Tại trong cả Thanh Nguyên Sơn, nếu muốn chọn ra một người không có chí tiến thủ nhất, không ai khác chính là Trác Tri Viễn.
Tuy rằng Trác Tri Viễn năm nay mới chỉ có tám tuổi, đối với những hài đồng dưới chân núi, tuổi này vốn là vô ưu vô lo hay là bắt đầu vào học đường gật gà gật gù ngâm nga học thuộc tam tự kinh. Nhưng mà tại trong Thanh Nguyên Sơn này, cho dù là hài đồng ít tuổi hơn so với Trác Tri Viễn, cũng đều hiểu rõ, chỉ có siêng năng luyện công, mới có thể được sư trưởng của nội môn để ý mà theo đó chân chính đi vào hàng ngũ tu chân giả.
Thanh Nguyên Sơn này vốn là đệ nhất danh sơn của Đại Dận hoàng triều, nổi tiếng xa gần, ai ai cũng biết. Trên núi có một môn phái tên là Thủy Giáo, môn nhân đệ tử của Thủy Giáo đều là những người thuộc tiên môn, muốn gặp được một người bình thường ở Thanh Nguyên Sơn này thì một người cũng không có. Đừng nói là dân chúng bình thường, ngay cả Đại Dận hoàng tộc, cũng chỉ có những vị hoàng đế vừa lên ngôi một năm mới được cho phép tiến vào trong Thanh Nguyên Sơn kiến thức qua một lần, những người còn lại cũng chỉ biết được Thanh Nguyên Sơn Thủy Giáo chính là giáo phái hộ quốc của Đại Dận hoàng triều. Thanh Nguyên Sơn tọa lạc tại biên thùy Tây Bắc của Đại Dận hoàng triều, kéo dài mấy nghìn dặm, nhưng lại chưa bao giờ có ai có thể nhìn thấy hình dáng thật sự.
Thanh Trần đường này tên nghe thấy rất tao nhã, tuy nhiên nó ở trong Thanh Nguyên Sơn chính là có thân phận thấp hèn nhất, cơ hồ đối với việc tu tiên sau này vô duyên. Mặc dù trong Thanh Nguyên Sơn linh khí dồi dào, cũng nhiều lắm là làm cho mấy tên đồng tử tạp dịch so với thường nhân sống nhiều hơn mười mấy hai mươi năm tuổi thọ mà thôi.
Cả Thanh Nguyên Sơn Thủy giáo, chia làm hai phần là tiền sơn và hậu sơn. Hậu sơn có bảy tòa đỉnh núi cao, tòa ở giữa gọi là Vong Tưởng Phong, chính là nơi thiền tu của chưởng giáo Thủy Giáo Cửu Tiêu tôn giả. Sáu tòa còn lại, theo thứ tự là nơi ở của sau vị trưởng lão Thủy Giáo. Các đệ tử ở hậu sơn chính là đệ tử đích truyền của Thanh Nguyên Sơn Thủy Giáo, người tu vi thấp nhất cũng có thể ngự kiếm phi hành một ngày mấy ngàn dặm. Vì vậy hậu sơn chính là nơi có địa vị cao nhất ở Thanh Nguyên Sơn, các đệ tử này ở hậu sơn, dĩ nhiên cũng là cao nhân một đời, ở trong Thủy Giáo có được địa vị vô thượng.
Tiền sơn thì lại chia làm ngoại môn và nội môn, đệ tử trong nội môn dĩ nhiên là có có thể tu tập chân quyết, nếu có biểu hiện xuất chúng, liền sẽ được các trưởng lão ở hậu sơn thu làm đệ tử đích truyền, tu luyện lên cao hơn. Mà đệ tử ngoại môn thì chỉ có thể tu tập võ công, địa vị so với đệ tử nội môn không thể sánh bằng.
Ngoại môn còn được chia làm năm đường, phân biệt là thanh trần, luyện đan, lên táo (làm bếp), cổ y, chế phù. Đường chủ của mỗi đường vẻn vẹn chỉ dạy cho bọn họ một vài công phu thô kệch, hoàn toàn không ra thể thống gì, thật sự là trong Thanh Nguyên Sơn có địa vị thấp kém nhất.
Bất quá Trác Tri Viễn trái lại cũng không lưu tâm đến thân phận đồng tử quét đường của mình, theo hắn nghĩ, sau khi Trần lão đầu chết, không ai nuôi hắn, nếu không phải hai vợ chồng Trần đại thúc thấy hắn đáng thương, thường giúp đỡ hắn, để cho hắn tới nhà mình ăn cơm, thì sợ là không lâu sau hắn đã sớm theo Trần lão đầu đi đan rổ tre cho diêm vương lão gia rồi. Hiện tại vào Thanh Nguyên Sơn, có thể ngày ngày được ăn no, Trác Tri Viễn cũng cảm thấy đã rất thỏa mãn rồi.
