Thiên Môn Công Tử Chương 6


Chương 6
Trốn ngục.

Buổi sáng hôm sau, cái chết bất ngờ của Đầu Sẹo nhanh chóng bị ngục tốt phát hiện, kiểm tra thi thể chỉ thấy một vết tụ máu trước ngực, ngoài ra không có vết ngoại thương nào rõ rệt. Ngục tốt cũng là tay lão luyện, vừa nhìn liền biết ngay đã xảy ra chuyện gì, lập tức đòi truy cứu hung thủ, kết quả tất cả tù nhân trong lán đều thừa nhận là mình đã làm. Giờ đang là thời điểm rất cần lao động, bọn ngục tốt cũng không tiện trừng phạt tất cả, đành vung roi đánh loạn mấy cái, sau đó bọc thi thể của Đầu Sẹo lại đem đi chôn qua loa.

Sau khi các bạn tù xuống hầm mỏ, trong lán chỉ còn lại Vân gia và Lạc Văn Giai được cho nghỉ dưỡng thương ba ngày. Tới lúc ấy, Lạc Văn Giai mới báo qua lại với Vân gia những gì đã làm trong vụ loại bỏ Đầu Sẹo. Cuối cùng gã có chút đắc ý thì thầm hỏi: “Sư phụ, lần này đệ tử làm thế nào?”

Vân gia hừm một tiếng lạnh lùng: “Lần này cứ coi như là ngươi mệnh lớn, có thể chuyển bại thành thắng. Nhưng lão phu muốn xem xem ngươi làm thế nào để thực hiện lời hứa với Nghiêm Lạc Vọng. Ngươi đừng tưởng Nghiêm Lạc Vọng là hạng thiện nam tín nữ gì, các phạm nhân đều gọi sau lưng hắn là Diêm La Vương đấy. Ngươi dám nuốt lời, chắc chắn sẽ chết còn đau khổ hơn Đầu Sẹo nữa.”

“Đa tạ sư phụ nhắc nhở, đệ tử đã có tính toán rồi.” Lạc Văn Giai dường như không hề lo lắng. Thiếu một tên Đầu Sẹo ăn nhiều làm ít mọi người đều có thể ăn no hơn một chút, nếu phân công hợp tác, gã hoàn toàn tự tin có thể làm tốt hơn Đầu Sẹo nhiều.

Ngày hôm sau, tuy vết thương còn chưa liền miệng song Lạc Văn Giai vẫn gượng xuống hầm mỏ, phân công đám tù khổ sai thành hai nhóm. Người già yếu bệnh tật phụ trách xúc quặng vào gùi, những người trẻ khỏe phụ trách vận chuyển, đồng thời dành một khoảng thời gian nhất định để nghỉ ngơi. Biện pháp phân công lao động này quả nhiên đã khiến cho năng suất nâng lên rất nhiều. Đến giờ cơm trưa, mọi người đều được phát nhiều thức ăn hơn trước, ai nấy đều càng thêm bái phục Lạc Văn Giai. Tuy vẫn phải làm như trâu như ngựa, nhưng không bị Đầu Sẹo ra uy bằng roi vọt, tâm trạng của đám tù khổ sai thoải mái hơn rất nhiều. Do cùng hưởng lương thực được phát, nên những người lười đều lo lắng bị bạn tù trách móc, điều này còn có hiệu quả hơn đòn roi của Đầu Sẹo nhiều lần.

Mấy hôm sau, lượng khoáng sản của ngục Bính quả nhiên tăng lên rất nhiều, đám ngục tốt cũng ngầm nhận ra được Lạc Văn Giai là đầu ngục mới. Song Lạc Văn Giai không hề để tâm đến những thành tựu ban đầu đó, gã lại đang bắt đầu tính toán làm thế nào mới có thể dẫn các huynh đệ chạy trốn khỏi cái chốn chẳng khác nào địa ngục này.

Nửa năm trôi qua trong nháy mắt, Lạc Văn Giai dựa vào những “cống hiến” về mặt nâng cao hiệu quả khai thác quặng, nên không những đã ngồi vững trên ngôi vị ngục đầu còn mang lại cho huynh đệ mình những đãi ngộ mà trước đó chưa bao giờ có được, đồng thời cũng được đám ngục tốt tín nhiệm nên không bị quản thúc một cách nghiêm ngặt. Điều này khiến gã ngoài những lúc đi làm dưới hầm mỏ ra còn có thời gian học ở Vân gia các loại tuyệt kỹ của Thiên Môn. Dưới sự dìu dắt hết lòng của lão, Lạc Văn Giai dần thoát thai hoán cốt, không còn là gã thư sinh yếu đuối ngây thơ Lạc Văn Giai như buổi ban đầu nữa.

Ngày qua ngày, công việc vẫn cứ tiếp tục. Một hôm, cũng như bao ngày thường khác, Lạc Văn Giai dẫn mọi người đi vào hầm mỏ. Cùng với việc khai thác, hầm mỏ đã kéo dài ăn sâu vào trong lòng núi cả hàng trăm trượng. Phía trên đường hầm được chống bằng cọc gỗ, nhưng do nhiều năm chưa sửa chữa nên không còn chắc chắn, không ít chỗ đã lỏng ra, Lạc Văn Giai đã nhiều lần phản ánh chuyện đó với lính canh và quan ngục, nhưng lần nào cũng bị mắng là lo bò trắng răng. Vì thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực này nên Lạc Văn Giai không hề ý thức được sự nghiêm trọng của vấn đề, lại càng không biết được là nguy hiểm đang từ từ giáng xuống đầu bọn họ.

Một thứ âm thanh khác thường lờ mờ vang lên trong hầm mỏ, truyền đến tai các tù nhân đang lao động, mọi người dừng tay lắng tai nghe, chỉ thấy tiếng động càng ngày càng to, ầm ầm như sấm. Không biết ai đó hét lên: “Sập hầm rồi!” Cả bọn liền vứt công cụ, trèo về phía cửa hầm mỏ.

“Huynh đệ chạy mau!” Trong lúc hỗn loạn có người kéo lấy tay Lạc Văn Giai đang hoảng hồn không biết làm sao, chẳng nói chẳng rằng lôi chạy một mạch. Lạc Văn Giai tấp ta tấp tểnh theo đối phương ra khỏi hầm, dọc dường thấy vô số đất đá phía trên rơi xuống rào rào, bụi cát mù mịt, khiến người ta chẳng nhìn được, chỉ nghe thấy tiếng những cây gỗ chống nóc hầm kêu “răng rắc” không ngừng rồi gãy ra rơi xuống.

Khi Lạc Văn Giai được lôi ra khỏi cửa hầm, gã mới biết người cứu mình là nghĩa huynh Vương Chí. Hai người cùng với mấy huynh đệ khác vừa phi qua cửa hầm thì nghe thấy tiếng hầm mỏ sập xuống, và tiếng kêu thảm thiết của những người không kịp chạy thoát văng vẳng truyền ra..

“Mau cứu người!” Lạc Văn Giai hét lên định lao vào hầm mỏ bụi đất mù mịt thì bị Vương Chí túm lấy.

“Cậu điên sao?” Vương Chí ôm chặt lấy Lạc Văn Giai. “Bây giờ không ai có thể cứu nổi họ, chỉ có thể đợi khi hầm hoàn toàn sập xuống, chúng ta mới nghĩ cách được.”

Quan ngục Nghiêm Lạc Vọng cũng dẫn thợ thuyền tới hiện trường tai nạn, chờ đến khi tiếng sập hầm dần tắt hẳn, một tên ngục tốt lấy hết can đảm dẫn theo hai tay thợ vào hầm kiểm tra, một lúc sau lại thấy ba người đi ra, thất vọng lắc đầu với Nghiêm Lạc Vọng. Nghiêm Lạc Vọng lập tức vẫy tay lệnh cho mấy tên ngục tốt đã chuẩn bị sẵn bên cạnh: “Bịt cửa hầm.”

