“Cái quái gì thế này?” Kiyoshi kêu lên, gập quyển sách lại, quẳng cho tôi rồi nằm dài xuống ghế.
“Anh đã đọc hết chưa?” Tôi hỏi.
“Chậc, ít nhất cũng là chuyện của Heikichi Umezawa.”
“Thế anh nghĩ sao?” tôi hỏi tiếp.
Dạo này Kiyoshi thường có tâm trạng chán nản. Im lặng khá lâu, cậu mới đáp: “Ờ, chẳng khác gì buộc phải đọc cuốn Niên giám điện thoại và Những trang vàng cả.”
“Nhưng quan điểm chiêm tinh học của ông ta thì sao? Có gì bất thường không?”
Kiyoshi là một chiêm tinh gia nên có vẻ phấn khích với câu hỏi. “Có một vài phần Heikichi diễn giải theo ý kiến chủ quan,” cậu nói. “Anh biết đó, trong chiêm tinh học thì Cung Mọc có ảnh hưởng đến các bộ phận cơ thể hơn là Cung Mặt Trời, cho nên tôi thấy rằng cách diễn giải của ông ta hơi chung chung. Tuy nhiên, kiến thức của Heikichi rất uyên thâm. Tôi không nghĩ rằng có chỗ nào bị hiểu lầm quá đáng.”
“Thế còn ý kiến của Heikichi về thuật giả kim thì sao?”
“Sai lầm hoàn toàn . Kiểu tư duy đó phổ biến ở thế hệ trước. Y như môn bóng chày. Ban đầu khi mới xuất hiện tại Nhật Bản vào những năm 1880, người ta nghĩ đó là cách để rèn luyện tinh thần theo phong cách Mỹ, nhưng họ đã đi quá xa. Vấn đề trở nên nghiêm trọng đến nỗi nếu như đánh hụt trái bóng, họ sẵn sàng mổ bụng tự sát theo nghi thức harakiri của tinh thần Võ sĩ đạo. Heikichi Umezawa cũng giống như vậy, nhưng tôi tin rằng ông ta vẫn hiểu biết hơn những người có suy nghĩ rằng thuật giả kim là phương thức biến chì thành vàng.”
Tôi là Kazumi Ishioka và là tín đồ cuồng nhiệt của truyện trinh thám, thậm chí gọi tôi là con nghiện của thể loại này cũng không sai. Nếu trong một tuần mà không đọc cuốn truyện trinh thám nào là tôi sẽ lên cơn nghiện ngay lập tức, tôi sẽ đi vật vờ như thể bị mông du và choàng tỉnh tại một hiệu sách, lục tìm bằng đượcmột cuốn tiểu thuyết trinh thám. Tôi đã đọc hầu hết các truyện trinh thám, ly kỳ trong đó có truyện về vương quốc cổ đại Yamatai gây tranh cãi, truyện về tên cướp ngân hàng đã đánh cắp 300 triệu yên vẫn chưa bị bắt. Không phải tôi muốn khám phá tri thức hay gì, chẳng qua là khoái giải trí bằng những câu truyện tầm phào mà thôi. Trong tất cả các truyện trinh thám mà tôi đã đọc, Tokyo hoàng đạo án rõ ràng là câu chuyện hấp dẫn nhất. Một loạt án mạng đã xảy ra ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, đúng thời điểm diễn ra cuộc đảo chính quân sự bất thành vào ngày 26 tháng Hai năm 1936 vẫn được biết đến với tên gọi “Sự kiện 26-2[1]”.
[1] Đảo chính do một nhóm sĩ quan lục quân trẻ tuổi phái bảo hoàng nhằm lật đổ chính phủ để lập một nội các mới. Nhóm sĩ quan này dẫn khoảng 1.400 người phần lớn là tân binh đi vây các dinh thự và giết chết năm Bộ trưởng phái dân sự, nhưng lại để Thủ tướng thoát được. Tuy họ ủng hộ Thiên hoàng, đòi ông ra thân chính, song Thiên hoàng Hirohito lại không chấp nhận phiến loạn. Đảo chính thất bại và các sĩ quan cầm đầu bị hành quyết ngay giữa Tokyo.
Câu chuyện dị thường, khó hiểu, kỳ quặc và không thể tin nổi này nhanh chóng lan ra khắp đất nước như một vết dầu loang. Trong bốn mươi năm qua, biết bao trí thức và thám tử nghiệp dư đã cố gắng giải mã câu chuyện, nhưng đến hôm nay, vụ án vẫn chưa được làm sáng tỏ.
Tư liện về vụ án cùng chúc thư của Heikichi Umezawa đã được biên soạn thành một cuốn sách và xuất bản trong khoảng thời gian tôi chào đời, ngay lập tức trở thành cuốn sách ăn khách nhất. Nó gây ấn tượng vì đã nhấn mạnh vào khía cạnh thất bại trong việc phá giải các vụ án giết người, tượng trưng cho bóng tối bao quanh Nhật Bản thời kỳ tiền chiến.
Điều khủng khiếp và bí ẩn nhất về vụ án này là sáu thiếu nữ đã bị giết đúng như Heikichi mô tả. Hơn nữa, cả sáu tử thi đều bị mất một phần cơ thể khác nhau và được chôn ở sáu nơi riêng biệt cùng với những nguyên tố kim loại.
Điều kỳ quặc l Heikichi đã bị giết trước khi xảy ra cái chết của các con gái và cháu gái ông ta. Heikichi có nhắc đến tên của một vài người, nhưng họ đều có chứng cứ ngoại phạm. Tất nhiên, tất cả những chứng cứ ấy đã được xác minh kỹ càng để giải tỏa mọi nghi ngờ. Bản thân Heikichi là người có động cơ lớn nhất, nhưng ông ta đã chết trước khi xảy ra những vụ giết người, nên đương nhiên ông ta không thuộc diện nghi vấn.
Do đó, theo lẽ thường thì kẻ sát nhân không phải là người trong gia đình. Công chúng nêu ra hàng trăm giả thiết nhưng chỉ khiến mọi chuyện thêm rối tung. Mọi động cơ gây án khả dĩ đều đã được giả định nhưng tất cả đều rơi vào ngõ cụt.
Từ cuối những năm 1970, vụ án trở thành cảm hứng cho nhiểu cuốn sách với nhiều lý giải khác nhau nhưng hầu hết đều khá sơ sài và cấu tứ rất tệ, vậy mà chúng vẫn bán chạy. Vì thế đã có thêm rất nhiều cuốn sách kiểu này được xuất bản, chẳng khác gì một cơn sốt vàng.
Tôi còn nhớ có một vài ý tưởng lố bịch hơn nữa đã được đưa ra: Giám đốc Cảnh sát thành phố có liên can; Thủ tướng cũng nhúng tay vào; Đức Quốc xã muốn dùng các thiếu nữ cho những thí nghiệm sinh học; và - ý tưởng hài hước nhất theo quan điểm của tôi - thổ dân ăn thịt người New Guinea đã ăn những phần cơ thể đó. Các giả thiết này chẳng khác gì một trò đùa dở ẹc nhưng độc giả lại thấy thích thú. Khi một tạp chí ẩm thực cho đăng bài về nghệ thuật ăn thịt người thì mọi chuyện rõ ràng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Ý tưởng điên rồ cuối cùng là, người ngoài hành tinh là thủ phạm của vụ án.
Với tôi, tất cả những ý tưởng trên đều thiếu mất hai điểm then chốt: làm sao một kẻ ngoài cuộc đọc được những ghi chép của Heikichi và vì lý do gì người đó lại muốn thực hiện kế hoạch của ông ta?
Cảnh sát chú ý đến chi tiết người con gái lớn nhất, Kazue, có những mối liên hệ với Trung Quốc và nói không chừng là một gián điệp. Vì vậy xảy ra suy đoán rằng có thể một cơ quan quân sự bí mật đã ám sát những cô gái nhà Umezawa.
Tôi thì dè dặt đưa ra giả thiết là có ai đó đã tìm thấy những ghi chép của Heikichi và sử dụng nó để che đậy tội ác. Hắn có quan hệ tình ái với một trong các cô gái, nhưng bị cô ta bỏ nên hắn trả thù. Nếu như hắn giết tất cả sáu cô gái, thì động cơ của hắn sẽ không bị phát hiện. Tuy nhiên, giả thiết này không hoàn toàn khớp với thực tế khi cơ quan điều tra kết luận rằng các thiếu nữ nhà Umezawa bị mẹ canh chừng rất nghiêm ngặt và chưa có bất kỳ người bạn trai nào. Hẹn hò mà không được phép của bố mẹ là điều không thể chấp nhận được vào những năm 1930. Và nếu giả sử một trong các cô gái này yêu đương và phụ bạc người tình thật, thì chắc chắn chàng trai phải tìm cách nào đó đơn giản hơn để giết kẻ phụ tình, chưa kể hung thủ chẳng có lý do gì để tiếp cận được những ghi chép của Heikichi.
Tất cả đều vô nghĩa. Cuối cùng tôi không suy ngẫm về những án mạng kỳ quặc này nữa.
Mùa xuân năm 1979, dù là một anh chàng đầy nhiệt huyết, Kiyoshi Mitarai cũng cảm thấy nản lòng. Cậu có cảm giác mình không đạt được phong độ đỉnh cao để giải mã bí ẩn của vụ án. Nghệ sĩ thường có cá tính riêng và Kiyoshi cũng không phải là ngoại lệ. Cậu có thể đột nhiên vui vẻ nhờ vị dễ chịu của kem đánh răng hoặc bất chợt tỏ ra khó chịu khi cửa hàng yêu thích đổi tông màu khăn trải bàn. Tâm trạng bực bội của cậu thường kéo dài trong vài ngày. Nói cho đúng cậu không phải là một chàng trai dễ gần. Tôi đã quen với tính khí nghệ sĩ đồng bóng thất thường ấy, nhưng tật xấu này giờ đây còn tồi tệ hơn trước. Kiyoshi lừ đừ như con voi sắp chết khi bước vào gian bếp hay nhà vệ sinh. Thậm chí khi gặp khách hàng, trông cậu cũng chẳng khá lên tí nào. Bình thường với tôi cậu rất bỗ bã và có phần hơi xấc xược, nhưng bây giờ thì không như vậy. Nói thật, tôi lại khoái như trước hơn.
Kiyoshi và tôi gặp nhau năm ngoái, kể từ đó hễ rảnh là tôi lại đến lớp học chiêm tinh của cậu. Tôi giúp những việc vặt khi có sinh viên và khách hàng ghé thăm văn phòng. Một hôm, bà Iida đến chơi và nói thẳng rằng cha của bà có dính líu đến vụ án mạng hoàng đạo nổi tiếng. Bà đưa cho chúng tôi một bằng chứng mà rõ ràng chưa ai từng thấy bao giờ, và nói đại ý rằng với bằng chứng này chúng tôi có thể phá được vụ án. Kiyoshi không nổi tiếng mặc dù được người trong giới rất tôn trọng. Việc người phụ nữ tin tưởng giao cho cậu ấy bằng chứng đáng giá như vậy khiến tôi thêm nể trọng Kiyoshi. Tôi cảm thấy hãnh diện khi được kết giao với cậu.
Tôi đã mất một thời gian dài suy ngẫm về vụ án này nên nhanh chóng nhớ ra toàn bộ sự việc. Trái lại, Kiyoshi chẳng hề biết gì về vụ án, mặc dù cậu là một chiêm tinh gia. Tôi đã phải lục tìm cuốn Tokyo hoàng đạo án trên giá sách của mình, phủi sạch bụi và giải thích mọi chuyện cho cậu.
“Vậy anh cho rằng, Heikichi Umezawa tác giả của những ghi chép này đã bị giết đúng không?” Kiyoshi hỏi, vẫn nằm dài trên ghế.
“Đúng. Anh sẽ tìm thấy các chi tiết trong phần thứ hai của cuốn sách.”
“Tôi thấy mệt. Kiểu chữ nhỏ xíu này báo hại mắt tôi.”
“Ờ, thôi nào, đừng cằn nhằn nữa.”
“Thế anh không thể tóm tắt cho tôi được à?”
“Cũng được. Tôi nghĩ là trước tiên anh muốn nghe qua về những vụ án phải không?”
“Đúng vậy.”
“Sẵn sàng chưa?”
“Cứ bắt đầu đi thôi…”
“Tốt, cái gọi là Tokyo hoàng đạo án thực chất gồm ba vụ án riêng biệt. Vụ thứ nhất là cái chết của Heikichi Umezawa, vụ thứ hai là cái chết của Kazue Kanemoto, con riêng vợ ông ấy và vụ thứ ba là các án mạng Azoth. Người ta tìm thấy xác Heikichi trong xưởng vẽ của ông vào ngày 26 tháng Hai năm 1936. Ngày tháng trên bản ghi chép kỳ quái kia là năm ngày trước cái chết của nạn nhận. Nó được tìm thấy trong ngăn kéo bàn làm việc của Heikichi.”
“Kazue bị giết tại nhà riêng ở Kaminoge, khu Setagaya, cách khá xa nh Umezawa và xưởng vẽ của Heikichi ở Ohara, khu Meguro. Cô ấy bị hãm hiếp, nên có thể suy luận rằng kẻ sát nhân là đàn ông, và có khả năng là một tên trộm. Trùng hợp ngẫu nhiên là Kazue bị giết cùng một thời gian với Umezawa và những người khác.”
“Ngay sau cái chết của Kazue, vụ giết người hàng loạt xảy ra, giống như được nêu trong ghi chép của Heikichi. Mặc dù vậy, các nạn nhân không bị giết theo thứ tự lần lượt mà tất cả bị giết cùng một lúc. Có lẽ gia đình Umezawa đã bị trù ếm. Mà này, ngày 26 tháng Hai năm 1936 có gợi cho anh điều gì không?”
Kiyoshi đáp gọn: “Sự kiện 26 tháng Hai.”
“Đúng vậy,” tôi nói. “Tôi rất ấn tượng với kiến thức của anh về lịch sử Nhật Bản! Cái chết của Heikichi xảy ra đúng ngày đó. Ờ, cuốn sách đã nói gì nhỉ? Chậc, hay đấy. Nhân tiện, ta hãy xem gia phả nhà họ, cùng tuổi của mỗi người được tính đến ngày hôm đó, 26 tháng Hai năm 1936.”
“Có cả thông tin về nhóm máu của họ nữa cơ à?” Kiyoshi hỏi.
“Phải, có cả nhóm máu nữa. Thông tin trong bản ghi chép đều đúng và chính xác. Nhưng Heikichi không đả động gì đến ông Yoshio, em trai ông ấy, cho nên tôi sẽ kể anh nghe về người này. Yoshio là một cây viết chuyên luận cho các tạp chí du lịch, tiểu thuyết dài kỳ cho các báo, phóng sự v.v… Khi anh trai bị giết, ông ấy đang ở phía đông bắc của Tohoku, đang đi lấy tin để viết báo. Chứng cứ ngoại phạm của ông ấy đã được xác minh, nhưng cũng đáng để xem xét. Mà thôi, chúng ta sẽ trở lại vấn đề Yoshio sau.”
“Tiếp theo là Masako, vợ thứ hai của Heikichi. Tên thời con gái của bà ấy là Hirata. Bà xuất thân trong một gia đình giàu có ở Aizu-wakamatsu. Cuộc hôn nhân đầu tiên của bà với Satoshi Murakami, giám đốc một công ty xuất nhập khẩu, là do sự sắp đặt của hai bên gia đình. Họ có với nhau ba người con là Kazue, Tomoko và Akiko.”
“Tôi biết,” Kiyoshi nói. “Còn Heitaro Tomita thì sao?”
“Vào thời điểm xảy ra vụ án, anh ta 26 tuổi, chưa lập gia đình và đang phụ giúp mẹ ở xưởng tranh de Médicis. Nếu Heikichi đúng là bố đẻ của anh ta thì chắc chắn ông ấy phải sinh ra Heitaro năm 22 tuổi.”
“Thế nhóm máu có xác định được huyết thống giữa Heikichi và Heitaro không nhỉ?”
“Trường hợp này thì không. Heitaro và mẹ cùng mang nhóm máu O, Heikichi nhóm máu A.”
“Hiện chúng ta biết Heikichi và Yasue, mẹ của Heitaro, đã chia tay ở Tokyo và sau đó gặp lại nhau. Họ gặp nhau vào năm 1936 đúng không nhỉ?”
“Chắc chắn như vậy,” tôi trả lời. “Khi Heikichi có hẹn ở ngoài thì thường chính là đi gặp Yasue. Có vẻ ông tin tưởng bà này vì họ cùng chung sở thích nghệ thuật. Heikichi không gần gũi với Masako hay các con riêng của mình theo kiểu đấy.”
“Vậy thì tại sao ông ấy lại kết hôn với Masako? Mà này, Masako và Yasue có hòa thuận không?”
“Tôi nghĩ là không. Có thể họ vẫn chào hỏi xã giao, nhưng Yasue hiếm khi sang nhà chính mỗi lần tới thăm Hei kichi. Ông ta thường ở trong xưởng vẽ của mình. Như thế Yasue có thể dễ dàng đến thăm Heikichi mà không ai biết cả. Có thể Heikichi vẫn còn yêu Yasue. Ông kết hôn với Tae vì cô đơn sau cái chết của bà mẹ. Rồi vướng vào mối quan hệ với Masako - ừ, ‘vướng’ có lẽ là từ chính xác để giải thích cho tình cảnh của ông ta.”
“Vậy, có thể hiểu là Yasue và Masako không bao giờ cùng một phe…”
“Đúng thế.”
“Heikichi có gặp Tae sau khi họ ly hôn không?”
“Chưa bao giờ. Nhưng cô con gái Tokiko của họ thì thường xuyên đến thăm Tae ở Hoya. Cô lo lắng cho Tae, bà này có một cửa hàng nhỏ bán thuốc lá.”
“Heikichi đúng là người lạnh lùng nhỉ?”
“Chậc, Heikichi không bao giờ đến thăm Tae, ngược lại Tae cũng vậy.”
“Tae và Masako cũng không hợp nhau đúng không?”
“Tất nhiên là không rồi. Masako đã cướp chồng của Tae. Chắc chắn Tae căm ghét bà ta. Đó là bản chất của phụ nữ mà.”
“Kazumi à, anh nói như thể anh hiểu hết tâm lý của phụ nữ ấy!”
“Cái gì?... Không phải đâu!” Tôi làu bàu.
“Nhưng nếu Tokiko quan tâm đến mẹ đẻ thì tại sao cô ấy lại vẫn ở với nhà Umezawa? Cô ấy có thể đến sống với Tae cơ mà?”
“Tôi không biết. Tôi không phải là chuyên gia về tâm lý phụ nữ!”
“Thế còn bà Ayako, vợ của Yoshio? Bà ấy có thân thiết với Masako không?”
“Họ cũng khá hợp nhau.”
“Sao Ayako gửi hai con gái mình đến sống với Masako, nhưng chính bà ấy lại không dọn về đó ở nhỉ?”
“Biết đâu giữa mẹ con họ có mâu thuẫn.”
“Quay trở lại với Heitaro con trai Yasue. Cậu bé và ông bố Heikichi có thường xuyên gặp nhau không?”
“Tôi không biết. Cuốn sổ cũng chẳng nhắc gì đến thông tin này cả. Heikichi thường đến phò trưng bày de Médicis ở Ginza nên chắc chắn ông ta có gặp Heitaro đôi lần. Có lẽ cha con họ khá thân thiết với nhau.”
“Hừm. Lối sống lập dị của Heikichi - vốn dĩ khá xa lạ với giới họa sĩ - chắc chắn tạo ra những mối quan hệ phức tạp.”
“Đúng vậy,” tôi nói. “Một bài học tốt về đạo đức cho anh, phải không?”
“Bài học gì?” Kiyoshi hỏi, không để ý tới sắc thái châm chọc của tôi. “Tôi có ý thức sâu sắc về đối nhân xử thế hơn ông ta nhiều, ít nhất cũng đủ để dạy lại người khác. Chúng ta cùng xem các chi tiết về vụ án của Heikichi Umezawa nhé.”
“Chắc chắn rồi. Tôi là chuyên gia về chuyện đó mà.”
“Thật á?” Kiyoshi cười toét miệng.
“Ừ. Tôi thuộc lòng mọi chuyện và có thể giúp anh viết thành sách ấy chứ, nhưng nhớ là phải thiết kế các tranh thật đẹp đấy nhé.”
Kiyoshi ngáp dài. “Ôi, ước gì tôi không phải nghe bài thuyết giảng nhàm chán của anh nữa, nhưng thôi cứ tiếp tục, anh nói tiếp đi…”
Kiểu của Kiyoshi là vậy. Tôi mặc kệ và tiếp tục. “Giữa trưa ngày 25 tháng Hai, Tokiko rời nhà Umezawa đi thăm mẹ. Cô ấy trở lại vào khoảng 9 giờ sáng hôm sau, ngày 26. Hôm đó, ngoài vụ đảo chính quân sự còn có một trận tuyết rơi lớn kỷ lục trong vòng ba mươi năm ở Tokyo. Sau khi về đến nhà, Tokiko chuẩn bị bữa sáng cho cha mình. Ông Heikichi luôn ăn bất cứ thứ gì Tokiko làm bởi vì ông ấy tin tưởng cô và trên hết, Tokiko là con gái ruột của ông.”
“Tokiko mang bữa sáng tới xưởng vẽ lúc 10 giờ kém mấy phút. Cô ấy gõ cửa nhưng không thấy ai trả lời. Đi về phía hông xưởng vẽ và nhìn qua cửa sổ, Tokiko thấy cha mình nằm trên sàn trong một vũng máu.”
“Tokiko vô cùng kinh hãi, chạy một mạch trở lại nhà chính và gọi những người phụ nữ khác tới giúp phá cửa xưởng vẽ đang bị khóa trái. Heikichi chết do bị một vật cứng đập vào gáy, có thể là một cái chảo rán. Phía pháp y kết luận rằng nguyên nhân cái chết là do giập não, máu trào ra từ mũi và miệng nạn nhân. Không bị mất cắp thứ gì vì tiền bạc và đồ quý giá còn nguyên trên bàn làm việc. Cuốn sổ tay có bản ghi chép kì quặc được tìm thấy trong ngăn kéo.”
“Mười một bức tranh mà Heikichi gọi là tác phẩm để đời vẫn dựng ở bức tường phía bắc. Không có dấu hiện nào chứng tỏ chúng bị hủy hoại. Bức tranh thứ 12 còn đang dở dang trên giá vẽ. Khi những cô con gái phá cửa vào xưởng, lò sưởi bằng than vẫn đang đượm cháy. Thời điểm đó thể loại truyện trinh thám đã phổ biến, vì vậy mà họ biết cách giữ nguyên không làm xáo trộn hiện trường vụ án. Chỉ một lát sau thì cảnh sát đến.”
“Như tôi đã nói, đêm hôm trước Tokyo hứng chịu trận tuyết lớn nhất trong vòng ba mươi năm. Bây giờ hãy nhìn vào sơ đồ thứ hai.”
“Những bước chân trên tuyết kéo dài từ cổng nhà đến xưởng vẽ. Đó là dấu giày của một người đàn ông và một phụ nữ - hay ít nhất là một đôi giày nam và một đôi giày nữ. Cho dù giới tính của họ là gì thì có vẻ như hai người đó không rời xưởng vẽ cùng nhau, và chắc chắn cũng không đi cạnh nhau vì dấu chân của họ giẫm lên nhau.”
“Đúng, có vẻ như một người đi trước và một người đi sau. Dấu giày nam cho thấy người này đi từ xưởng vẽ ra ngoài tới mạn phía nam, dừng bước và đi đi lại lại phía dưới cửa sổ cạnh bồn rửa, trong khi dấu giày của người phụ nữ lại đi thẳng từ cửa xưởng vẽ ra cổng nhà. Nếu cả hai người đó rời xưởng vẽ cùng một lúc thì người đàn ông đi ra sau người phụ nữ vì dấu chân nam giẫm đè lên dấu chân nữ. Qua khỏi cổng nhà là đường phố có lát gạch. Dấu chân của hai người cũng chấm dứt tại đây.”
“Ừm.”
“Khoảng thời gian tuyết rơi chính là điểm mấu chốt. Ở Meguro, tuyết bắt đầu rơi lúc 2 giờ chiều ngày 25 tháng Hai. Hiếm khi có tuyết ở Tokyo và hệ thống dự báo thời tiết hồi ấy chưa hiện đại như ngày nay nên không thể biết được lượng tuyết tích tụ là bao nhiêu. Tuyết vẫn tiếp tục rơi đến 11 giờ rưỡi đêm, tổng cộng thời gian tuyết rơi chín tiếng rưỡi. 8 giờ rưỡi sáng hôm sau, tuyết lại rơi nhẹ khoảng mười lăm phút nữa.”
“Anh có thể thấy là đợt tuyết rơi lần hai chỉ như một lớp bụi mỏng phủ lên những dấu giày. Vì vậy, hai người đó chắc chắn phải vào xưởng vẽ ít nhất là ba mươi phút trước khi tuyết ngừng rơi lúc 11 giờ rưỡi; người nữ và người nam nối tiếp nhau rời khỏi xưởng vẽ trong khoảng thời gian từ 11 giờ 30 phút đêm đến 8 giờ 30 phút sáng hôm sau. Lý do tôi nói họ vào xưởng vẽ ba mươi phút trước khi tuyết ngừng rơi là bởi vì dấu chân của họ bị tuyết phủ lên nhưng không bị che phủ hoàn toàn.”
“Ừm.”
“Chắc chắn phải có ba người ở trong xưởng vẽ vào buổi tối hôm đó: người để lại dấu giày nam, người để lại dấu giày nữ và Heikichi Umezawa. Nhiều khả năng người nam ra sau không phải là thủ phạm, nhưng nếu đúng là người nam là hung thủ ra tay sát hại Heikichi thì người phụ nữ kia phải biết hắn ta là ai. Hoặc nếu như người phụ nữ giết chết Heikichi thì người nam chắc chắn biết thị - tuy nhiên điều này không thể xảy ra vì người nam rời khỏi xưởng vẽ sau người phụ nữ. Nhưng cũng có thể giả định rằng người nam không nhìn thấy người phụ nữ giết Heikichi, hắn không ở lại trong xưởng vẽ sau khi xảy ra vụ việc và cũng không đi đi lại lại dưới ô cửa sổ phía nam xưởng vẽ.”
“Nhưng nếu cả hai là đồng phạm thì vẫn còn một chi tiết khó hiểu là thuốc ngủ được tìm thấy trong dạ dày của Heikichi. Liều thuốc ít không thể gây tử vong, cho nên chỉ đơn giản để an thần. Có nghĩa là sau khi uống thuốc, nạn nhân mới bị giết. Nhưng liệu có phải Heikichi uống thuốc trong lúc đang tiếp hai vị khách? Không chắc nữa, nhỉ?
“Vậy liệu có thể là người nam gây án sau khi người phụ nữ rời đi không? Khả năng đó cũng không chắc lắm vì Heikichi vốn không thích ở cạnh đàn ông. Ông ta không hề thân thiết với cánh mày râu và chỉ cảm thấy an toàn khi ở bên phụ nữ. Nếu như ông ta uống thuốc khi có mặt ai đó thì người đó phải là phụ nữ. Tình huống này không thể xảy ra vì người nữ đã rời đi trước đó. Bất cứ giả định nào cũng khó giải thích được ý nghĩa của những viên thuốc ngủ.”
“Tóm lại giả thiết sau có vẻ hợp lý nhất: người để lại dấu giày nam chính là hung thủ và người đã để lại dấu giày phụ nữ chính là người đã chứng kiến án mạng. Kiyoshi, anh nghĩ ai là người để lại dấu giày phụ nữ?”
“Người mẫu của ông ấy.”
“Chính xác, tuyệt! Cô ta rất có thể là người mẫu và đã chứng kiến toàn bộ vụ án mạng. Cảnh sát đã tiến hành thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng mời người mẫu hôm đó tới trình diện, hợp tác và đảm bảo giữ bí mật tuyệt đối về danh tính. Tuy nhiên cô ấy không xuất hiện. Không ai biết người mẫu đó là ai, thậm chí cho tới tận bây giờ, đã bốn mươi năm kể từ khi án mạng xảy ra.”
“Nhưng nếu một người mẫu ở trong xưởng vẽ của Heikichi lúc 11 giờ rưỡi đêm thì lại có thêm bí ẩn khác: lẽ nào một người mẫu lại làm việc khuya như vậy? Nếu đúng thì chắc hẳn cô ấy phải rất thân thiết với Heikichi, nếu không thì chẳng có người phụ nữ nào làm việc muộn như thế. Ở thời điểm đó, phụ nữ hiếm khi phải làm việc kiếm tiền ngay cả những công việc ban ngày. Tất nhiên, có thể cô ấy phải đợi cho tuyết tạnh mới có thể về được vì không hề có cái ô nào trong xưởng vẽ cả. Nhưng nếu muốn thì Heikichi có thể đi tới nhà chính để lấy cái ô.”
“Tuy nhiên, nhiều người nghi ngờ về sự hiện diện của cô người mẫu. Cảnh sát không thể tìm được tung tích của cô ta và họ cho rằng dấu giày nữ chỉ là một thủ đoạn đánh lạc hướng. Nhưng chắc chắn sự thật không thể chối cãi là người để lại dấu giày nữ đã đi từ xưởng vẽ ra phố chứ không theo đường khác dựa trên tình trạng tuyết bị xáo trộn và dấu chân chỉ đi theo một hướng. Giả thiết về việc một người xỏ tay vào giày và bò bằng bốn chiếc giày cũng được đặt ra. Tuy nhiên giả thiết đã bị bác bỏ bởi trọng lượng phân bố không đều giữa tay và chân trong quá trình bò sẽ làm lộ mánh khóe đó ngay.”
“Mà này, nói về những dấu giày như vậy là đủ rồi, đó không phải điều thú vị nhất trong vụ giết Heikichi. úng như ông ta mô tả, khung sắt ở cửa sổ và cửa trời đã được lắp đặt xong. Heikichi là người thận trọng. Những song sắt đó không phải là thứ vớ vẩn. Vì mục đích an ninh, những song sắt này được thiết kế để chỉ có thể tháo ra từ bên trong. Vì vậy, chỉ có một cách duy nhất để hung thủ vào xưởng vẽ là đến và đi qua cửa chính. Khác với cửa trượt của Nhật, ở đây là kiểu cửa cánh đơn theo phong cách phương Tây, mở ra phía ngoài và có một cái then sắt để đảm bảo an toàn ở bên trong. Chắc chắn Heikichi đã cho làm cửa theo phong cách của khách sạn vùng nông thôn nước Pháp. Để khóa cửa, anh phải kéo then cửa sắt vào một cái lỗ trên khung cửa. Then cửa sắt này có một cái vấu nhỏ phải xoay xuống dưới đè lên một chỗ nhô ra trên cửa. Chỗ nhô ra này có một cái khoen, và đây chính là chỗ để móc ổ khóa.”
Kiyoshi đột nhiên mở to mắt, ngồi phắt dậy trên trường kỷ. “Thật á?” Cậu ấy hỏi.
“Phải. Và Heikichi bị giết s
“Không, không thể như vậy được,” Kiyoshi nói. “Tên giết người chắc hẳn phải đào thoát qua một lối đi bí mật!”
“Anh nói đúng. Nhưng cảnh sát đã kiểm tra mọi ngóc ngách. Không có lối ra nào khác, chả nhẽ hung thủ lại nhảy xuống bồn cầu và thoát ra bằng đường ống à! Không thể nào. Bây giờ hãy xem xét đến xưởng vẽ, có hai điều rất kỳ lạ. Thứ nhất là giường của Heikichi không dựa vào tường như trong hình minh họa. Chúng ta biết là cái giường có thể di chuyển xung quanh phòng, nên điều này là hoàn toàn bình thường, nhưng biết đâu đây lại là đầu mối quan trọng. Thứ hai là Heikichi luôn để râu. Nhưng khi phát hiện ra xác ông ấy, bộ râu đã bị cắt một nửa. Những chứng cứ trên hiện trường cho thấy việc này không thể do ông ấy tự làm mà do người khác dùng kéo cắt. Mấy sợi râu vương ãi gần x ác chết nhưng không hề có cái kéo hay dao cạo nào trong xưởng vẽ cả.”
“Heikichi và em trai là Yoshio trông rất giống nhau, có khả năng họ là anh em sinh đôi, thiên hạ đồn rằng người bị giết thật ra là Yoshio. Có thể Heikichi đã viện một lý do để mời em trai đến xưởng vẽ của mình, giết ông em rồi bỏ đi hoặc ngược lại. Mặc dù giả thiết này không được coi trọng lắm, nhưng không thể loại trừ chuyện nhận diện nhầm tử thi bởi vì chưa ai trong gia đình thấy Heikichi không để râu với cái đầu dập nát. Heikichi say mê nghệ thuật đến điên cuồng nên có vẻ như ông ta sẽ làm mọi việc để tạo ra Azoth.”
“Chậc, đó là tất cả những gì được biết về hiện trường. Chúng ta sẽ chuyển sang những chứng cứ vắng mặt của các nghi phạm chứ?”
“Đợi một chút…”
“Gì vậy?”
“Anh giải thích nhanh quá! Tôi chẳng kịp ngẫm các sự kiện.”
“Anh lại đùa tôi rồi!”
“Không. Tôi muốn biết thêm về Heikichi khi bị khóa ở bên trong. Chẳng phải mọi người đã suy nghĩ nát óc về chuyện đó cũng như bí ẩn của những dấu giày ư?”
“Ừ, suy nghĩ suốt bốn mươi năm rồi.”
“Hãy nói thêm cho tôi nghe về xưởng vẽ.”
“Được rồi. Hy vọng tôi có thể nhớ được tất cả các chi tiết. Mái xưởng vẽ cao ngang một tòa nhà hai tầng, cho nên dù dựng đứng giường lên thì cũng không thể với tới trần nhà. Hơn nữa các cửa trời đều có song sắt và không hề có thang trong xưởng vẽ. Ống khói lò sưởi được làm bằng thiếc nhưng nó quá mỏng, vả lại than vẫn đang tiếp tục cháy trong lò, chắc chắn không ai có thể leo qua lối đó được, kể cả ông già Nô-en. Dĩ nhiên có một lỗ trên tường để gắn đường ống nhưng quá nhỏ so với một cái đầu. Đó là tất cả những gì tôi nhớ. Thật sự không có đường khác để ra khỏi xưởng vẽ.”
©STENT: http://www.luv-ebook.com
“Cửa sổ có rèm không?”
“Có một số. Gần giường ngủ ở mạn phía bắc của xưởng vẽ có tìm thấy một cây gậy dài để đóng mở rèm, cách cửa sổ khá xa.”
“Thế à. Cửa sổ có đóng không?”
“Một số khóa, một số không.”
“Thế còn cửa sổ phía trên vị trí tìm thấy dấu giày của người đàn ông?”
“Nó không khóa.”
“Tôi hiểu. Còn có gì khác trong xưởng vẽ không?”
“Không nhiều lắm, anh có thể thấy rõ trong hình minh họa: Một bàn làm việc, một ít sơn và màu vẽ, vài cái bút, quyển sổ tay mà Heikichi viết những ghi chép của mình, một cái đồng hồ đeo tay, ít tiền mặt và một tấm bản đồ. Tôi nghĩ tất cả chỉ có thể. Không có sách, báo hay tạp chí và cũng chẳng có đài đóm gì cả. Ông Umezawa không muốn bất kỳ thứ gì của đời sống thế tục xâm nhập vào xưởng vẽ.”
“Tôi thấy bức tường của khu nhà có một cánh cổng. Nó có khóa không?”
“Nó có thể khóa từ bên trong, nhưng khóa đã bị hỏng. Có thể giật mạnh và mở cổng từ bên ngoài một cách dễ dàng.”
“Không an toàn cho lắm.”
“Chính xác, rất không an toàn. À, còn nữa, vào lúc bị giết, Heikichi rất gầy do bị mất ngủ thường xuyên và không ăn được nhiều.”
“Hừm. Ông ta ốm yếu và ở trong một căn phòng khóa chặt… bị giết từ phía sau bởi một kẻ thậm chí không buồn làm giả hiện trường cho giống một vụ tự tử. Nào, Kazumi, tại sao anh nghĩ là hung thủ đã khóa xưởng vẽ?”
Tôi đã chuẩn bị sẵn cho câu hỏi này. “À, hãy nghĩ về những viên thuốc ngủ,” tôi trả lời. “Khi Heikichi uống thuốc, ông ấy đang tiếp một hoặc hai vị khách. Vì thế chắc chắn anh phải đoán rằng ít nhất một trong số họ không phải người lạ.”
“Hừm. Ông ấy có bạn bè nào không?”
“Có vài họa sĩ ông ấy đã gặp ở phòng trưng bày de Médicis và mấy người khách ở quán rượu nhỏ tên là Kakinoki. Umezawa liên tục đến đó và quen biết hai khách hàng thường xuyên là: Genzo Ogata, ông chủ một nhà máy sản xuất ma-nơ-canh và Tamio Yasukawa, nhân viên của Ogata. Nhưng họ không phải là bạn bè thân thiết. Một người quen nữa thỉnh thoảng cũng ghé thăm xưởng vẽ nhưng không thể gọi người đó là bạn thân được.”
“Thế còn Yoshio thì sao? Hay Heitaro? Họ biết Heikichi khá rõ.”
“Chứng cứ ngoại phạm của họ đã được xác minh mặc dù họ không có nhiều nhân chứng. Vào đêm ngày 25, Heitaro đánh bài với mẹ và một vài người bạn ghé chơi sau khi phòng tranh đóng cửa. Những người khách ra về lúc 10 giờ 20 phút và hai mẹ con họ lên phòng ngủ trên gác lúc 10 giờ 30 phút. Nếu Heitaro là kẻ giết người, anh ta không thể chạy như bay đến xưởng vẽ của Heikichi trong vòng ba mươi hoặc bốn mươi phút để ra tay được. Ngay cả khi không có tuyết thì cũng rất khó đi từ Ginza đến Meguro nhanh như thế, tuyết rơi dày như hôm đó thì càng không thể. Tuy nhiên, nếu Heitaro âm mưu cùng mẹ giết Umezawa thì họ có thể ra khỏi phòng tranh ngay sau khi bạn bè ra về. Như vậy họ có thể gây án trong khoảng thời gian giả định của vụ giết người. Nhưng động cơ của họ là gì? Heitaro thì có thể cho rằng Heikichi là cha của cậu ấy và hận ông ta vì sự vô trách nhiệm và những đau khổ mà ông ta đã gây ra cho mẹ cậu. Tuy nhiên, Yasue không có lý do gì thù ghét Heikichi; đã có thời gian bà rất gắn bó với ông và bây giờ bà đang là đối tác duy nhất độc quyền kinh doanh các tác phẩm của ông ấy. Đúng là tranh của Heikichi được bán với giá rất cao sau khi ông chết, đặc biệt là sau chiến tranh. Nhưng Yasue không có ràng buộc với Heikichi, cho nên bà ấy không được lợi và sẽ chẳng bao giờ được lợi gì từ cái chết của ông ấy.”
“Ừm.”
“Còn Yoshio, em trai của Heikichi, thì đã đến Tohoku vào ngày 25 tháng Hai và trở về nhà vào khoảng nửa đêm ngày 27. Vào thời điểm vụ giết người, Yoshio đang trên đường đến gặp những người bạn ở Tsugaru. Thực sự ông ta có đến đó. Đây là một câu chuyện dài nhưng tôi sẽ nói qua cho anh các tình tiết chính. Ông ấy có chứng cứ ngoại phạm, nhưng như với một số nghi phạm khác, đặc biệt là đám phụ nữ, bằng chứng ngoại phạm không được chặt chẽ cho lắm. Ví dụ như vợ của Yoshio: bà ở một mình trong khi chồng đi vắng, hai cô con gái đang ở cùng Masako. Bà không có chứng cứ ngoại phạm.”
“Nếu bà ta chính là người mẫu thì sao?”
“Lúc đó bà ta đã 46 tuổi. Không lẽ Heikichi có thiên hướng vẽ một mụ nạ dòng ở tuổi sồn sồn?”
“Hừm…”
“Tiếp đến là cô con gái lớn của Kazue. Cô này đã ly hôn và sống một mình ở Kaminoge, khi đó vẫn là một thị trấn khá hẻo lánh. Kazue cũng không có chứng cứ ngoại phạm. Masako thì ở nhà chính ăn tối với các con gái là Tomoko, Akiko, Yukiko và cùng các cháu gái là Rieko và Nobuyo. Lúc 10 giờ đêm, tất cả đều đi ngủ. Và Tokiko thì ở nhà mẹ đẻ tại Hoya.”
“Ngôi nhà chính có sáu phòng ngủ chưa kể bếp và phòng khách, nơi các cô con gái tập múa ba lê và dương cầm. Phòng ngủ của Masako, Tomoko và Akiko ở tầng trệt. Trên gác, Reiko và Nobuyo chung một phòng gần cầu thang nhất, kế bên là phòng của Yukiko và phòng còn lại của Tokiko. Heikichi chủ yếu sống trong xưởng vẽ của ông ấy.”
“Bất kỳ ai trong số những phụ nữ này cũng đều có thể lẻn ra khỏi phòng mình vào ban đêm, nhưng lại không hề có dấu giày xung quanh ngôi nhà chính. Giả sử nếu họ lẻn ra đường từ cửa trước thì họ có thể đi xung quanh khu nhà và vào qua cổng sau. Sáng ngày 26, Tomoko xúc tuyết ở các bậc cấp đá từ sáng sớm và cho biết chỉ có dấu giày của thằng bé đưa báo, tất nhiên không có nhân chứng nào khác chứng thực lời cô. Masako cũng đã xác nhận rằng buổi sáng khi bà thức dậy, không có bất cứ dấu giày nào gần bức tường bao quanh khu nhà chăng dây thép gai bên trên khiến cho việc men theo hoặc trèo qua tường là hoàn toàn không thể.”
“Vợ cũ của Heikichi, bà Tae, và con gái Tokiko làm chứng cho nhau. Tae nói rằng Tokiko ở chỗ bà ấy vào ngày 25. Trong số các con gái, chỉ có Tokiko có chứng cứ ngoại phạm được người khác chứng thực, nhưng vì đó lại là mẹ ruột nên chứng cứ ngoại phạm của Tokiko không hoàn toàn đáng tin cậy.”
“Tôi hiểu. Vì vậy tất cả đều là đối tượng tình nghi. Nào, thế còn cô người mẫu bí ẩn chưa bao giờ xuất hiện thì sao?”
“Ồ, cảnh sát nghi ngờ rằng dấu giày nữ có thể do một người mẫu để lại. Umezawa thường thuê người mẫu qua Câu lạc bộ Người mẫu Fuyo ở Ginza, hoặc qua một trong những mối quen của Yasue. Nhưng không tìm ra ai làm mẫu cho Umezawa vào ngày 25. Ngoài ra, theo lời Yasue, Umezawa đã rất phấn khích vì tìm được một người mẫu phù hợp hoàn toàn với những gì ông ấy yêu cầu. Ông ta thực sự cảm thấy hạnh phúc vì đã tìm được thiếu nữ trong mơ của mình. Umezawa dự định sẽ dành tất cả nhiệt huyết để hoàn thành bức tranh này, bởi vì nó sẽ là cơ hội cuối cùng để ông ấy làm được việc gì đó lớn lao.”
“Ừm,” Kiyoshi lầm bầm. Cậu ta nhắm mắt và nằm ườn trên tràng kỷ.
“Anh vẫn đang nghe tôi đấy chứ?” Tôi hỏi. “Tôi kể toàn bộ câu chuyện chỉ vì muốn tốt cho anh đấy! Tiếp tục nào!”
“Tất nhiên là tôi đang nghe! Tiếp tục đi nào anh bạn…”
“Cô người mẫu mà Umezawa muốn vẽ là một người cung Bạch Dương, giống với cung chủ đề của bức tranh còn lại, anh nhớ nhé. Ông ấy có thể sử dụng con gái mình là Tokiko, người thuộc cung Bạch Dương, nhưng cảnh sát suy luận rằng Heikichi đã mời một người khác bởi vì người mẫu này chắc chắn phải khỏa thân.”
“Đúng đấy.”
“Vì vậy cảnh sát đã tới tất cả các địa điểm môi giới ở Tokyo để tìm kiếm một người mẫu giống Tokiko. Cuộc điều tra kéo dài một tháng, nhưng họ không tìm thấy ai cả. Sau Sự kiện 26-3, cảnh sát quá bận rộn nên không thể tiếp tục điều tra, vụ Heikichi bị khép lại. Họ kết luận rằng ông Umezawa chắc hẳn đã thuê một cô gái trên đường hoặc trong quán rượu. Có thể cô ta rất cần tiền và sẵn sàng làm mẫu khỏa thân nhưng lại muốn giữ kín chuyện đó. Có thể cô ta đã có chồng. Nhưng dù sao thì người mẫu đó cũng chẳng bao giờ xuất hiện.”
“Tất nhiên là không đời nào nếu cô ta phạm tội!” Kiyoshi lên tiếng.
“Hả?”
“Chậc, hãy cứ cho rằng cô người mẫu đã giết Heikichi,” cậu tiếp tục. “Cô ta có thể che giấu dấu giày của mình bằng giày của đàn ông, đúng không? Do đó…”
“Giả thiết này đã bị loại trừ,” tôi ngắt lời. “Nếu cô ta mang theo một đôi giày nam, chắc chắn cô ta phải mong tuyết rơi. Nhưng không ai biết rằng sẽ có tuyết, tới 2 giờ chiều hôm đó tuyết mới bắt đầu xuất hiện. Mấy cô con gái của Heikichi nói rằng từ khoảng 1 giờ chiều, rèm xưởng vẽ buông kín, thông thường đó là dấu hiệu cho biết có người đang ở cùng cha họ. Tất nhiên là cô người mẫu có thể đi giày của Heikichi nhưng đôi giày của ông ta vẫn còn nguyên ở vị trí hằng ngày nơi tiền sảnh. Cô người mẫu không thể quay lại xưởng vẽ để trả chúng.”
“Nếu như có một người mẫu.”
“Đúng, nếu có một người mẫu.”
“Hung thủ có thể bỏ đi với một đôi giày nam và tạo ra các dấu giày của phụ nữ.”
Tôi gật đầu. “Đúng, rất có thể.”
“Nhưng đợi đã… Nó đã chẳng có nghĩa gì. Nếu hung thủ là phụ nữ và muốn đóng giả đàn ông, ả chỉ cần tạo dấu giày của một người đàn ông. Tại sao kẻ đi đôi giày nam lại cần phải tạo ra dấu giày của phụ nữ nữa nhỉ? Thật là buồn cười!”
“Có gì sai nào?”
“Anh làm tôi điên cái đầu. Anh chẳng khác gì cơn bão tuyết trong ngày 25, ào ào đến rồi đi, bắt đầu và kết thúc. Anh chỉ cần cung cấp dữ liệu cho tôi thôi.”
“Tôi xin lỗi. Anh muốn giải lao không?”
“Không, cảm ơn,” Kiyoshi nói, đưa hai ngón trỏ xoa xoa thái dương.
“Được rồi. Dữ liệu. Chà, không hề có bằng chứng để lại hiện trường. Heikichi là người hút thuốc lá liên tục, cho nên có rất nhiều đầu mẩu thuốc trong gạt tàn. Có một vài dấu vân tay của ông ấy, của người em trai và một số vân tay khác không xác định được, có thể là của những người mẫu ông ấy thuê. Không hề có bất kỳ dấu hiện nào của việc cố gắng xóa dấu vân tay.”
“Ừm.”
“Không tìm thấy hung khí giết người. Chẳng có gì trong xưởng vẽ có thể làm dụng cụ gây án.”
“Có thứ gì gợi ý như lời nhắn lúc hấp hối của Heikichi không?” Kiyoshi hỏi. “Bức vẽ biểu tượng cung hoàng đạo nào đấy chẳng hạn. Ông ấy có thể kéo một bức xuống lúc đang hấp hối và cố gắng chỉ ra dấu hiệu của kẻ giết người.”
“Có lẽ ông ấy không có thời gian.”
“Ừm. Hoặc ông ấy đã cố gắng truyền đạt một thông điệp bằng cách cắt râu của mình…”
“Người ta cho rằng ông ấy đã chết ngay lập tức.”
“Ngay lập tức hả?”
“Đúng,” tôi đáp. “Chà, tôi vừa nói với anh tất cả những gì tôi biết, bây giờ đến lượt anh bắt đầu phần suy luận của mình!”
“Hừm. Tất cả đã có bảy cô con gái và cháu gái bị giết phải không?”
“Phải.”
“Như thế có thể loại trừ họ ra khỏi danh sách nghi phạm.”
“Hãy cẩn trọng, đừng lẫn lộn giữa vụ giết Heikichi với những vụ khác.”
“À, phải. Nhưng từ quan điểm động cơ, đến giờ chúng ta đã có gì rồi? Chà, có những thành viên trong gia đình muốn - hoặc không muốn - xây khu chung cư. Hoặc các cô con gái bằng cách nào đó đã nghe phong thanh về ý tưởng điên rồ muốn tạo ra Azoth và đã giết chết Heikichi trước khi ông giết họ. Hoặc một tay môi giới nghệ thuật tin rằng chuyện giật gân như thế này sẽ làm tăng giá các bức tranh của Heikichi. Hoặc… gì nữa nhỉ?... Kazumi, sau vụ án mạng, tranh của ông ấy bán được giá bao nhiêu tiền?”
“Những bức tranh sơn dầu chủ đề hoàng đạo cỡ lớn có giá trị tương đương cả một căn nhà.”
“Ha! Vậy là mười một bức tranh có thể đổi thành mười một căn nhà?”
“Đúng, nhưng điều đó không xảy ra cho tới hơn mười năm sau. Đầu tiên là chiến tranh Trung - Nhật, sự kiện Trân Châu Cảng, rồi đến Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không bán được nhiều tranh vào thời điểm này. Sau đó, cuốn Tokyo hoàng đạo án được xuất bản và ngay lập tức bán rất chạy. Tae đã kiếm bộn tiền nhờ cuốn này, rất có thể Yoshio cũng không hề kém cạnh. Lúc đó giá của các bức tranh mới bắt đầu tăng vọt.”
“Tôi hiểu. Câu chuyện có rất nhiều điểm bí ẩn. Chắc hẳn nó gây xôn xao dư luận.”
“Đúng như vậy. Trên thực tế, dư luận xôn xao đến mức có thể viết hẳn một quyển sách về chính hiện tượng xôn xao ấy! Một học giả lớn tuổi cho rằng suy nghĩ của Heikichi bệnh hoạn - đủ khiến cho thần linh phải nổi giận và cái chết khủng khiếp của ông ta chính là biểu hiện của cơn giận đó. Khắp nơi người ta đặt ra vấn đề đạo đức. Một vài kẻ quá khích còn xông vào nhà Umezawa. Người ta đã phải gọi cảnh sát tới. Người dân thuộc mọi tầng lớp xã hội - nhà truyền giáo, nhà tâm linh, đồng cốt - đổ ra từ mọi ngõ ngách của Nhật Bản.”
“Hay đấy!” Kiyoshi kêu lên, vẻ hứng khởi thoáng hiện ra trên khuôn mặt cậu.
“Vậy anh nghĩ sao? Dựa trên toàn bộ dữ kiện đã có, anh nghĩ kẻ giết Heikichi đã gây án thế nào đằng sau cánh cửa bị khóa?”
“Ồ, dễ thôi,” Kiyoshi vươn vai trả lời. “Hung thủ đã treo cái giường lên trần nhà và làm nó rơi xuống đầu ông ấy.”
“Làm sao anh suy luận như thế được?”
“Chậc, hung khí là một vật phẳng,” Kiyoshi tiếp tục. “Một cái bảng gỗ, thậm chí bề mặt sàn nhà cũng có thể là hung khí. Cũng chẳng có gì là kỳ quái với cái khóa nếu đích thân Heikichi tự khóa cửa. Cảnh sát tìm thấy ghi chép của ông ấy trong đó có nói đến chuyện tự tử, chi tiết rất có lời cho kẻ giết người - hoặc những kẻ giết người - nhưng trên thực tế ông ấy lại chết bởi một đòn đánh vào gáy, nên loại trừ khả năng tự tử. Thành thử chuyện phải như tôi vừa nói thôi.”
“Quá hay! Anh giỏi lắm! Cảnh sát phải mất một thời gian dài để tìm ra điều này.”
“Ý của anh là cảnh sát đã nghĩ đến cái giường rồi phải không? Ồ, tôi thấy nói chuyện mệt rồi…” Kiyoshi thở dài thất vọng.
“Được rồi,” tôi nói, “để tôi giải thích giả thiết đó cho anh. Giường của Heikichi có bánh xe. Bốn người trèo lên mái nhà, gỡ tấm kính ở cửa trời, thả một đoạn dây dài có cái móc ở đầu để móc vào thành giường và kéo lên cao. Họ biết Heikichi - lúc này đang nằm trên giường - sẽ ngủ như chết do tác dụng của thuốc an thần. Họ thả thêm ba đoạn dây nữa, giữ chặt cái giường và bắt đầu kéo cái giường lên phía trần nhà. Họ dự định sẽ đầu độc ông ấy bằng hợp chất xyanua kali hoặc cắt cổ tay ông ấy, hoặc cách gì đó giống như một vụ tự tử khi đã kéo Heikichi lên tầm tay của họ. Nhưng sự việc thất bại: kéo cái giường lên cao hóa ra không dễ dàng gì, họ không thể giữ được nổi thăng bằng. Từ độ cao 15 mét, Heikichi ngã đập đầu và chết.”
“Hay, chính là như thế.”
“Anh đúng là một thám tử giỏi, Kiyoshi ạ. Cảnh sát đã phải mất một tháng để tìm ra điều này.”
“Ừm.”
“Nhưng còn những dấu giày trên tuyết thì sao? Anh nghĩ sao về chúng?”
“Hừm…”
“Thế nào?”
“Đâu phải là chuyện gì to tát, đúng không? Dấu giày tập trung bên dưới cửa sổ bởi vì đó là nơi họ đặt thang. Cần ít nhất là bốn người mới kéo được cái giường lên. Có thể thêm một người nữa dưới đất là năm. Điều này giải thích cho việc có nhiều dấu chân ở ngay chỗ đó. Bọn họ đều là vũ công ba lê đúng không? Có nghĩa là họ có thể đi bằng đầu ngón chân, cẩn thận để giẫm đúng vào dấu chân của người đi trước. Một điều không thể tránh khỏi là dấu chân của họ tạo thành một độ nghiêng, vì vậy người cuối cùng giẫm lên từng dấu chân bằng một đôi giày nam. Lẽ đương nhiên, cách suy luận này đã giới hạn các nghi phạm, đúng không nào?”
“Anh đúng là một thiên tài! Quả là một thiệt hại lớnho quốc gia khi anh quyết định trở thành một thầy bói nhà quê!”
“Anh biết đấy,” Kiyoshi tiếp tục, “bọn tội phạm hầu như luôn để lại dấu vết.”
“Bởi thế mới có những dấu chân và dấu giày nam giẫm lên mọi dấu vết khác, kể cả dấu của chiếc thang. Anh giỏi thật đấy Kiyoshi ạ, thực sự là rất tuyệt! Tôi không thích nói thế này nhưng thực tế tất cả những điều anh vừa suy luận hoàn toàn đúng như kết quả điều tra. Bí ẩn thực sự bắt đầu từ đó…”
Lời tôi nói dường như làm Kiyoshi tự ái. “Ồ, thật à?,” cậu cong môi. “Hừm. Chà, tôi đói rồi! Chúng ta xuống nhà tìm cái gì ăn thôi.”
Mời các bạn theo dõi tiếp!