Nhưng các đồng tử khác lại không như vậy, nhiều ít bọn chúng vẫn còn lòng nhiệt khí, hơi có rãnh rỗi, thì tự mình liền đi theo các vị sư huynh hay các vị Đường chủ học tập mấy loại võ nghệ tạp nham kia, để hy vọng một ngày có vị sư trưởng nào đó thương tình, triệu mình vào ngoại môn, từ đó thoát khỏi thân phận thấp hèn này. Nhưng mà chỉ có Trác Tri Viễn lại không như vậy, ngày thường sau khi quét xong, thì liền đặt lưng nằm xuống bên cạnh con đường mòn lên núi uốn lượn giống như một chiếc thang trời trong sơn môn, miệng cắn cọng rơm, nhìn mây trắng trên trời biến hóa đủ mọi hình dạng.
Bất quá lấy thân phận của Trác Tri Viễn, lúc ban đầu bởi vì hắn là ngoại môn đệ tử bị giáng xuống dưới, nên còn có một số người chú ý một chút. Nhưng sau một thời gian, đã sớm không còn quản đến sự sống chết của hắn, Trác Tri Viễn trái lại đối với sự thanh tịnh này, lại càng cảm thấy thoải mái.
Trác Tri Viễn ở tại sơn môn quét đường cũng không phải hoàn toàn là không có việc gì làm, theo hắn biết, núi này có một tảng đá rất kỳ quái, trên tảng đá phảng phất mơ hồ có hoa văn lưu động, loại tảng đá này được những đệ tử ngoại môn gọi là linh thạch. Nghe nói linh thạch này có thể giúp trấn định tâm thần, củng cố thiền tâm, tăng cường hiệu quả hấp thu linh khí cho thân thể, cho nên ngoại môn đệ tử tu tập võ công đối với loại linh thạch này có chút coi, trọng, trên người lúc nào cũng mang theo bên mìn một hai khối dùng để củng cố tu luyện của mình.
Linh thạch khác nhau thì có giá trị khác nhau, tác dụng của hai đường vân so với một đường vân thì lớn hơn, cho tới hơn năm đường hoa vân, đó đã là thượng phẩm linh thạch. Nhưng linh thạch cũng không phải là vĩnh viễn có tác dụng, mấy cái đường vân lưu chuyển này sẽ dần dần sẽ nhạt đi rồi biến mất, một khi mà biến mất, thì liền giống như những tảng đá bình thường.
Đối với Trác Tri Viễn cũng như các đệ tử của thanh trần đường, loại linh thạch này không có tác dụng lớn gì, đặc biệt là Trác Tri Viễn căn bản là không có hỏi đến chuyện tu tiên. Chỉ là nhờ nghe được chuyện của đồng tử bên táo đường và luyện đan đường, biết được bọn họ cũng như đệ tử ngoại môn rất cần linh thạch này. Bọn họ hằng ngày đều phải đứng bên cạnh lò lửa bị khói cay xè mắt, nếu trên người có thể có một khối linh thạch, dĩ nhiên là có công hiệu bài trừ hỏa độc, bởi vậy mà Trác Tri Viễn tuy rằng nhàn hạ, nhưng cũng hay lưu tâm đến mấy đám bụi cỏ ven đường tìm kiếm xem có linh thạch hay không, nếu như là có, hắn liền sẽ thật cẩn thận thu lại, đem đến đổi với đám đồng tử bên táo đường vài bữa ăn ngon, hoặc là đến luyện đan đường đổi với đám đồng tử mấy viên đan dược luyện chế bị thất bại. Những đan dược này tuy rằng bị hư hại, đối với tu chân giả trong nội môn tự nhiên là không dùng được, nhưng đối với đệ tử ngoại môn hay các đồng tử mà nói, thì cũng không khác gì tài liệu phụ trợ, ăn vào không đơn thuần là ngon miệng mà còn có công hiệu nâng cao tinh thần, cường kiện thân thể.
Đám mây trên trời lại đang biến ảo, trong chốc lát phảng phất là hung lang đang nhe răng nanh, lát sau lại hóa thành một con chó nhu thuận, Trác Tri Viễn nhìn nó ngây ngô cười ha ha không ngừng.
Nhìn đến chán chê, Trác Tri Viễn mới cúi đầu xuống, thì nhìn thấy có một con thúy điểu đang đậu trên cành cây cổ tùng. Thúy điểu kêu to không thôi, bỗng nhiên đôi cánh mở ra, hướng về rễ cây phóng tới. Ánh mắt Trác Tri Viễn nhanh chóng nhìn theo con thúy điểu thì thấy chỗ rễ cây tựa hồ có một khối linh thạch.
Trác Tri Viễn mừng rỡ, nhảy dựng lên lao nhanh tới, thúy điểu thấy người đến thì cả kinh bay ra phía xa, Trác Tri Viễn xoay người duỗi tay ra, đem khối linh thạch kia cầm ở trong tay. Nằm ở trong lòng bàn tay, bên trên linh thạch rõ ràng là có đến bảy đạo vân sóng mờ hồ lưu chuyển, Trác Tri Viễn nhất thời hai mắt sáng lên, nội tâm trong lòng không khỏi khẩn trương hẳn lên.
Theo Trác Tri Viễn thấy, khối linh thạch này cơ hồ tương đương với hơn mười khỏa đan dược bị luyện chế thất bại, hay cũng là bằng với một khối lớn thịt bò thơm phức. Hắn đang định đưa vào trong ngực, thì lại nghe thấy từ phía sau truyền đến một thanh âm :"Đồng tử kia, ngươi nhặt được linh thạch của ta, còn không mau mau trả lại cho ta?"