“Cái gì?” Lạc Văn Giai trong lòng như lửa đốt nhìn thấy đám ngục tốt chỉ huy tù khổ sai định lấp đất vào miệng hầm mỏ, vội bất chấp người khác cản trở, bổ đến trước mặt Nghiêm Lạc Vọng, “Các huynh đệ của tôi vẫn còn ở dưới đó, đại nhân mau hạ lệnh cho đào thông vào cửa hầm để cứu họ ra đi!”

“Là ngươi thông thạo hay bản quan thông thạo? Nếu có thể dễ dàng đào được qua chỗ sập, lẽ nào bản quan lại muốn bỏ chỗ máng khoáng này?” Nghiêm Lạc Vọng bực tức trợn mắt nhìn Lạc Văn Giai rồi quay đầu gọi thuộc hạ: “Còn đứng ngây ra đấy làm gì? Lấp đất!”

“Khốn kiếp!” Mệnh lệnh tàn nhẫn của Nghiêm Lạc Vọng đã kích động cơn giận dữ của Lạc Văn Giai, gã căm giận bổ nhào về phía viên quan ngục, liền bị hai tên ngục tốt quật ngã lăn ra đất. Gã lảo đảo bò dậy vẫn muốn nhào tới, liền Vương Chí ngăn lại nói: “Huynh đệ, ở khu hầm mỏ này thường xuyên xảy ra chuyện như vậy, chẳng ai làm gì được cả.”

“Nhưng họ là huynh đệ của chúng ta!” Lạc Văn Giai hai mắt vằn lên những tia máu đầy tức giận nhìn Vương Chí. “Chúng ta có thể nhìn họ bị chôn sống như thế sao?” Lạc Văn Giai nói đoạn, liền nhặt lấy một cái xẻng. “Mau cùng đệ đi cứu người!”

Chỉ có vài tù nhân thoát ra khỏi hầm mỏ, vẫn còn chưa hoàn hồn, nhưng trước lời hiệu triệu của Lạc Văn Giai, họ cũng nhặt lấy công cụ chạy theo gã về phía cửa hầm. Lạc Văn Giai chạy trước, vừa đến cửa hầm thì khựng lại, đột nhiên bị một người đứng chặn lối đi, không đợi Lạc Văn Giai nhìn rõ là ai, người này đã giáng vào mặt gã một quyền thật mạnh.

Lạc Văn Giai bị đánh cho choáng váng, ôm mặt kinh hãi kêu: “Vân gia!”

Vân gia tức giận nhìn gã, hạ giọng mắng: “Ngươi muốn làm anh hùng hay thiên hùng?

Lạc Văn Giai ngẩn ra, sực nhớ lại những lời Vân gia đã dạy: Thiên hùng và anh hùng tuy chỉ khác nhau một chữ, nhưng cách thức hành sự lại khác nhau hoàn toàn về bản chất. Anh hùng lúc nào cũng sẵn sàng hiến dâng cuộc sống của mình, còn thiên hùng, họ có thể thua bất cứ thứ gì, nhưng mạng mình thì không thể mất được! Đúng như câu, ta thà phụ người trong thiên hạ, chớ để người trong thiên hạ phụ ta. Nghĩ đến đây toàn thân gã chợt mềm nhũn ra, từ từ khuỵu xuống, tuyệt vọng nhìn đám ngục tốt dùng roi thúc giục tù nhân lấp đất vào miệng hầm. Gã không kìm được, ngẩng đầu lên trời thở dài, rồi uất hận công tâm và mệt mỏi quá độ mà ngất đi.

Khi lờ mờ tỉnh lại, Lạc Văn Giai thấy mình đang nằm trên phản, ngoài cửa tối đen như mực, thì ra đã đến nửa đêm. Gã cũng bất ngờ nhận ra, trong chiếc lán quen thuộc không còn tiếng ngáy đều đặn hằng ngày, mà yên tĩnh cô liêu đến mức làm người ta khiếp sợ. Đưa mắt nhìn xung quanh, ngoài huynh đệ kết nghĩa Vương Chí ra thì trống rỗng không thấy một hình dáng thân quen nào khác.

Một lúc lâu, Lạc Văn Giai mới nhớ lại những chuyện đã xảy ra ngày hôm đó, gã bất giác vùng lên xuống khỏi phản, đột nhiên nhận ra cả chỗ nằm của Vân gia cũng trống trơn. Ánh trăng lạnh lẽo chiếu qua khe cửa hở tạo thành một vệt sáng leo lét trên nền đất. Lạc Văn Giai hồn xiêu phách lạc đi đến chỗ cánh cửa, tay vừa vịn vào thì cửa đã theo đó mở ra, không biết từ khi nào, khóa ngoài đã bị bẻ gãy.

Bên ngoài lạnh lẽo không một bóng người, đám ngục tốt tuần đêm không biết có phải là đã trốn vào xó xỉnh nào tránh gió hay không, bốn bề ngoài tiếng gió sa mạc rít gào không nghe thấy một âm thanh nào khác. Lạc Văn Giai vẫn nhớ đến những đám bạn tù bị chôn sâu dưới hầm mỏ, gã chẳng nghĩ ngợi gì đã trèo lên trên sườn núi chỗ hầm mỏ cũ.

Loạng choạng đi đến trước cửa hầm, chỉ thấy đã bị lấp chặt, không còn hình dáng ban đầu đâu nữa. Lạc Văn Giai trong lòng nhói đau, bổ nhào đến trước cửa hầm, tuy biết rõ với sức gã không có cách nào cứu được người, nhưng gã vẫn không thể cầm lòng được, nhặt một cái xẻng bị vứt ở đó thục mạng đào bới. Mới đào được mấy cái, xẻng đã gãy lìa, Lạc Văn Giai liền dùng tay không bới, chỉ có như vậy gã mới tạm thời nguôi ngoai bớt đau thương trong lòng mình.

Không biết bới được bao lâu thì Lạc Văn Giai cũng sức cùng lực kiệt nằm vật ra đất, mười đầu ngón tay rớm máu, móng tay cơ hồ gãy hết, song gã hoàn toàn không cảm thấy đau đớn, có lẽ cùng cực của đau thương chính là tê dại.

Trong gió truyền lại tiếng người nói loáng thoáng, thu hút sự chú ý của Lạc Văn Giai. Gã nghiêng tai lắng nghe, âm thanh dường như rất mờ mịt, chỉ bởi gã đứng ở chỗ cuối ngọn gió, nên cơn gió mới mang theo tiếng người mang máng quen thuộc ấy. Lạc Văn Giai đứng lắng nghe một lúc rồi chầm chậm bò về phía tiếng âm thanh đó phát ra.

Bò qua một chỗ cao, nhờ ánh trăng lành lạnh trên bầu không tỏa xuống, Lạc Văn Giai cuối cùng cũng nhìn rõ hai người đang nói chuyện. Một người dáng cao gầy, tuy mặc áo phạm nhân nhưng vẫn không thể làm lu mờ khí chất phiêu dật tiêu sái, chính là Vân gia vừa biến mất khỏi lán tù. Còn người đứng trước mặt lão thì lại là một người đàn bà yểu điệu khoác áo choàng màu xanh da trời, trên mặt che một tấm khăn mỏng màu trắng chỉ để lộ đôi mắt, tuy ánh trăng mông lung mờ mịt, nhưng đôi mắt phượng vẫn sáng như sao, thấp thoáng lộ vẻ phong lưu đa tình. Hai người đứng cách nhau chưa đến một trượng, dường như có thể với tay đến nhau, nhưng lại vẫn cố giữ khoảng cách cuối cùng ấy.

“Sư huynh,” chỉ nghe nữ nhân ấy thở dài u oán, “không ngờ huynh lại có thể từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, đến ẩn náu ở chốn lao tù rời xa Trung Nguyên này, làm tiểu muội đi tìm thật cực khổ.”

“Là ngu huynh không tốt,” Vân gia ảm đạm nói, “huynh còn nhớ sư muội xưa nay luôn là cành vàng lá ngọc được nuông chiều nhất mực, chưa từng chịu khổ bao giờ, không ngờ hôm nay lại đến cái chốn hoang vu hẻo lánh này tìm huynh, thật khiến Vân Tiếu Phong ta cảm động muôn phần. Ngày hôm nay có thể gặp lại sư muội một lần, đời này kiếp này ngu huynh thực không còn có mong muốn gì hơn nữa rồi.”

Nữ nhân đó cười chua chát: “Sư huynh, chúng ta trở nên khách sáo như vậy từ khi nào thế? Mấy năm không gặp, lẽ nào hai chúng ta đã trở thành người xa lạ như vậy sao?”

“Sư muội...”

“Muội nhớ trước đây, huynh luôn gọi muội là A Nhu.”

“A Nhu!” Giọng Vân gia khàn đục, nét mặt xúc động, dường như đã không thể tự chủ được nữa.

“Tiếu Phong!” Nữ nhân ấy ánh mắt long lanh, chầm chậm đưa một bàn tay mềm mại như ngọc về phía Vân gia, “lại ôm A Nhu đi.”

Vân gia toàn thân run rẩy, không cầm nổi vươn tay nắm chặt tay nữ nhân ấy, khoảng cách giữa hai người mỗi lúc một ngắn hơn, cuối cùng ôm chặt lấy nhau. Một đám mây trôi ngang bầu trời, che khuất mặt trăng, lập tức khiến ánh trăng mờ đi. Dưới ánh trăng mông lung đó, hai người từ từ biến thành một hình bóng mờ mờ tĩnh lặng. Lạc Văn Giai nhìn dáng hai người, chợt cảm thấy ánh trăng đêm nay thật đẹp vô cùng. Gã ngưỡng mộ ngoảnh mặt đi, không muốn tiếp tục nhìn trộm hạnh phúc của hai người, chỉ cúi nấp sau tảng đá chắn gió, thầm nghĩ xem mình có nên lặng lẽ rời đi để tránh cho Vân gia khỏi khó xử.

Chờ thêm một lúc nữa, Lạc Văn Giai lại lén nhìn hai người thêm một lần cuối cùng, thì thấy tư thế của họ vẫn không có gì thay đổi, vẫn lặng lẽ ôm chặt lấy nhau như thế. Gã đang định bỏ đi thì chợt cảm thấy có gì kỳ lạ. Hai người ôm nhau hình như hơi quá lâu, đồng thời, Lạc Văn Giai còn nghe thấy tiếng hơi thở của họ, dần dần trở nên gấp gáp hơn, giống các tù khổ sai khi làm việc nặng không tự chủ được mà thở dốc hồng hộc. Tuy không có kinh nghiệm nhưng gã vẫn nhận ra kiểu hít thở gấp gáp này vốn không liên quan gì đến chuyện tình cảm nam nữ.

Lạc Văn Giai bèn quay đầu nhìn kỹ lại, thấy hai thân thể đang ôm chặt lấy nhau đó hơi run rẩy, nếu không phải có tiếng thở hổn hển nặng nề như trâu của Vân gia, Lạc Văn Giai ắt hẳn đã nghĩ đây là phản ứng tự nhiên khi tâm thần bị kích động.

“Á!” Hai người đột nhiên cùng kêu lên rồi tách nhau ra, chỉ thấy thân hình người đàn bà kia lảo đảo như muốn ngã, một vệt máu tươi bất ngờ trào ra từ khóe miệng loang trên tấm mạng che, đỏ rực cả mắt. Mặt Vân gia lại trắng bệch, râu tóc đều run rẩy nhè nhẹ. Hai người đứng lặng trong giây lát, hơi thở Vân gia dần lắng xuống. Lúc ấy lão mới thản nhiên nói: “A Nhu, không ngờ muội đã luyện được Tiêu Hồn Thực Cốt công.”

“Đáng tiếc là vẫn không làm gì được Thiên Cổ Phong Lưu của huynh.” Nữ nhân đó cười tiếc nuối, vuốt lại tóc mai hơi rối. “Sư huynh đừng trách A Nhu, tuy A Nhu hiểu tấm chân tình của sư huynh, song biết làm sao khi trái tim muội đã bị người khác chiếm giữ rồi. Người đó muốn muội sống thì muội sống, người đó muốn muội chết thì muội chết, muốn muội đi lấy mạng của sư huynh, A Nhu liền không chút do dự đáp ứng ngay. Mặc dù biết điều đó thật không công bằng với huynh, nhưng thân A Nhu đã không còn của chính mình nữa rồi, chỉ có thể chờ đến kiếp sau báo đáp lại mối tình si của huynh. Đáng tiếc là sư huynh sẽ không hiểu được tình cảm trong lòng A Nhu đâu.”

“Huynh hiểu!” Vân gia đau khổ cúi đầu, ủ rũ thở dài. “Uổng cho Vân Tiếu Phong ta thân là Môn chủ Thiên Môn, cuối cùng vẫn không bằng người đó, hắn ta mới thật sự là thiên hùng chân chính.”

“Sư huynh đã hiểu được tình cảm trong lòng A Nhu, tại sao vừa nãy không thoải mái ngủ vĩnh viễn trong vòng tay muội đi?” Nữ nhân nhoẻn miệng cười tươi tắn. “Xem ra tình cảm của sư huynh đối với muội vẫn chưa tới mức quên mình xả thân, A Nhu cảm thấy mình thật là thất bại.”

Vân gia cười thê thảm, chầm chậm đưa tay về phía tay nữ nhân kia: “A Nhu, cho ta nếm lại Tiêu Hồn Thực Cốt công của muội lần nữa, đời này ta có chết cũng không còn gì hối hận nữa rồi!”

“Sư huynh lại gạt muội rồi!” Nữ nhân kia đột nhiên nhảy lùi mấy bước, cười khanh khách. “Không ngờ sư huynh cũng dùng cả Thiên thuật với muội, A Nhu sẽ không mắc mưu đâu.” Nói đoạn thân hình bà ta lắc khẽ một cái, trong chớp mắt đã ở ngoài xa mười trượng, giọng nói yêu kiều nũng nịu từ xa vọng lại: “A Nhu sẽ khiến sư huynh chết một cách dễ chịu nhất, nhưng phải chờ đến lần sau.”

Đến khi bóng dáng nữ nhân kia hoàn toàn biến mất trong sa mạc mênh mông, thân hình Vân gia mới run lên, từ từ khuỵu xuống đất. Lạc Văn Giai thấy vậy, không thể chần chừ thêm được nữa, vội chạy ra khỏi chỗ nấp, cuống cuồng đến đỡ lấy Vân gia, thì thấy mặt lão trắng bạch, máu tươi phun ra nơi miệng, làm ướt cả áo.

“Sư phụ!” Lạc Văn Giai sợ đến chân tay bủn rủn, vội vã đỡ lão ngồi tựa vào một tảng đá. “Sư phụ, người sao rồi?”

“Ta, không xong rồi.” Vân gia u ám nhìn lên bầu trời, lẩm bẩm than. “Vân Tiếu Phong ta đường đường là Môn chủ Thiên Môn, vậy mà thủy chung cũng không qua nổi ải chữ ‘Tình’. Biết rõ trái tim A Nhu đối với ta như sắt đá mà vẫn cứ như thiêu thân lao vào lửa, cuối cùng bị thương bởi Tiêu Quỷ Thực Cốt công của muội ấy. Nếu không phải trong lòng A Nhu còn điều e ngại, thì lão phu đây anh minh cả đời ắt hẳn đã bị chôn thây ở đây rồi.”

“Sư phụ chớ nên chán nản,” Lạc Văn Giai vội cởi áo của Vân Tiếu Phong, tay run run lấy lọ thuốc trong ngực áo lão. “Chẳng phải sư phụ có thánh dược trị thương sao? Mau nói cho con biết phải dùng loại nào?”

“Ngươi đừng tốn công vô ích nữa làm gì,” Vân Tiếu Phong cười buồn bã. “Thế gian này không có thần dược nào vạn năng cả, vết thương của sư phụ thế nào, tự ta là người biết rõ nhất.”

“Sư phụ...”

“Ngươi không cần phải buồn, lão phu từ khi liên tiếp thất bại dưới tay tiểu tử ấy, bị buộc đến chốn sa mạc biên ải xa xôi này kéo dài cuộc sống tàn tạ, từ lâu đã cảm thấy không còn hứng thú với cuộc đời này nữa. Đến nay có thể chết dưới Tiêu Quỷ Thực Cốt công của A Nhu, âu cũng là sự giải thoát. Chỉ tiếc là vi sư không thể bồi dưỡng ngươi được nữa.”

“Sư phụ, người đó là ai?” Trong mắt Lạc Văn Giai chợt ánh lên một tia sáng khiếp người.

“Chớ nên nghĩ đến việc trả thù cho ta, ngươi căn bản không phải đối thủ của hắn.” Trong đôi mắt ảm đạm của Vân gia ánh lên vẻ vừa uất hận lại vừa khâm phục. “Tuy hắn là sư đệ của lão phu, nhưng khả năng tính toán mưu lược lại vượt xa Môn chủ như ta. Chỉ trách tại lão phu suốt ngày mê muội trong võ thuật, tuy luyện thành võ công cái thế, nhưng lại đã phân tán tinh lực, không quan tâm đúng mực đến mật kỹ thực sự của bản môn. Còn hắn lại trái ngược, không quan tâm đến võ công, chỉ tập trung trí tuệ vào mưu lược, kế sách, khổ công nghiên cứu yếu điểm của con người. Đến như A Nhu vô cùng thông minh kiêu ngạo lại cũng hết lòng đối với hắn, không dám làm trái, từ đó có thể thấy sự nghiền ngẫm của lão về tính cách con người đã đạt đến mức thấu suốt rồi. Mặc dù cuối cùng lão phu cũng chết trong tay hắn, nhưng cũng lại không thể không khâm phục hắn được. Hắn mới thật sự là thiên hùng thời nay.”

“Lão rốt cuộc là ai? Vì sao lại muốn truy sát sư phụ đến mức người đã bỏ đến nơi sa mạc hoang vu này mà vẫn không tha?” Lạc Văn Giai nghiến răng, gặng hỏi.

“Tên hắn là Cận Vô Song, song cái tên này ngoài ta và sư muội ra sợ rằng chẳng mấy người biết được.” Vân Tiếu Phong nói đoạn lại chỉ vào cái túi trước ngực. “Hắn ta vì cái này, ngày nào chưa đoạt được nó thì ngày đó hắn chưa cam tâm.”

“Là gì?” Lạc Văn Giai lấy trong ngực áo nơi Vân Tiếu Phong chỉ một bọc gấm vuông vuông, mở lớp gấm bọc bên ngoài ra, bốn chữ đại tự quen thuộc ngay lập tức đập vào mắt gã.

Thiên Môn Mật Điển, tương truyền chính là do thủy tổ của Thiên Môn Đại Vũ viết ra, có được thì có thể mưu thiên hạ!” Mắt Vân gia sáng bừng lên. “Nó đời đời được Môn chủ Thiên Môn lưu truyền, không ít các vị tiền bối đã dựa vào đó mà hô mưa gọi gió trong lịch sử, thay triều đổi đại. Chỉ tiếc khi truyền đến đời lão phu, bí mật của nó đã bị thời gian mai một, tất cả chỉ còn lại một bộ sách da dê không biết nói này thôi. Lão phu khổ công nghiên cứu, vẫn không khám phá được sự huyền bí bên trong ấy, đành nuối tiếc cả đời vậy.”

Lạc Văn Giai bán tín bán nghi thuận tay mở trang đầu, câu đề tựa khi xưa đã gây ấn tượng đặc biệt với gã lập tức đập vào mắt, gã còn muốn lật tiếp thì chợt nghe Vân gia lạnh lùng nói: “Thiên Môn Mật Điển, kẻ nào tự ý xem phải khoét mắt cắt lưỡi!”

Lạc Văn Giai sợ giật bắn người, vội vàng khép quyển sách lại, đang định xin tha, bỗng thấy lão cười bảo: “Nhưng nếu là Thiên Môn Môn chủ thì có thể tùy ý.” Nói đoạn, lão tháo ở ngón tay ra một chiếc nhẫn ngọc trắng cũ kỹ, đưa lên trước mặt Lạc Văn Giai. “Đệ tử Thiên Môn Lạc Văn Giai quỳ xuống!”

Lạc Văn Giai không hiểu gì, y lời quỳ xuống, chỉ thấy khuôn mặt xám xịt của Vân Tiếu Phong trở nên nghiêm nghị khác thường. “Ta, Vân Tiếu Phong, Môn chủ Thiên Môn đời thứ một trăm ba mươi mốt, nay truyền lại cho đệ tử Lạc Văn Giai Thiên Môn Mật Điển và nhẫn bảo thạch đại biểu cho thân phận Môn chủ bản môn. Từ nay, ngươi chính là Môn chủ Thiên Môn đời thứ một trăm ba mươi hai.”

Lạc Văn Giai hết sức kinh ngạc, “Con, con... Đệ tử ngu muội, sợ rằng không đảm đương nổi trọng trách.”

“Ngu muội cái gì? Ngươi bớt làm ra vẻ ra dáng thoái thác kiểu ấy nữa đi.” Vân gia không vui trợn mắt nhìn Lạc Văn Giai. “Ngươi tuy chưa thể được xem là cao thủ Thiên Môn, nhưng lão phu biết ngươi có tiềm chất trở thành thiên hùng. Bản môn không dựa vào trung nghĩa để truyền thừa, ngôi Môn chủ phải dựa vào năng lực mà ngồi lên. Ngươi nhận lấy chiếc nhẫn này, không phải tự dưng là có được quyền thế lớn, ngược lại còn sẽ trở thành mục tiêu của vô số người. Nếu như không thể dựa vào thủ đoạn của mình thu phục đồng môn, thì cái chức Môn chủ này sợ rằng cũng chẳng được lâu. Nếu để đến nước ấy, chi bằng bây giờ ngươi mang mật điển cùng chiếc nhẫn này dâng hết cho Cận Vô Song, để ta chết khỏi nhắm mắt luôn đi.”

Lạc Văn Giai tuy không muốn làm Môn chủ, nhưng cũng không muốn để những thứ này rơi vào tay tên gian tặc đã hại chết sư phụ mình. Lưỡng lự một lúc, cuối cùng gã cũng nhận lấy chiếc nhẫn, cúi lạy Vân Tiếu Phong một lạy: “Đệ tử nghe lệnh, nhất định không để sư phụ ôm hận cả đời.”

Vân gia hài lòng gật gật đầu rồi bất ngờ đẩy Lạc Văn Giai ra. “Ngươi phải rời khỏi nơi này ngay! A Nhu có thể tìm ra chỗ này, xung quanh đây tuyệt đối không chỉ có mình muội ấy, hơn nữa trước khi trời sáng nàng ta nhất định sẽ trở lại. Ngươi quyết không thể để nàng ta phát hiện ra mối quan hệ giữa chúng ta, phải lập tức trốn khỏi nơi này. Khi chưa thực sự trở thành cao thủ Thiên Môn, chưa tích lũy đủ sức mạnh, ngươi quyết không thể để bọn chúng biết được sự tồn tại của mình. Lão phu hy vọng ngươi trở thành thiên hùng chứ không phải anh hùng. Làm thiên hùng, có thể thua bất cứ cái gì, duy chỉ có tính mạng là không thể thua được, nhớ kỹ đấy!”

“Đệ tử tuân mệnh.” Nét mặt Lạc Văn Giai thoáng lộ vẻ khó xử. “Nhưng, con phải làm sao mới có thể trốn khỏi nơi này?”

Nét mặt Vân gia thoáng hiện lên chút đắc ý: “Quan ngục Nghiêm Lạc Vọng từng được ta chỉ cho cách biến của cải của triều đình làm của riêng một cách an toàn, ta đã nắm được yếu điểm của hắn. Ngươi cầm chiếc nhẫn này đến gặp hắn, chỉ cần hắn vẫn chưa biết ta ở đâu thì sẽ không dám làm khó dễ ngươi, chắc chắn sẽ để ngươi đi an toàn.”

“Đệ tử nhớ rồi.” Lạc Văn Giai vội đáp.

Vân gia lại bảo: “Ngươi không biết võ công, đó là 7b71 chỗ thiếu sót, đồng thời cũng là điểm mạnh của ngươi. Võ công trong thiên hạ nhiều như lông trâu, rất nhiều loại võ công cao thâm dù có hy sinh cả đời nghiên cứu cũng khó đạt được cảnh giới cao nhất. Thay vì phí thời gian và tinh lực vào nghiên cứu võ công, chi bằng nghiên cứu tinh thông mật kỹ của bản môn rồi thu phục cao thủ trong thiên hạ về dưới trướng của mình. Tinh lực của con người là có hạn, có dùng cả đời khổ cực chưa chắc đã luyện thành mấy môn võ công cao thâm, nhưng trí tuệ thì lại có thể vô hạn, chỉ cần vận dụng đúng cách, muốn thu phục tất cả cao thủ trong thiên hạ về dưới trướng của mình cũng không phải là không thể. Nhưng nếu muốn biết người biết ta, ngươi có thể không biết võ công nhưng không thể không am hiểu võ công. Giang Nam có Lang nha các Mộ Dung thế gia, Thiếu Lâm Tự có Tàng kinh các, hay Võng lượng phúc địa của Ma Môn đều là những nơi thu thập và lưu giữ những bí kíp võ công thất truyền của các môn phái, ngươi chỉ cần vào được một trong ba nơi đó thì có thể hiểu được tám chín phần các loại võ công trong thiên hạ rồi.”

“Phải làm thế nào thì mới có thể thu phục được võ lâm cao thủ? Đệ tử ngu muội, vẫn xin sư phụ chỉ giáo.” Lạc Văn Giai hỏi.

“Là người thì đều có yếu điểm, cả những nhân vật ngang ngạnh ương bướng trong võ lâm cũng không ngoại lệ,” Vân gia thở dốc. “Điểm yếu đó hoặc là trung, là hiếu, là nhân, là nghĩa, là lợi, là thế lực, ngươi chỉ cần phân biệt mà đối đãi, khéo léo lợi dụng triệt để thì nhất định sẽ thu được hiệu quả. Cũng như hổ, sói, sư tử, voi đều có điểm yếu, nhưng chỉ có con người thật thông minh hơn chúng, mới biết nắm bắt và lợi dụng những điểm yếu đó.”

Trong lòng Lạc Văn Giai vẫn còn muốn hỏi rất nhiều điều, nhưng nhìn thấy sắc mặt Vân gia càng lúc càng tái, gã không dám hỏi nữa, chỉ chắp tay lạy rằng: “Đa tạ sư phụ đã chỉ dạy, đệ tử xin ghi nhớ.”

Vân gia thở dãn ra một hơi, chuyện lớn đã xong, ánh mắt của lão dần dần trở nên tán loạn, cơ thể cũng mệt nhọc đổ về phía sau. Lạc Văn Giai vội đỡ lấy, thì thấy ánh mắt lão trở nên hiền từ, nhìn Lạc Văn Giai với vẻ hết sức kỳ lạ, lão thở dài than: “Đáng tiếc là con trai Vân Tương của ta mất sớm, nếu nó còn sống thì giờ chắc cũng trạc như ngươi.”

Lạc Văn Giai thấy sinh khí trong mắt Vân gia đang dần dần tiêu tan, trong lòng đau đớn. Nghĩ tới bao nhiêu ân đức và sự chỉ dạy ân cần của lão dành cho mình, gã tự dưng quỳ thụp xuống nghẹn ngào nói: “Sư phụ, nếu người không ghét bỏ, xin coi đệ tử như con trai người, con xin nhận lấy cái tên của nhi tử đã khuất của người, từ nay đổi thành Vân Tương.”

“Thật sao?” Trong ánh mắt hấp hối của Vân gia lại ánh lên vẻ mừng rỡ.

“Cha ở trên xin nhận của hài nhi Vân Tương một lạy!” Lạc Văn Giai quỳ xuống, cung kính dập đầu ba cái. Lúc đó trong lòng Lạc Văn Giai, ơn cứu mạng và những đức điểm hóa dành cho gã khiến Vân gia hoàn toàn chẳng khác nào người cha đã sinh ra gã lần thứ hai. Tiếng “Cha” phát ra từ đáy lòng, chứ tuyệt đối không chỉ là để hoàn thành di nguyện cuối cùng của Vân gia, để lão được ngậm cười ra đi.

“Tương nhi!” Vân gia xúc động nắm tay Lạc Văn Giai, mắt ngấn lệ.

“Cha!” Lạc Văn Giai nắm chặt đôi tay đang lạnh dần của Vân gia, gượng nén đau thương xuống đáy lòng, miễn cưỡng mỉm cười.

“Tương nhi!” Đôi tay siết chặt Lạc Văn Giai của Vân gia lỏng dần, ánh mắt cũng dần dần ảm đạm, trên gương mặt còn vương lại một nụ cười mãn nguyện, cuối cùng thì lão cũng đã ngậm cười nhắm mắt.

 Lạc Văn Giai nước mắt giàn giụa, ôm chặt lấy thân thể đang lạnh dần của Vân gia vào lòng. Trong lòng gã lúc này, Vân gia còn đáng tôn kính hơn người cha mê cờ bạc của gã bội phần. Từ khi rời khỏi Dương Châu, gã chưa bao giờ cảm nhận qua tình cảm yêu thương này, càng chưa bao giờ gặp được vị ân nhân nào giống như Vân gia. Cái chết của lão, mới khiến Lạc Văn Giai thực sự cảm nhận hết nỗi đau mất cha.

Không biết bao lâu sau Lạc Văn Giai mới buông Vân gia ra. Gã nghĩ lại những lời căn dặn trước lúc chết của lão, lập tức cõng xác Vân gia đến trước cửa hầm đã bị lấp kín ở dưới chân dốc núi kia. Chỗ đó vừa rồi đã bị Lạc Văn Giai đào thành một cái hố lớn, vừa khéo có thể làm mộ phần cho Vân gia. Hầm mỏ vừa bị sập, lại bị tuyên bố là bỏ đi, nên sẽ không ai đến kinh động tới di hài của Vân gia, hơn nữa đất lấp lên chỗ cửa hầm là đất mới nên cũng không gây sự chú ý của người khác.

Sau khi an táng cho Vân gia, phương trời phía Đông đã hưng hửng sáng trắng như bụng cá. Lạc Văn Giai lạy ba lạy trước mộ phần của Vân gia, trong lòng thầm nhủ: Từ nay, tên thư sinh yếu đuối theo khuôn theo phép, khắc khổ đọc sách thánh hiền, một lòng muốn thi khoa cử để tạo dựng công danh Lạc Văn Giai đã chết. Kể từ giây phút này, ta là Vân Tương, Thiên Môn Môn chủ Vân Tương coi trung hiếu nhân nghĩa, lễ nghĩa liêm sỉ, luật pháp Đại Minh là thứ bỏ đi!

Nhìn lại mộ phần Vân gia lần cuối, Lạc Văn Giai cương quyết quay đầu, sải bước nhanh về phía lán trại dưới chân núi.

Nhẹ nhàng đi vào trong lán, Lạc Văn Giai vẫn muốn nhìn lại nơi mình đã sống một lần cuối. Vừa vào đến cửa liền nhìn thấy Vương Chí hoảng hốt chạy ra, kéo gã vào nói nhỏ: “Huynh đệ đi đâu vậy? Khiến ta sợ muốn chết, còn cho rằng tối qua cậu lại trốn ngục. Cậu không biết chứ ở nơi này, xung quanh mấy trăm dặm đều là sa mạc, không có lừa ngựa thì đừng hòng có thể sống sót mà trốn khỏi nơi này.”

“Đại ca, huynh đi cùng đệ.” Lạc Văn Giai thấy Vương Chí đối với mình quan tâm chân thành, trong lòng cảm động vô cùng. Không giải thích gì mà cứ thế nắm lấy tay y kéo đi. Ra đến cửa thì gặp một tên ngục tốt dường như vừa ngủ dậy, Lạc Văn Giai nói với hắn: “Quan sai đại ca, cảm phiền đại ca thông báo giúp một tiếng đến quan ngục, có ngục đầu ngục Bính Lạc Văn Giai xin cầu kiến.”

Ngục đầu thường có chuyện báo cáo quan ngục nên tên ngục tốt kia chỉ cản Vương Chí lại, rồi dẫn Lạc Văn Giai đi gặp quan ngục. Trong công đường tối om om, khi Lạc Văn Giai lấy chiếc nhẫn Vân gia để lại đưa ra, Nghiêm Lạc Vọng giật mình, vẫy tay cho những kẻ không phận sự lui ra, mới thản nhiên hỏi: “Có điều gì chỉ giáo? Tại sao Vân gia mất tích?”

“Vân gia gặp chút phiền phức, tạm thời phải rời khỏi đây lánh. Ông ấy sai tôi mang chiếc nhẫn này đến gặp đại nhân, mong đại nhân mở lối để cho tôi cùng mấy huynh đệ bình an rời khỏi nơi này.” Lạc Văn Giai vừa quan sát nét mặt Nghiêm Lạc Vọng vừa chầm chậm nói.

“Hừ! Vân gia có phải là đã hơi quá đáng không?” Nghiêm Lạc Vọng nhìn Lạc Văn Giai dò xét, nét mặt không lộ chút xúc cảm gì, lạnh lùng nói: “Bản quan có thể cho ngươi đi, ngoài ngươi ra, bất kỳ người nào cũng đừng nghĩ là có thể đi khỏi nơi này.”

Lạc Văn Giai giơ chiếc nhẫn ngọc trong tay lên cao quá đầu: “Ta và ba huynh đệ may mắn thoát chết trong vụ sập hầm ngày hôm qua, nếu không thể cùng đi khỏi, ta quyết không đi trước một mình. Trong vòng ba ngày nếu như ta không bình an rời khỏi đây, Vân gia tự khắc sẽ biết chuyện.”

Nghiêm Lạc Vọng trầm ngâm một lúc, cuối cùng hỏi: “Ba huynh đệ của ngươi tên họ là gì?”

Đợi cho Lạc Văn Giai nói hết tên họ của ba người bằng hữu, Nghiêm Lạc Vọng lập tức gọi một tên ngục tốt vào trong, thì thầm gì đó với hắn, tên ngục tốt liền cười gằn lạnh lùng vẻ hiểu ý. Chừng ăn hết một bữa cơm, gã quay lại, xách theo một cái túi lớn đi vào, gật gật đầu với Nghiêm Lạc Vọng rồi ném cái túi đó xuống.

“Ngươi có thể mang theo ba huynh đệ của ngươi được rồi,” Nghiêm Lạc Vọng chỉ vào cái túi cười nham hiểm. “Bản quan xưa nay vốn thấu tình đạt lý, tuyệt đối không để ngươi thất tín với các huynh đệ.”

Trên miệng túi vải gai có vết máu tươi thấm ra, Lạc Văn Giai run run mở ra, tức thì hai mắt trợn tròn, nghiến răng kèn kẹt. Chỉ thấy bên trong chính là ba chiếc thủ cấp máu thịt bầy nhầy!

“Ngươi có tín vật của Vân gia, muốn đi bản quan sẽ không cản. Người đâu!” Nghiêm Lạc Vọng gọi một tiếng, ngay lập tức có một tên ngục tốt chạy vào, chỉ nghe y bình tĩnh ra lệnh: “Chuẩn bị cho bản quan một con lừa và thức ăn nước uống đủ dùng nửa tháng, và cả một bộ quần áo sạch mang tới đây.”

“Ông...” Lạc Văn Giai căm tức nhìn Nghiêm Lạc Vọng, chỉ hận không thể lao vào ăn tươi nuốt sống đối phương. Nhưng trong lòng gã cũng còn chút lý trí không ngừng nhắc bản thân: Bình tĩnh! Nhất định phải bình tĩnh! Quyết không thể để mắc lừa đối phương được!

Hít sâu mấy lần, tâm trạng Lạc Văn Giai cũng dần bình tĩnh trở lại, đột nhiên hiểu ra rằng, Nghiêm Lạc Vọng kỳ thực không muốn cho gã đi, nhưng lại không dám làm lơ tín vật của Vân gia, nên đã giết mấy huynh đệ để kích động gã. Chỉ cần gã vì cái chết thảm của huynh đệ mà sinh sự, thì vừa khéo đã đúng với tâm ý của Nghiêm Lạc Vọng, dù Vân gia có trở lại trách tội, y cũng có lý do để bịt miệng lão. Nghĩ đến đây, Lạc Văn Giai không cầm nổi nước mắt buộc lại cái túi đựng ba thủ cấp, trong lòng thầm nhủ: Ba vị huynh đệ, nợ máu của mọi người, đệ sẽ không bao giờ quên, thế nào cũng sẽ có ngày đệ đòi lại công bằng cho các huynh!

Dập đầu xong, Lạc Văn Giai gạt nước mắt bình tĩnh đứng dậy, cúi đầu bái Nghiêm Lạc Vọng từ xa: “Đa tạ đại nhân đã đáp ứng tâm nguyện, xem như tiểu nhân có thể thanh thản ra đi được rồi.”

Nghiêm Lạc Vọng hơi bất ngờ nhìn Lạc Văn Giai dò xét, đột nhiên nhìn thấy trong mắt gã một sự bình tĩnh và ung dung của kẻ cho dù núi Thái sập xuống trước mặt cũng không hề biến sắc, một sự trấn định khiến người ta kinh sợ, trong lòng y dần thấy lành lạnh. Nếu không phải kiêng dè Vân gia, y tuyệt đối không để Lạc Văn Giai thoát khỏi tay mình. Do dự một lúc, y vẫn vẫy tay bảo tên ngục tốt đứng bên cạnh: “Để hắn đi!”

Nhìn Lạc Văn Giai đi khỏi, Nghiêm Lạc Vọng đi đi lại lại trong công đường, nét mặt biến đổi hết sức phức tạp, dường như đang do dự cân nhắc điều gì đó. Cuối cùng y cũng nghiến răng, trong mắt lóe lên một tia hàn quang ghê rợn, gọi lớn: “Người đâu!”

Một tên ngục tốt nghe tiếng chạy vào, Nghiêm Lạc Vọng bảo chuẩn bị một túi vàng, rồi đưa cho tên ngục tốt kia lệnh: “Ngươi mang theo mươi lượng vàng này, lập tức đi đến Lạc Kỳ trấn cách đây ba trăm dặm, tìm một đao khách hành sự chắc chắn, y tên hiệu là Kim Thập Lượng, ngươi bảo y... tên phạm nhân kia.” Nghiêm Lạc Vọng nói đoạn dùng tay vạch một đường ngang qua cổ. “Nhớ kỹ, phải động thủ cách Lạc Kỳ trấn trăm dặm, tuyệt đối không được để lộ chút phong thanh gì. Ngoài ra, phải khiến cái chết của hắn trông giống tai nạn vậy.”

“Thuộc hạ rõ rồi.” Tên ngục tốt đó hiểu ý, gật gật đầu rồi lập tức chắp tay lui xuống. Sắp xếp xong đâu đó, sắc mặt Nghiêm Lạc Vọng mới dần dãn ra, khóe miệng nở ra một nụ cười lạnh lùng, lẩm bẩm tự nói một mình: “Muốn thoát khỏi tay bản quan, sợ rằng không dễ vậy đâu.”

 

Lạc Văn Giai dắt theo lạc đà rời khỏi khu khai khoáng, không kìm nổi quay đầu lại một lần cuối, chăm chú nhìn nơi đã rèn luyện gã, và cũng là nơi gã có được cuộc sống mới. Gã tự nhắc mình: Từ thời khắc này trở đi, trên đời này không còn Lạc Văn Giai nhân nghĩa lương thiện, mà chỉ có Vân Tương ân oán phân minh, thiện ác tất báo. Những người đã quan tâm giúp đỡ ta, ắt sẽ nhận được báo đáp, kẻ nào làm hại, khuất nhục ta, cũng ắt phải trả giá gấp mười lần.

Quay đầu nhìn về phía phương Đông xa xôi, mắt Lạc Văn Giai dần dần dâng đầy lệ sầu, thầm tự hét lên trong lòng: Dương Châu, nhất định sẽ có ngày ta diễu võ dương uy trở về! Nam Cung thế gia, tất sẽ có ngày chính tay ta biến các ngươi thành đống tro tàn!

 

Lạc Kỳ trấn là đầu mối giao thông từ Thanh Hải đến Cam Túc, tuy diện tích không lớn, nhưng lại là nơi thường có các thương nhân tập trung, người người qua lại hết sức náo nhiệt. Sau khi các thương nhân qua lại nhiều lên, tự nhiên sinh ra một nghề mới... đao khách. Họ được người khác thuê tạm thời làm tiêu sư hoặc bảo tiêu, có khi còn được thuê giết người cướp hàng. Ở cái tiểu trấn xa xôi hoang vắng này, chỉ cần bỏ ra chút tiền là người ta có thể mua được thứ mình muốn, kể cả cái mạng của kẻ thù.

Quán rượu lớn nhất trong trấn là “Văn Hương Đình”, chính là nơi tập trung các đao khách và thương nhân, người ta đến đây để trả giá, thương thảo khả năng hợp tác, nhưng những đao khách giỏi thông thường đều có giá nhất định, trẻ già không phân biệt, không chấp nhận mặc cả. Dẫu sao thì đao khách giỏi ở đó cũng là thứ hàng hiếm.

Văn Hương Đình mở cửa từ sáng sớm, đến đêm khuya mới tắt đèn, lúc nào cũng khách đông nườm nượp, ồn ã không thôi. Quán rượu tuy là lớn nhất của trấn, nhưng kỳ thực chỉ có độ tám, chín cái bàn rượu mà thôi, hằng ngày đều có khoảng mười đến hai mươi đao khách ngồi đợi việc làm ăn, thêm đám thương nhân thỉnh thoảng đến thuê đao khách, liền trở nên hơi chật chội. Còn nữa, bình thường khi nhàn rỗi, đao khách lại tập trung đánh bạc khiến không khí trong quán rượu càng thêm hỗn loạn, hoàn toàn không hề có chút thanh nhã của ba chữ treo trước lầu.

Lúc này ở góc quán đang có mười mấy đao khách vây quanh bàn đánh bạc, chốc chốc lại hò hét ầm ĩ. Trong số đó có một đao khách trẻ mặt mũi thô hào, giữa hai chân mày hằn một vết sẹo đao, đang không ngừng gạt mồ hôi trên trán, vừa lắc bình rượu trong tay, vừa chăm chú vào con xúc xắc. Nhìn đống bạc phía trước mặt gã thì đã biết là chẳng còn bao nhiêu rồi.

Đúng lúc đó, một lữ khách bên ngoài hấp tấp đi vào, cất tiếng hỏi đao khách trẻ đang không ngừng đưa tay gạt mồ hôi kia: “Xin hỏi tráng sĩ có phải là Kim Thập Lượng đỉnh đỉnh đại danh không ạ?”

“Có chuyện gì?” Đao khách đó quay đầu lại nhìn lữ khách vừa chen vào, nét mặt không vui.

“Chủ nhân nhà ta muốn nhờ tráng sĩ làm giúp chút việc.” Người kia vội trình bày.

“Không thấy lão tử đang đánh bạc sao?” Đao khách bực bội trợn mắt nhìn, thấy đối phương hoảng hồn lùi lại, y mới quay vào chiếu bạc hét lớn: “Báo tử! Báo tử! Mẹ nó, lại là Biệt tam(1)_, mẹ cha nhà nó, tà môn thật! Nhưng lão tử không tin tà, chơi lại!”

Người kia không dám quấy nhiễu hứng đánh bạc của đối phương nên lẳng lặng lui sang một bên, tự gọi rượu thịt một mình ngồi hưởng thụ. Được khoảng một bữa cơm, thì thấy đao khách trẻ tuổi đã thua sạch sẽ, tinh thần chán nản rời khỏi chiếu bạc, cúi đầu thở dài liên hồi. Lữ khách ngồi chờ từ nãy vội đứng dậy, bước tới chắp tay hỏi: “Xin hỏi tráng sĩ có phải là Kim Thập Lượng?”

“Chính là ta.” Đao khách cảnh giác quan sát người mới đến. “Ngươi là ai?”

Người kia nở một nụ cười đầy ý vị, đưa một túi gấm đến trước mặt Kim Thập Lượng. “Tại hạ phụng mệnh chủ nhân, đem đến cho Kim tráng sĩ ít tiền đánh bạc.”

“Ngươi biết giá của lão tử rồi chứ?” Đao khách lạnh lùng hỏi.

“Ai mà chẳng biết thân giá của Kim Thập Lượng ở Lạc Kỳ trấn.” Người kia cười xòa. “Thù lao thấp hơn mười lượng vàng, Kim tráng sĩ chưa bao giờ nhận cả.”

Thương nhân qua lại Lạc Kỳ trấn đều biết người trẻ tuổi mặt sẹo ấy chính là đao khách giỏi nhất Lạc Kỳ trấn, chỉ có điều giá gã đặt ra quả thực hơi cao, một lần ít nhất cũng phải trả mười lượng vàng, không bao giờ mặc cả, vì vậy danh hiệu “Kim Thập Lượng” mới nức tiếng gần xa. Chỉ có điều y vừa ham đánh bạc lại hay rượu, tiền kiếm được nhiều nhưng ném hết vào chiếu bạc và bàn rượu, nên lúc nào trông cũng nhếch nhác như một tên đầu đường xó chợ. Tuy liên tục thua tiền, nhưng gương mặt luôn bừng lên nét tự tin đặc hữu của người trẻ tuổi, điều này khiến y hoàn toàn khác với đám vô gia cư không nhà không cửa kia. Nhìn vẻ cung kính của đối phương, nét mặt Kim Thập Lượng bất giác lộ vẻ đắc ý: “Được rồi, thế chủ nhân ngươi tìm ta làm việc gì?”

“Có một việc thôi, chủ nhân nhà tôi hy vọng tìm được đao khách giỏi nhất trong trấn thực hiện,” người kia nói nhỏ.

“Việc gì?”

“Giết người!”

Kim Thập Lượng bật cười: “Giết người ít nhất cũng phải năm mươi lượng, xem người luận giá.”

“Mục tiêu là một thư sinh yếu ớt vô danh tiểu tốt,” người kia vừa nói vừa chầm chậm trải ra một bức truyền thần. “Hắn ta không biết võ công, lại chẳng có chỗ dựa, giết hắn sẽ không có phiền phức gì cả. Yêu cầu duy nhất đó là tráng sĩ phải ra tay cách Lạc Kỳ trấn ngoài trăm dặm, hơn nữa phải ngụy trang sao cho chết giống tai nạn, như vậy thì có vấn đề gì không?”

Cuối cùng Kim Thập Lượng cũng nhìn kỹ người thuê mình lần đầu tiên: “Bỏ ra năm mươi lượng vàng để giết một người như vậy, chủ nhân nhà ngươi có phải đã hơi quá xa xỉ không?”

“Để cho không có sai sót, chi nhiều một chút là việc nên làm.” Người kia cuộn bức tranh lên, đặt hai lăm lượng vàng đặt cọc xuống trước mặt Kim Thập Lượng, cười cười nói: “Trong rất nhiều đao khách ở Lạc Kỳ trấn này, chỉ có Kim tráng sĩ là chưa một lần thất bại, nên chủ nhân tôi mới chỉ rõ ra, phải tìm bằng được tráng sĩ. Không biết Kim tráng sĩ có nhận lời không?”

Kim Thập Lượng một hơi tu hết bình rượu, lấy tay vơ lấy bức họa và đống vàng cho vào ngực, thế rồi mới ợ lên hơi rượu đứng dậy, cặp mắt đờ đẫn vì rượu hỏi: “Người này ở đâu?”

“Mấy ngày nữa hắn sẽ đi qua đây.” Người kia cũng đứng dậy cáo từ. “Tôi sẽ ở khách điếm Nhất Phẩm đối diện chờ tin của Kim tráng sĩ.”

Kim Thập Lượng vừa nấc rượu vừa lảo đảo rời khỏi quán, dường như hoàn toàn chẳng hề để tâm đến những lời của người kia. Thế nhưng, vừa rời khỏi quán rượu, y đã như biến thành một người hoàn toàn khác, ánh mắt sáng quắc lên trong bóng đêm, đâu còn chút say sưa nào nữa?

 

Tuy thương nhân lai vãng qua Lạc Kỳ trấn rất đông, nhưng khi một gã trẻ tuổi thần tình hờ hững dắt lạc đà đến đây thì cũng vẫn làm những người xung quanh để ý. Nhìn gã không giống những người làm ăn đi khắp Nam Bắc, mà cũng chẳng có nét gì giống hạng hảo hán giang hồ mình đầy tuyệt kỹ, nếu không phải bộ quần áo vải thô rách rưới mặc trên người, thì y cũng khá giống hạng người đọc sách. Kim Thập Lượng ngồi ở đầu đường như thể đang gật gù vô vị, vừa nhìn đã nhận ra ngay đối phương, đó chính là mục tiêu trị giá năm mươi lượng vàng trong bức tranh.

Nhưng quả thực nhìn thế nào thì Kim Thập Lượng cũng thấy đối phương không đáng giá năm mươi lượng vàng. Bất luận là cách ăn mặc hay là cử chỉ lời nói, con mồi chỉ là kẻ nghèo hèn rất bình thường đến mức không thể bình thường hơn được nữa, đồ đạc trên người từ trên xuống dưới cộng lại cũng không được năm lượng bạc. Kim Thập Lượng không làm sao hiểu nổi, tại sao có người muốn bỏ ra năm mươi lượng vàng để giết gã.

Đi theo con mồi qua hai dãy phố, Kim Thập Lượng cuối cùng cũng phát giác gã trẻ tuổi tướng mạo tầm thường này quả nhiên không giống người thường. Gã làm việc gì cũng đều đâu vào đấy, ung dung nhẹ nhàng, dường như không có việc gì có thể khiến gã kinh hoàng sợ hãi cả. Kim Thập Lượng để ý thấy lúc đi qua gánh bán mì và bánh bao gã đều nuốt nước bọt, ánh mắt lộ ra vẻ thèm khát nhưng lại không hề muốn dừng lại. Tuy chỉ là một tên khố rách áo ôm đến ăn cũng không đủ, nhưng vẫn không để mất đi vẻ kiêu ngạo và tự tin toát ra từ trong xương cốt. Cuối cùng gã rẽ vào một tiệm cầm đồ, lúc đi ra, thì áo khoác ngoài đã không thấy nữa, chắc là đã đổi lấy chút tiền để dùng lúc đói khát.

Kim Thập Lượng tiếp tục đi theo xa xa phía sau gã, thấy gã không chạy thẳng đến hàng ăn, mà dừng trước một chiếu bạc đầu phố, đứng ngoài quan sát khoảng chừng thời gian ăn xong một bữa cơm, cuối cùng cũng đặt một keo, nào ngờ may mắn thắng luôn. Kim Thập Lượng hiếu kỳ đi đến gần quan sát, nhận ra gã này hết sức cẩn thận, chiếu bạc mở mười mấy ván gã mới đặt cửa một lần. Nhưng đồng thời y cũng kinh ngạc để ý thấy, tên tiểu tử đó may mắn kinh người, tất cả đặt khoảng bảy, tám lần nhưng lần nào cũng thắng, thực là khiến người ta không thể hiểu nổi.

Kim Thập Lượng lần đầu tiên để ý đến chiếu bạc, thì thấy đấy là chiếu đánh chẵn lẻ thường thấy ở đầu phố. Nhà cái bỏ một ít hạt dưa lên mặt bàn rồi lập tức dùng một cái bát úp lại, sau đó để cho đám con bạc chọn chẵn lẻ. Đợi mọi người đặt chẵn lẻ xong đâu đấy thu tay về, nhà cái mới mở bát đếm số hạt dưa là chẵn hay lẻ, ai đặt trúng thì thắng, nhà cái sẽ trả tiền ngang tiền đặt, thua thì ngược lại. Đám con bạc có người thua kẻ thắng, duy chỉ có tên tiểu tử lặng lẽ ấy là lần nào cũng thắng, thật khiến người ta khó mà tin được.

Kim Thập Lượng chăm chú quan sát chiếu bạc, phát hiện ra động tác của nhà cái không hề nhanh nhẹn, với đôi mắt sắc bén của y, cơ hồ như lần nào cũng nhìn rõ số lượng hạt dưa. Song y lại không thể lý giải được tại sao khi mở bát ra số lượng hạt dưa lại không phải lần nào cũng giống như những gì y nhìn thấy. Mấy lần như vậy khiến y không khỏi tự hoài nghi đôi mắt chính mình, ngược lại còn khiến máu cờ bạc nổi lên. Y cũng không kìm nổi, bỏ tiền ra đặt mấy lần, nhưng lần nào cũng đều thua sạch. Nhìn lại tên tiểu tử kia vẫn chẳng nói một lời mà lần nào cũng thắng.

Kim Thập Lượng nghĩ mãi mà không sao hiểu nổi, còn muốn xem kỹ hơn thì đã thấy đối phương rời chiếu bạc đi đến một quán ăn nhỏ. Ăn uống no say xong, gã lại đến sòng bạc duy nhất trong trấn. Trong đồ phường ồn ã tiếng người ấy, gã vẫn ra tay hết sức thận trọng, đặt phát nào trúng phát đó. Chỉ trong giây lát, gã đã chẳng nói chẳng rằng thắng được năm sáu lượng bạc, rồi lại lặng lẽ rời khỏi sòng bạc, sau đó chuộc lại tấm áo choàng vừa cầm, rồi lại mua rất nhiều lương thực và nước sạch. Mãi đến khi trời tối gã mới vào một khách sạn rẻ tiền trong trấn nghỉ ngơi. Kim Thập Lượng không muốn xảy ra chuyện gì bất trắc nên cũng vào ở ngay phòng sát vách. Sáng sớm hôm sau đã thấy gã dắt lạc đà rời khỏi tiểu trấn tiếp tục đi về phía Đông.

Kim Thập Lượng cưỡi ngựa lặng lẽ theo sau, không sao hiểu nổi tại sao người thuê y lại muốn phải ra tay bên ngoài trăm dặm, dường như rất sợ để lộ phong thanh ra ngoài. Song Kim Thập Lượng cũng chẳng quan tâm nhiều, chỉ muốn sớm hoàn thành sứ mệnh, hòng thuận lợi lấy nốt số tiền thù lao còn lại.

Nhẫn nại đi theo mục tiêu ra ngoài Lạc Kỳ trấn, Kim Thập Lượng vẫn không hiểu tại sao người thuê mình lại có yêu cầu kỳ quái như vậy, mà nhìn thế nào đi chăng nữa thì đối phương cũng chẳng có chỗ nào đáng giá năm mươi lượng vàng cả. Kim Thập Lượng nghi hoặc trong lòng, nhưng y tôn trọng yêu cầu của người thuê, đợi đến khi rời xa Lạc Kỳ trấn trăm dặm, đến một thảo nguyên hoang vắng không dấu chân người, y mới thúc ngựa theo đối phương, lặng lẽ xuất thủ.

Hết chương 6. Chương tiếp theo sẽ được cập nhật trong thời gian nhanh nhất.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/28700


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận