họa vậy.

Trời vừa rạng sáng chưa bao lâu, nó đã đáp xuống một khu nhà có mùi thức ăn mà nó ngửi được. Những tòa nhà làm bằng gỗ có lớp sơn đã mờ. Có những chiếc xe cũ kỹ nằm giữa đám cỏ mọc xung quanh. Những con thú lớn kêu khụt khịt phía sau một hàng rào. Nó đậu trên một cọc rào nhìn đứa nhỏ mặc bộ áo liền quần màu xanh dương đang đi ra ngoài với một cái xô trong tay. Gerard ngửi thấy mùi thức ăn.

“Tôi đói quá,” nó nói.

Đứa bé quay lại. Nó nhìn quanh một chốc, rồi tiếp tục đi.

“Tôi muốn thức ăn,” Gerard nói. “Tôi đói lắm.”

Đứa nhỏ lại dừng chân. Nó lại nhìn quanh.

“Có chuyện gì vậy? Cậu không biết nói chuyện à?” Gerard nói.

“Có chứ,” thằng nhóc nói. “Bạn ở đâu vậy?”

“Ở đây.”

Thằng nhóc nhíu mắt. Nó bước đến chỗ hàng rào.

“Tên tôi là Gerard.”

“Không đùa đấy chứ! Mày nói được!”

“Thật là thú vị đối với cậu,” Gerard nói. Giờ thì nó ngửi cái xô được rõ hơn. Nó ngửi thấy mùi ngô và những loại ngũ cốc khác. Nó cũng ngửi thấy một thứ khác có mùi hôi. Nhưng cơn đói đã xâm chiếm toàn thân thể nó.

“Tôi muốn thức ăn.”

“Mày muốn loại nào?” thằng nhóc nói. Nó thọc tay vào xô và múc ra một muỗng thức ăn. “Mày ăn cái này không?”

Gerard cúi mình xuống, nếm muỗng thức ăn. Nó phun ra ngay tức thì. “Kinh quá!”

“Thức ăn cho gà đấy. Có sao đâu. Bọn nó ăn hoài mà.”

“Cậu có rau tươi không?”

Thằng nhóc cười phá lên. “Mày vui thật đấy. Mày nói giọng Anh. Tên mày là gì?”

“Gerard. Cam? Cậu có cam không?” Nó nôn nóng nhảy tới nhảy lui trên cọc rào. “Tôi thích ăn cam.”

“Sao mày nói chuyện giỏi vậy?”

“Tôi cũng có thể hỏi cậu câu đấy.”

“Mày biết sao không? Tao sẽ đem mày cho bố xem,” thằng nhóc nói. Nó đưa tay ra. “Mày được thuần hóa rồi phải không?”

“Tuyệt!” Gerard bước lên tay nó.

Thằng nhóc đặt Gerard trên vai. Nó cất bước quay trở lại tòa nhà gỗ. “Tao cá là bán mày đi sẽ được nhiều tiền lắm,” nó nói.

Gerard kêu một tiếng quác rồi bay lên nóc một tòa nhà.

“Ê! Quay lại đây!”

Từ trong nhà vọng ra một tiếng nói: “Jared, làm việc nhà đi!”

Gerard nhìn thằng nhóc miễn cưỡng quay lưng đi về phía cái sân đầy đất, tung từng nắm ngũ cốc trong xô ra khắp mặt đất. Một đàn chim lông vàng kêu cục cục và nhảy lên đón thức ăn được ném tới. Chúng trông ngu ngốc đến khó tin.

Rốt cuộc, phải một lúc sau Gerard mới quyết định ăn thứ thức ăn ấy. Nó bay xuống và kêu lên một tiếng quác lớn để xua lũ chim ngu ngốc đi, rồi bắt đầu ăn chỗ ngũ cốc của bọn chúng. Thứ thức ăn này có mùi thật kinh tởm, nhưng nó phải ăn cái gì đó. Trong khi đó thằng nhóc lao về phía nó, hai bàn tay mở rộng ra. Gerard bay lên, mổ mạnh vào mũi thằng nhóc - thằng nhóc thét lên - rồi sau đó Gerard thả mình xuống cách đó một quãng ngắn, để ăn tiếp. Lũ chim lông vàng lớn đang vây quanh nó.

“Lùi lại! Lùi lại! Tất cả bọn bay!”

Đám chim lông vàng hầu như chẳng để ý. Gerard phát ra tiếng còi hụ. Thằng nhóc lại lao đến, vồ hụt Gerard trong gang tấc. Nó rõ ràng là một thằng nhóc khờ khạo.

“Đang chao đảo! Đang chao đảo! 6.096 m, đang chao đảo! Tôi sẽ gạt cần về phía trước...” Sau đó là một tiếng nổ thé tai xé tan khoảng không. Đám gà chạy tán loạn, và như vậy Gerard có một chút khoảnh khắc yên tĩnh, để ăn chút ít.

Giờ thì thằng nhóc đã trở lại cùng một tấm lưới, nó đang quơ tấm lưới từ trên xuống dưới. Hành động ấy kích thích Gerard quá mức. Đang buồn nôn vì thứ thức ăn khủng khiếp ấy, nó liền vụt lên không trung, xua đuổi và mổ thằng nhóc một cú rõ đau ngay trên đầu, rồi bay vào khoảng tr i xanh thẳm để lên đường.

 

Hai mươi phút sau, trên không trung lạnh lẽo, nó đến bãi biển và bay dọc theo đường biển. Ở đây dễ dàng hơn, bởi có luồng không khí thổi từ dưới lên, một phúc lành đối với đôi cánh mỏi mệt của nó. Nó không thể bay lên cao, nhưng luồng gió vẫn có ích. Nó cảm nhận được một cảm giác yên tĩnh bình dị.

Ít ra thì, nó còn có được cảm giác đó cho đến khi một con chim trắng khổng lồ nào đó - lớn khủng khiếp, khổng lồ - chẳng nói chẳng rằng vụt từ dưới lên trúng nó, phụt ngang qua nó, tạo nên một luồng khí xoáy hỗn loạn làm nó chao đảo đến mất kiểm soát. Khi Gerard lấy lại thăng bằng, con chim đã lượn xa trên đôi cánh phẳng khổng lồ. Chỉ có một mắt duy nhất ngay giữa đầu con chim; con mắt lấp lánh trong ánh nắng. Và đôi cánh không bao giờ cử động; chúng lúc nào cũng thẳng và phẳng.

Gerard rất nhẹ nhõm khi biết chỉ có một con chứ không phải cả một bầy chim như vậy. Nó quan sát con chim lượn vòng về phía mặt đất bên dưới. Và ngay lúc đó nó để ý thấy cái ốc đảo xinh đẹp màu lục ấy ở giữa bãi biển khô khan. Một ốc đảo! Ốc đảo được xây ở một địa điểm có vô số tảng đá khổng lồ tạo thành cụm. Xung quanh những tảng đá là những cây cọ, những khu vườn thơm ngát và những tòa nhà xinh xắn náu mình giữa màu xanh của cây lá. Gerard cảm thấy chắc chắn sẽ có thức ăn ở đó. Một cảnh tượng hết sức gọi mời, nó bay xuống theo hình xoắn ốc.

 

Đây giống như là một giấc mơ vậy. Những con người xinh đẹp trong những bộ áo choàng trắng yên lặng bước xuyên qua một vườn hoa bụi, trong bóng cây mát rượi của đám cọ, giữa đủ loại chim chóc đang chuyền cành. Nó không ngửi thấy mùi thức ăn, nhưng nó chắc chắn ở đây phải có thức ăn.

Và rồi nó ngửi thấy - mùi cam! Cam cắt!

Một thoáng sau nó mới định vị được một con chim khác, xanh thẳm và đỏ rực, đậu trên một thanh đậu phía trên một cái khay bày nhiều cam. Cam, bơ, và nhiều mảnh rau diếp. Một cách thận trọng, Gerard đáp xuống cạnh con chim.

“Tôi muốn bạn muốn tôi,” nó nói.

“Xin-chào,” con chim xanh đỏ nói.

“Tôi cần bạn cần tôi.”

“Xin-chào.”

“Chỗ của bạn đây đẹp quá. Tôi tên là Gerard.”

“Aaa, có chuyện gì không bác sĩ?” con chim nói.

“Cho tôi lấy một trái cam nhé?”

“Xin-chào,” con chim nói. “Aaa, có chuyện gì không bác sĩ?”

“Tôi nói, tôi muốn ăn cam.”

“Xin-chào.”

Gerard mất kiên nhẫn. Nó nhắm vào trái cam. Con chim xanh đỏ hung dữ mổ vào nó; Gerard tránh được và vỗ cánh bay đi cùng trái cam trong miệng. Nó đậu trên một cành cây rồi nhìn lại. Chỉ lúc này nó mới thấy con chim kia đang bị xích vào cành đậu. Gerard thư thả ăn trái cam. Rồi nó bay lại đó để lấy thêm. Nó đến chỗ cành đậu của con chim từ đằng sau, rồi sau đó là từ bên cạnh. Nó bay vào một cách bất ngờ, mỗi lần như vậy đều tránh con chim chỉ biết nói, “Xin-chào!”

Nửa tiếng sau, nó đã thỏa mãn.

Trong khi đó, nó theo dõi những người trong bộ áo choàng trắng đến rồi đi, vừa bước vừa nói về NyQuil và Jell-O. Nó nói, “Jell-O, món tráng miệng đầy hương vị cho cả gia đình, giờ đây có bổ sung thêm calci-yum!” Hai trong số những người khoác áo choàng ấy nhìn lên. Một người cười. Rồi lại tiếp tục đi. Nơi đây thật an bình; dòng nước róc rách chảy giữa những dòng suối nhỏ bên cạnh lối đi. Nó sẽ ở lại đây, Gerard cảm thấy chắc chắn như vậy, ở lại trong một khoảng thời gian lâu thật lâu.

 

“OK, chúng ta hành động,” Vasco nói. Hai đứa nhỏ đang đi ra khỏi nhà Kendall. Một đứa đen đúa đội mũ lưỡi trai, hai chân như bị vòng kiềng. Đứa kia thì da nhạt, cũng đội mũ lưỡi trai. Hai đứa mặc quần kaki và áo thể thao.

“Trông như Jamie,” gã vừa nói vừa sang số xe.

Chúng lái xe chầm chậm về phía trước.

“Tôi không biết,” Dolly nói. “Trông không giống lắm.”

“Chính cái đứa đội mũ lưỡi trai ấy. Hỏi nó là biết,” Vasco nói.

Dolly hạ kính xe xuống. Ả nhoài người ra. “Jamie phải không cưng?”

Thằng bé quay lại. “Vâng ạ?” nó nói.

Dolly nhảy ra khỏi xe.

 

Henry Kendall đang làm việc trước máy vi tính để kích hoạt công nghệ TrackTech thì nghe thấy một tiếng thét lanh lảnh từ bên ngoài. Ngay lập tức anh biết đó chính là Dave. Anh lồng lên và chạy ra phía cửa. Sau lưng anh là Lynn, chạy ra từ bếp. Nhưng anh chú ý thấy Alex vẫn ở trong bếp, tay quàng quanh đứa con trai Jamie. Trông cô thật kinh hãi.

 

Dave không hiểu những gì nó chứng kiến. Jamie nói chuyện với người phụ nữ trong chiếc xe lớn màu trắng, rồi sau đó cô ta nhảy ra ngoài và chộp lấy anh ấy. Dave vốn không bao giờ tấn công phụ nữ, cho nên nó đứng nhìn người phụ nữ ấy nhấc bổng Jamie lên, mang anh ấy ra đằng sau chiếc xe màu trắng, rồi mở cửa sau ra. Bên trong xe, Dave thấy một người đàn ông mặc áo khoác trắng, và nó thấy nhiều thiết bị bóng loáng làm nó kinh sợ.

Jamie chắc cũng rất sợ, vì đột nhiên anh ấy thét lên rồi người phụ nữ đóng sập cửa sau xe lại.

Trước khi chiếc xe lăn bánh, Dave hét lên và nhảy lên phía sau xe, chộp lấy tay cầm trên cửa. Chiếc xe trắng tăng tốc về phía trước, chạy thật nhanh. Dave vừa bám chặt vừa cố gắng giữ thăng bằng. Khi đã nắm được chắc, nó kéo mình lên, để có thể nhìn vào bên trong xe qua cửa kính phía sau. Nó thấy người đàn ông áo khoác trắng và người phụ nữ ấy đẩy Jamie lên giường, loay hoay trói Jamie nằm xuống. Jamie đang gào thét.

Dave cảm thấy cơn thịnh nộ cuồn cuộn chảy qua cơ thể mình. Nó gầm gừ và đập mạnh cửa. Ng ười phụ nữ giật mình nhìn lên. Ả trông sửng sốt khi thấy Dave. Ả hét lên cái gì đó với tên tài xế.

Tên tài xế bắt đầu lái chệch chiếc xe màu trắng sang một bên. Dave bị hất tung về một bên, hầu như không thể nắm được tay nắm cửa ở chỗ lõm. Khi xe hất nó một lần nữa, nó với lên cao, chụp lấy mấy cái đèn trên cửa. Nó đu mình lên nóc xe cứu thương. Gió thổi mạnh. Bề mặt nóc trơn láng. Nó nằm sát xuống, nhích từng chút lên phía trước. Chiếc xe chạy thẳng trở lại, chậm hơn. Nó nghe có tiếng la hét bên trong xe.

Nó bò lên phía trước.

 

“Mình vuột mất nó rồi!” Dolly ngoái nhìn ra cửa sau hét lên.

“Chuyện gì vậy?”

“Trông như một con dã nhân!”

“Nó không phải là dã nhân; nó là bạn tôi!” Jamie vừa vùng vẫy vừa hét. “Nó đi học với tôi.”

Mũ lưỡi trai của thằng nhóc rơi xuống và Dolly thấy thằng bé có mái tóc màu nâu đậm. Ả nói, “Tên mày là gì?”

“Jamie. Jamie Kendall.”

“Ôi không,” ả nói.

“Chúa ơi,” Vasco vừa lái xe vừa nói. “Cô bắt nhầm à?”

“Nó nói tên nó là Jamie mà!”

“Nhầm người rồi. Chúa ơi, cô đúng là ngu đần, Dolly. Vậy là bắt cóc đấy.”

“Chậc, đâu phải lỗi tại tôi...”

“Cô nghĩ là lỗi của ai đây hả?”

“Anh cũng thấy đứa nhỏ mà.”

“Tôi không thấy...”

“Lúc nãy anh cũng nhìn ra ngoài cơ mà.”

“Chúa ơi, câm mồm đi. Đừng cãi nhau nữa. Mình phải đưa trả nó lại.”

“Ý anh là sao?”

“Mình phải đưa nó trở lại chỗ mình thấy nó. Đây đúng là bắt cóc rồi còn gì.”

Sau đó Vasco văng tục, rồi hét lên.

 

Dave đang nằm trên nóc xe, kẹp giữa thanh đèn hiệu và mặt dốc của xe cứu thương. Nó nghiêng mình về phía ghế tài xế. Ở đó có một chiếc gương mặt bên lớn. Nó thấy một người đàn ông xấu xí có râu quai nón đen, vừa lái xe vừa la hét. Nó biết người đàn ông sẽ làm hại Jamie. Nó thấy người đàn ông đang nhe răng biểu lộ sự giận dữ.

Dave nghiêng mình xuống, để trọng lượng cơ thể nằm trên chiếc gương, rồi quơ cánh tay vào trong qua cửa xe đang mở. Những ngón tay mạnh mẽ của nó chộp trúng mũi gã râu quai nón, và gã hét lên rồi giật đầu ra. Những ngón tay của Dave trượt đi, nhưng nó thu mình về và cắn mạnh vào tai gã đàn ông và ngậm chặt. Gã đàn ông gào thét trong thịnh nộ. Dave cảm nhận được cơn thịnh nộ ấy, nhưng trong nó cũng đã có bao nhiêu là thịnh nộ rồi. Nó kéo mạnh, và cảm thấy cái tai sứt cùng với máu nóng phun ra.

Gã đàn ông thét lên và xoay bánh lái.

 

Chiếc xe cứu thương chao đảo, hai bánh bên trái nhấc khỏi mặt đất, rồi cả xe chầm chậm lật nhào và bên hông phải xe đổ sầm xuống đất. Tiếng kim loại rít lên đến đinh tai nhức óc. Lúc xe nghiêng, Dave còn đang nằm trên xe, nhưng sau cú va chạm, nó mất lực bám. Hai chân va mạnh vào mặt gã đàn ông râu quai nón và một trong những chiếc giày của nó đi thẳng vào miệng gã. Chiếc xe trượt trên đường rồi dừng hẳn. Gã đàn ông đang cắn giày và ho hắng. Người phụ nữ bên trong đang gào thét. Dave rút chân khỏi giày, để lại chiếc giày trong miệng gã đàn ông râu quai nón. Máu phun ra khắp nơi từ tai gã.

Nó giựt nốt chiếc giày còn lại ra, lon ton chạy ra phía sau xe cứu thương, và lấy hết sức mở cửa. Người đàn ông áo khoác trắng đang nằm nghiêng, máu miệng đang chảy. Jamie nằm dưới gã, miệng không ngớt kêu la. Dave lôi người đàn ông áo khoác trắng ra khỏi xe, thả hắn xuống đường. Rồi nó đi tới chỗ Jamie, đặt Jamie lên lưng và mang Jamie chạy về căn nhà của họ.

Jamie nói, “Em có bị thương không?”

Cái tai vẫn còn trong miệng Dave. Nó nhả cái tai vào tay mình. “Không.”

“Cái gì trong tay em vậy?”

Dave mở nắm tay ra. “Một cái tai.”

“Ặc, í ẹ!”

“Em cắn tai hắn. Hắn là người xấu. Hắn làm hại anh.”

“Ặc!”

Phía trước mặt, bọn trẻ thấy mọi người đang đứng ngoài bãi cỏ trước nhà. Henry và Lynn và những người khác nữa. Dave đặt Jamie xuống đất, rồi nó chạy tới chỗ bố mẹ Jamie. Dave chờ mẹ, Lynn, hỏi han nhưng cô lại hoàn toàn chú tâm vào Jamie. Điều này khiến nó buồn. Nó đánh rơi cái tai trong tay xuống đất. Mọi người đều đi vòng quanh nó, nhưng không ai chạm vào nó, không ai đặt ngón tay vào bộ lông của nó.

Nó thấy càng lúc càng tủi.

Rồi nó thấy một chiếc xe hình hộp màu đen đang lao trên đường về phía họ. Chiếc xe khổng lồ, cao khỏi mặt đất, và chạy tới ngay chỗ bãi cỏ.

Hết phần 85. Mời các bạn đón đọc phần 86!

Nguồn: truyen8.mobi/t36888-the-gioi-nghich-phan-80-85.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận