Ngày hôm sau tôi đột nhiên bận túi bụi với công việc, tới tối mịt tôi mới gặp được Kiyoshi. Cậu cũng không liên lạc với tôi. Có lẽ cậu phải tập trung vào bí ẩn về những con số. Là một họa sĩ vẽ tranh minh họa tự do, thỉnh thoảng tôi cảm thấy khó chịu với công việc của mình vì nó không cho tôi quyền lựa chọn. Tôi muốn tiếp tục tranh luận về các vụ án mạng, nhưng để khách hàng khó chịu đồng nghĩa với việc tôi có thể mất họ mãi mãi.
Tôi đã từng phàn nàn với Kiyoshi, “Nếu tôi chuyển sang một công việc theo giờ hành chính thì cuộc sống của tôi sẽ dễ dàng hơn.”
“Cứ treo một củ cà rốt trước mặt con ngựa, thể nào nó cũng chạy!” Kiyoshi nói và đứng bật dậy. “Có người trong khóm hồng gai. Dùng rìu chặt sạch hồng, gã loay hoay tìm cách tiếp cận ngôi nhà. Anh đã thấy hình ảnh đó chưa?”
Tôi không hiểu ý cậu là gì, nhưng vẫn gật đầu như thể đã hiểu.
“Cắm đầu cắm cổ hì hục làm một việc gì đó không phải lúc nào cũng bõ công đâu. Chỉ cần leo lên hàng rào và nhìn xung quanh, anh ta sẽ thấy rằng đích đến thực ra ở rất gần.”
Hiển nhiên là tôi trông ngơ ngác ra mặt.
“Thật xấu hổ!” Kiyoshi thở dài nói. “Nếu anh không hiểu thì ngay cả kiệt tác của Picasso cũng sẽ chẳng còn giá trị gì.”
Tôi chỉ hiểu phần sau câu nói. Bạn tôi hàm ý rằng làm việc hùng hục không suy nghĩ như một con trâu là điều ngớ ngẩn. Nhưng tôi nghĩ có lẽ cậu sợ cô đơn. Nếu tôi có một công việc đều đặn thì sẽ chẳng còn ai bầu bạn với cậu ấy nữa. Niềm kiêu ngạo của Kiyoshi lớn đến mức cậu không thể nói thẳng sự thật đó với tôi.
Sau một ngày bận rộn, tôi tới gặp Kiyoshi. Trông cậu rất phấn khởi. Mỗi lần chúng tôi gặp nhau, thường thì Kiyoshi nằm dài ra sofa như thể đang lênh đênh trên một cái bè giữa đại dương. Nhưng lần này cậu lại đứng và đi đi lại lại như một con thoi, nhại theo những bài diễn văn tranh cử phát ra từ mấy chiếc xe phát thanh lưu động ngoài đường.
“Chúng ta đấu nhau nào,” Kiyoshi nói bằng giọng chói lói nhưng thiếu quả quyết, bắt chước y hệt nữ ứng viên Otome, “hoặc là những công dân Nhật Bản chúng ta đây sẽ ở trong tình trạng vô cùng bí bách về tài chính!” Đột nhiên giọng cậu trầm hẳn xuống, “Kanno! Kanno! Kanno! Mansaku Kanno hứa với quý vị về dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà quý vị xứng đáng được hưởng!”
Rõ ràng là có chuyện gì đó thuận lợi mới khiến Kiyoshi như vậy. Quay về phía tôi, cậu vẫy tay, cười toe toét và thông báo, “Tôi đã khám phá được bí ẩn 4-6-3! Mấy cái xe phát thanh lưu động kia khiến tôi phát bực, nhưng tôi đã tìm được lời giải.”
Tay cầm cốc cà phê, cậu bắt đầu giải thích.
“Là thế này, Kazumi. Chúng ta biết đâu là trung điểm của đường trục đông bắc-tây nam ở Nhật Bản. Nhưng chúng ta không biết trung điểm đường trục bắc-nam là ở đâu. Theo Heikichi, điểm cực bắc của Nhật Bản là Kharimkotan ở vĩ độ 49o11’ Bắc, còn điểm cực Nam là Iwo Jima ở vĩ độ 24o43’ Bắc. Như thế vĩ độ 36o57’ Bắc là trung điểm. Kẻ đường trục tâm đông-tây, ở kinh tuyến 138o48’ Đông, anh sẽ tìm ra chỗ nào đó quanh khu trượt tuyết Ishiuchi tại Niigata.”
“Heikichi cũng nói đảo Hateruma, nằm ở vĩ độ 24o3’ Bắc, mới là điểm cực nam thật sự của Nhật Bản, cho nên tôi cố gắng tìm tâm điểm giữa Kharimkotan và Hateruma. Đó là vĩ độ 36o37’ Bắc. Đường này cắt kinh tuyến 138o48’ Đông ở đâu đó quanh suối nước nóng Sawatari thuộc tỉnh Gumma. Các vị trí của Ishiuchi và Sawatari cách nhau khoảng 20’. Số liệu này có thể rất quan trọng.”
“Heikichi mô tả núi Yahiko, ở vĩ độ 37o42’ Bắc, là cái rốn của nước Nhật. Núi Yahiko và khu trượt tuyết Ishiuchi chính xác cách nhau 45’, nhưng vẫn chẳng có gì liên quan đến các số 4,6 hay 3 cả. Khoảng cách giữa núi Yahiko và Sawatari là 65’ - vẫn không phải con số chúng ta tìm kiếm.”
“Cho nên tôi nằm vật ra sàn một lúc, chợt một ý tưởng tuy ệt vời lóe lên trong óc tôi. Tôi tìm vĩ độ và kinh độ của sáu khu mỏ nơi tìm thấy xác các cô gái. Tôi đã lập một danh mục. Nhìn này…” Kiyoshi nói vẻ đắc thắng và quăng một tờ giấy cho tôi. Đây là những gì viết trên đó:
“Khi tôi tính trung bình cộng những kinh độ này, tôi thu được kết quả kinh ngạc: 138o48’ Đông. Anh có biết đó là đâu không? Đó chính là địa điểm Heikichi chọn làm trục đông-tây. Như vậy sáu khu mỏ không hề trùng hợp ngẫu nhiên đâu! Tiếp nữa, tôi tính trung bình cộng vĩ độ của sáu khu mỏ và kết quả là 37o27’ Bắc. Vĩ tuyến này cắt 138o48’ Đông ở đâu đó thuộc vùng tây Nagaoka. Nếu anh so sánh vị trí này với trung điểm của đường bắc-nam giữa Kharimkotan và Iwo Jima thì chúng chỉ cách nhau 30’. Giữa 37o27’ Bắc và núi Yahiko, khoảng cách chỉ còn 15’.”
©STE.NT
“Như bậy giờ chúng ta đã có bốn điểm, kể cả núi Yahiko, sắp hàng trên kinh tuyến 138o48’ Đông. Đi từ nam lên bắc; trước hết gặp trung điểm giữa Kharimkotan và Hateruma; 20’ Bắc tính từ đó chính là trung điểm giữa Kharimkotan và Iwo Jima; 30’ Bắc tính từ đó là vĩ độ trung bình của sáu khu mỏ; và cuối cùng, 15’ Bắc từ đó là núi Yahiko. Bốn điểm được bố trí trên đường 138o48’ đông với khoảng cách là 20’, 30’ và 15’. Chia những khoảng cách này cho 5 anh sẽ có các số 4, 6 và 3; cộng lại anh có 13!”
“Khi cộng bốn điểm này và sau đó đem chia cho bốn, kết quả là 37o9,5’ Bắc. Điểm này cắt kinh tuyến 138o48’ Đông tại nơi nào đó trên ngọn núi ở thị trấn Toka, tỉnh Niigata. Chắc chắn đó là chỗ của Azoth! Anh biết không, Kazumi, cà phê tôi pha lúc nào cũng tuyệt, nhưng hôm nay là tuyệt nhất! Anh có thấy vị khác không?” Nói xong, cậu phá lên cười.
“Ừm, có, vị cũng ổn…”
“Hả? Chỉ thế thôi à? Này, tôi đã giải quyết xong câu đố 4, 6 và 3! Tôi thậm chí còn vẽ sơ đồ cho anh. Đây này.”
“Chà, tuyệt, anh cừ thật,” tôi miễn cưỡng đáp lời. Tôi không muốn làm tổn thương Kiyoshi, nhưng cậu không biết rằng kết luận này cũngđã được một vài thám tử nghiệp dư mẫn cán khác đưa ra. “Thật sự rất đáng khâm phục. Anh đi đến chặng đường này chỉ trong một đêm, có thể xem là kỷ lục…”
“Sao cơ? Ý anh là trước đây đã có người khác làm được việc này rồi à?”
“Chậc, bốn mươi năm đã qua kể từ các vụ án mạng, Kiyoshi ạ. Ngay một người bình thường cũng có thể xây xong một Kim tự tháp trong chừng ấy thời gian.”
Kiểu phản ứng khá thẳng thừng này chính tôi học được từ Kiyoshi, nay tôi áp dụng ngược lại với cậu ấy. Đương nhiên cậu không thể vui thích trước nhận xét đó của tôi. Đá cái trường kỷ, cậu hét lên bực bội “Tôi chưa bao giờ dính vào vụ nào vớ vẩn như thế này cả! Tôi đang làm gì nữa không biết? Chỉ làm giẫm lên con đường đã đi của người khác ư? Anh đã biết hết mọi câu trả lời, và anh đang thử tôi! Tại sao anh lại lãng phí thời gian của tôi như thế này chứ?”
“Không phải, Kiyoshi, không…”
Kiyoshi đứngbên cửa sổ, không chịu quay lại, cũng chẳng thèm trả lời.
“Kiyoshi, tôi chỉ…”
“Tôi biết ý anh là gì,” cậu nói, xoay lại đối diện với tôi. “Tôi không nghĩ mình tài ba lỗi lạc. Tất cả chúng ta cùng sống trên một hành tinh, tất cả chúng ta cùng chung ý thức và cảm xúc, nhưng thật sự điều đó có làm cho chúng ta là những con người như nhau không? Hãy thử nhìn giới doanh nhân Tokyo, hãy nhìn người dân Thái Lan trồng lúa, hãy xem đám nghệ sĩ và chủ nhà băng. Chắc chắn chúng ta là những người có ý thức, nhưng nghiệp quá khứ và hiện tại của chúng ta khác nhau. Chúng ta sống cuộc đời khác nhau và chết đi trong những ngôi mộ khác nhau. Cuộc sống của chúng ta chỉ là một đám bụi vũ trụ nổ tung, hoặc là một đám mây trôi qua. Tôi không phải một kẻ lập dị, mà chính những người khác ấy. Tôi cảm thấy như tôi đang sống trên Sao Hỏa. Khi tôi quan sát sự tồn tại của những người khác và cố gắng hiểu cuộc sống của họ, tôi thấy chóng hết cả mặt!”
Cậu đang hết sức nghiêm túc.
“Kiyoshi này, vừa rồi anh không được khỏe cho lắm… Anh đã suy nghĩ quá nhiều… Anh sẽ tự làm mình phát rồ mất… Sao anh không ngồi xuống và thư giãn đi?”
“Tôi không thèm quan tâm đâu!” Kiyoshi hét ầm lên, chẳng buồn nghe nói. “Tất cả chúng ta đều đang nhọc nhằn xoay xở, đi theo hướng sai lầm. Tất cả nỗ lực của chúng ta đều vô dụng, Kazumi ạ. Người ta chẳng đi đến đâu hết! Hỉ, nộ, ái, ố của chúng ta - tất cả đến rồi đi như một cơn bão, một trận cuồng phong hay một mùa anh đào mà thôi. Tất cả chúng ta đều bị thúc đẩy bởi những cảm xúc của chính mình và bị cuốn đi tới cùng một chỗ. Không ai trong chúng ta có thể cưỡng được nó. Anh nghĩ xem có cái gì là lý tưởng không? Làm gì có! Chỉ tương đối thôi! Rồi chúng ta cũng hiểu ra rằng mọi nỗ lực của chúng ta là vô ích.”
Kiyoshi đổ vật người xuống trường kỷ.
“Đúng, tôi hiểu ý anh là gì…”
Kiyoshi nhìn xoáy vào tôi. “Anh biết thật ư? Làm sao anh biết được?” Cậu nói. Sau đó, có vẻ hối hận, cậu lại nói thêm, “Rất xin lỗi, không phải tại anh. Bỏ qua cho tôi. Anh không nghĩ tôi là một thằng điên, đúng không? Cảm ơn anh. Có lẽ anh là một trong những người nghĩ rằng mình rất tầm thường, nhưng anh tốt hơn hẳn những người khác. Được rồi, chúng ta trở lại với sơ đồ nào. Có tìm thấy bất cứ thứ gì ở chỗ anh đã nhắc đến lúc trước không?”
“Cái gì cơ? Chỗ nào nhỉ?”
“Nào! Tôi đang nói về ‘trung tâm 13’ Đông Bắc thị trấn Toka. Các thám tử nghiệp dư đổ dồn về đó như ong, tôi dám cá như vậy.”
“Phải rồi, tôi cho rằng đến lúc này thì thị trấn nhỏ bé ấy hẳn đã trở thành một điểm du lịch.”
“Có khi người ta còn bán bánh quy có hình Azoth cũng nên.”
“Chắc chắn rồi.”
“Thế họ có tìm thấy gì ở đó không?”
“Không.”
“Kh ông có gì à? Hoàn toàn không có gì?”
“Chẳng có gì cả.”
“Tức là cho dù Heikichi chỉ để lại mấy con số bí ẩn - 4, 6 và 3 - nhưng hung thủ lại biết chính xác địa điểm mà những con số ấy gợi ý. Tôi băn khoăn không rõ hai người đó có phải là một hay không.”
“Chính xác! Đó là những gì tôi đang nghĩ!”
“Có thể hung thủ đã phải thay đổi kế hoạch của hắn vì một lý do nào đó, hoặc đã tìm được một chỗ tốt hơn… hoặc chôn Azoth rất sâu. Đã có ai đào bới khu vực đó chưa?”
“Chắc chắn là người ta làm rồi. Họ đào khắp nơi. Trông như bị ném bom không khác gì Iwo Jima.”
“Như Iwo Jima à? Heikichi có đề cập đến cái tên này ở đâu đó… Nhưng lại chẳng tìm thấy gì ư? Thế còn đặc điểm địa lý khu vực thì sao? Còn chỗ nào người ta chưa động tới không?”
“Tôi nghĩ là không. Vùng đất tương đối bằng phẳng. Người ta đã đào bới khu vực đó suốt bốn mươi năm rồi.”
“Hừm. Có lẽ Azoth chưa bao giờ được tạo ra.”
“Biết đâu quá trình phân hủy diễn ra nhanh hơn hắn dự tính, tức là hắn phải dựa vào phương pháp nhồi bông. Liệu hắn có biết gì vỠchuyện đó không nhỉ?”
“Có thể hắn cũng đã nghiên cứu rồi.”
“Anh nghĩ vậy à?”
“Heikichi không đề cập đến điều đó trong ghi chép của mình, nhưng ý tưởng ấy không hề phi lý. Nếu hung thủ phải ghép các phần cơ thể khác nhau thì các phần ấy sẽ bắt đầu thối rữa chỉ trong một ngày. Sẽ thỏa đáng hơn nếu hắn đem lại cho Azoth một cuộc sống mới. Tôi nghĩ hắn phải làm gì đó để duy trì nó, thậm chí chưa hẳn là hoàn hảo.”
“Heikichi tin rằng Azoth sẽ tồn tại mãi mãi, như Đệ tam Đế chế của Hitler.”
“Ông ta không nghiêm túc đến vậy,” tôi đáp. “Chậc, ông ta chỉ có thể thôi. Đó là một kẻ điên.”
“Đúng như vậy… Tôi có một ý khác, Kazumi ạ.”
“Gì vậy?”
“Toàn bộ câu chuyện của Heikichi là một sự hư cấu tuyệt vời.”
“Không. Tôi không nghĩ vậy. Nghe không khả thi.”
“Thật ư? Tại sao anh lại nghĩ vậy?”
“Bởi vì chắc chắn phải có gì đó liên quan đến kinh tuyến 138o48’ Đông.”
“Ý anh là sao?” Kiyoshi hỏi.
“Chậc,” tôi đáp lại, “nói thế này có vẻ hơi ngoài lề, nhưng Heikichi không phải là người duy nhất có ý tưởng này trong đầu. Nhà văn bí ẩn Seicho Matsumoto cũng từng viết về nó trong cuốn Kinh tuyến 139 độ Đông. Chắc anh không hay đọc tiểu thuyết bí ẩn như tôi. Anh đã nghe nói đến chưa?”
“Chưa.”
“Chà, dường như nó hỗ trợ cho quan điểm lịch sử của Heikichi. Anh nghe nhé, ở Nhật thời xưa có hai kỹ thuật dự đoán số mệnh - kiboku và rokuboku. Giới đồng cốt dùng mũi xiên nhọn đâm vào n hững chỗ lõm trên xương bả vai của hươu, sau đó hơ trên lửa để những chỗ lõm đó rạn nứt ra. Họ đọc những vết rạn để tiên đoán về công việc săn bắn và mùa màng mỗi năm; cách đó gọi là rokuboku. Về sau, họ dùng mai rùa thay cho xương hươu, bởi vì rùa dễ bắt hơn, và phương pháp này gọi là kiboku.”
“Nào, chỉ có hai nơi ứng dụng kiboku. Một là đền Yahiko, gần biển Nhật Bản. Nơi còn lại là đền Shirahama trên bán đảo Izu, gần Thái Bình Dương, thẳng về hướng nam của Yahiko. Giữa hai ngôi đền này là ba ngôi đền khác: Đền Nukisaki ở tỉnh Gumma, đền Mitake và Akiru đều ở Tokyo. Năm ngôi đền này tọa lạc trên một trục bắc nam ở kinh tuyến 139o Đông, đây là những nơi duy nhất thực hiện kikobu và rokuboku.”
“Oa!”
“Và đã có người phát hiện ra các chi tiết rất thú vị này, trong tiếng Nhật Bản xưa, khi anh phát âm các số 1, 3 và 9, âm phát ra là hi, mi và kokonotsu, viết tắt là ko. Ghép lại với nhau, anh có ‘Himiko’, nữ hoàng huyền thoại của Nhật Bản!”
“Rất tuyệt vời. Nhưng đó thuần túy là một sự trùng hợp, phải không? Khái niệm kinh độ và vĩ độ dựa vào khoa học hiện đại, với điểm gốc nằm ở Greenwich tại Anh. Mặt khác, nữ hoàng Himiko giả định kia đã 2.000 năm tuổi. Có thể chẳng hề có mối liên hệ nào giữa hai bên.”
“Matsumoto không bàn luận chi tiết đó. Nhưng căn cứ vào thực tế rằng Himiko là một thầy phù thủy thì tôi dám nghĩ điều này hoàn toàn có khả năng. Tôi nghĩ bà ấy hẳn phải áp dụng cả kiboku và rokuboku suốt thời Đế chế Yamatai.”
“Ý anh là Đế chế Yamatai nằm trên kinh tuyến 139o Đông ư?”
“Không, nhưng theo truyền thuyết thì triều đại hậu Yamatai đã rời, hoặc bị buộc phải rời tới khu vực đó. Theo cuốn sách sử Trung Hoa viết vào giữa thế kỷ thứ 3, gia tộc Yamatai sống ở Kyushu. Không có chi tiết gì nói về gia tộc Yamatai trong bất kỳ tài liệu nào của Nhật Bản, chỉ nói về Đế chế Yamatai được hình thành vào thế kỷ 8 thôi. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với Yamatai. Có người nói nó bị tiêu diệt bởi thế lực đối kháng là Kuna hoặc bởi một bộ tộc từ Hoa lục đến. Heikichi là người theo quan điểm sau. Các nhà sử học nghĩ rằng Đế chế Yamatai bị hủy diệt hoặc sát nhập với chính quyền trung ương.”
“Theo tiểu thuyết của Matsumoto, chính quyền ép nhóm dân Yamatai, kể cả hậu duệ của nữ hoàng Himiko, phải di chuyển sang phía đông. Chính sách này ít nhiều được phản ánh ở thời kỳ Nara, khi chính quyền quyết định rằng Kanto ở đông Nhật Bản - bao gồm Kazusa, Kozuke, Musashi và Kai - là nơi bố trí dân tị nạn Triều Tiên. Matsumoto nghĩ rằng gia tộc Yamatai có thể là trường hợp đầu tiên bị cưỡng bức di trú trong lịch sử Nhật Bản. Thú vị đấy chứ, phải không?”
“Hừm.”
“Chúng ta hãy quay trở lại với bí ẩn về kinh tuyến 139o Đông, điều rõ ràng cũng thu hút trí tưởng tượng của Matsumoto. Như tôi đã nói, có năm ngôi đền dọc theo đường chạy dọc từ Yahoko đến Shirahama, và rất gần kinh tuyến 138o48’ Đông mà Heikichi đã nhắc đến trong ghi chép của mình. Đường này có vẻ là trung tuyến giữa kinh tuyến 124o Đông - nơi có quần đảo Sakishima của Okinawa - và kinh tuyến 154o Đông, nơi có đảo Shiashkotan - liền kề với Kharimkotan - được ông ấy xem là điểm cực đông của Nhật Bản. Chúng ta không biết liệu các nhà tiên tri ngày xưa có cố tình chọn trung tâm của đất nước làm nơi thực hiện những lời tiên tri của mình không, nhưng cho đến giờ ý tưởng của Heikichi không hoàn toàn vô lý.”
“Không, rõ ràng là không hề.”
“Còn cuốn tiểu thuyết Chiều khóa vàng của Akimitsu Takagi nữa.”
“Cũng nói về chính kinh tuyến này à?”
“Chà, hơi phức tạp một chút. Tiểu thuyết tập trung vào quá trình suy tàn của Thời đại Edo[1]. Hai đại thần chịu trách nhiệm chính về sự suy tàn này là Katsu Kaishu và Oguri Kozukenosuke. Katsu là người thận trọng thuộc phe chủ hòa, còn Oguri thuộc phe chủ chiến sẵn sàng tấn công các lực lượng liên minh của Satsuma và Choshu bất kể quân đội Edo bấy giờ đã rất suy yếu. Sự thận trọng của Katsu thắng thế, nhưng sau này một vị tướng của Satsuma là Saigo Takamori khi biết được chiến lược của Oguri đã rất khiếp hãi. Chiến lược của Oguri như thế này: Edo sẽ rút quân lui về Hakone và Odawara, để dụ các lực lượng liên minh tiến về phía đông ở bờ biển Tokaido. Tại Hakone, quân Edo đã bố trí sẵn nhiều chiến thuyền hiện đại gần bờ biển. Edo sẽ phản công và đẩy kẻ địch lui về Okitsu, một thị trấn nằm trên một rẻo đất hẹp giữa một gờ núi và biển. Lực lượng liên minh sẽ không còn chỗ ẩn nấp khi các tàu chiến của quân Edo tấn công.
[1] Thời đại Edo là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự thống trị của Mạc phủ Tokugawa và các Shogun (tướng quân) có trung tâm hành chính ở Edo (Tokyo hiện nay). Thời kỳ này chấm dứt với Minh Trị Duy Tân, phục hồi quyền lực của Thiên Hoàng.
“Tướng quân Tokugawa Yoshinobu tỏ ra do dự, cho nên đề xuất của Oguri không được thực hiện. Nếu kế hoạch đó được triển khai tiến hành, biết đâu chính quyền Edo có thể đã bảo toàn được thể chế của mình. Nhưng đây tôi không nói về bài học lịch sử. Xét từ góc độ địa lý, các thị trấn Hakone và Okitsu cách kinh tuyến 138o48’ Đông một khoảng cách như nhau về hai hướng đông và tây. Tương tự, làng Gonda, nơi Oguri chào đời, nằm ngay kinh tuyến 138o48’ Đông. Sau này, Oguri bị liên minh bảo hoàng bắt, chặt đầu và mai táng - tất cả đều tại kinh độ 138o48’ Đông. Tiểu thuyết cũng kể chuyện trước khi thất thủ Oguri đã kịp chôn cất một lượng lớn của cải của chính quyền Mạc phủ trên núi Akagi, ở kinh độ 139o12’ Đông. Akimitsu nói rằng Oguri lựa chọn chắc chắn phải là đâu đó giữa Matsuida và Gonda. Nếu tác giả đúng thì nơi đó phải rất gần kinh độ 138o48’ Đông.”
“Mọi sự trùng hợp chưa dừng ở đó, phải không?”
“Không, chưa hề. Akimitsu cũng mô tả việc Nhật Bản do lo ngại quân đội Mỹ sớm sẽ đổ bộ nên đã lên kế hoạch di chuyển tổng hành dinh quân sự từ Tokyo về Matsushiro, miền nam Nagano, vào giai đoạn Chi n tranh Thế giới thứ hai. Matsushiro nổi tiếng với trận Kawanakajima[2], nơi hai phe tham chiến do Takeda Shingen[3] và Uesugi Kenshin[4] chỉ huy đã đánh một trận đẫm máu. Nhờ sức mạnh quân sự cùng một chút may mắn, Takeda đã chiến thắng. Chính phủ Nhật Bản vốn biết mình đang chiến đấu ở thế đường cùng nhưng vẫn hy vọng sẽ có được may mắn như Takeda. Họ hy vọng quân Mỹ đổ bộ lên bãi biển Kujukurihama và vịnh Sagami để chiếm khu vực Kanto trước, sau đó đưa quân lên đất liền để tấn công tổng hành dinh của Nhật tại Matsushiro. Giới quân sự Nhật hy vọng ngăn chặn việc này bằng cách bố trí một vài đơn vị dọc đường Nakasendo, nằm giữa Annaka và đèo Usui, nơi dự kiến sẽ diễn ra trận đánh ác liệt nhất. Mà thôi, mấu chốt tôi đang cố gắng đi đến là thế này: Matsuida nằm giữa Annaka và đèo Usui dọc vĩ tuyến 138o48’ Đông.”
[2] Cuộc chiến Kawanakajima là loạt 5 trận đánh nổi tiếng vào các năm 1553, 1555, 1557, 1561 và 1564 (thời kì Chiến Quốc của Nhật) tại bình nguyên Kawanakajima, phía Nam thành phố Nagano, Nhật Bản ngày nay.
[3] Được mệnh danh là “Con hổ xứ Kai”, là một lãnh chúa (daimyo) của vùng Kai và vùng Shinano trong thời Chiến Quốc của Nhật Bản.
[4] Được mệnh danh là “Con rồng xứ Echingo”, lãnh chúa (daimyo) của vùng Kai và vùng Shinano trong thời Chiến Quốc của Nhật Bản.
Đây đúng là một bài thuyết giảng huyên thuyên dông dài, nét mặt đờ đẫn của Kiyoshi đã nói lên điều đó. “Chậc, chắc khám phá khu vực đó sẽ thú vị lắm,” cậu lơ đãng nói.
“Thực tế đã có vài người khám phá hiện trường. Họ coi đấy như là một trong những trục thắng tích của nước Nhật.”
“A, trục thắng tích à? Giống trục thắng tích ở Anh quốc phải không?”
“Vậy là anh cũng đã nghe nói đến nó à?”
“Phải, dĩ nhiên rồi. Trục thắng tích là hiện tượng các địa danh cổ xưa nằm trên cùng một đường thẳng.”
“Chà, chúng ta cũng có hiện tượng tương tự tại Nhật Bản. Chẳng hạn, dọc vĩ tuyến 34o32’ Bắc, có nhiều đền thờ và địa danh cổ xưa sắp thành một đường thẳng chạy dài 600 km.”
“Hừm.”
“Cũng như vậy, ở đông bắc Hoàng cung tại Tokyo, có những đền thờ sắp thành một hàng, gồm Yasaki Inari, Hie, Ishihama và Tenso. Đây mới là chỗ bắt đầu thấy thú vị: có vài ngôi đền thờ các vị thần liên quan đến kim loại tọa lạc trên một đường bắc-nam nối Tsurugaoka Hachimangu ở Kamaruka và Toshogu ở Nikko.”
“A ha!”
“Người Nhật cổ, cũng như người Anh xưa, hẳn phải có một kiểu lý thuyết địa lý riêng để bố trí các thánh địa của mình.”
“Lão Heikichi điên rồ hẳn phải biết tất cả những điều đó.”
“Tôi đoán như vậy. Mà này, tôi nghĩ giờ tôi đã giải thích với anh tất cả mọi điều tôi biết về vụ việc rồi. Cùng với bằng chứng mới từ bà Iida, bây giờ tất cả những gì anh phải làm là giải quyết ba vụ việc…”
Quý vị có thể thắc mắc rằng điều gì khiến chúng tôi nghiêm túc với vụ án hoàng đạo đến vậy. Chà, mọi nguyên nhân bắt nguồn từ chuyến ghé thăm của một phụ nữ có tên Misako Iida. Vào một ngày đẹp trời, bà đến văn phòng gặp Kiyoshi.
Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng Kiyoshi có nhiều khách hàng. Văn phòng của cậu luôn vắng vẻ, trừ khi sinh viên lớp chiêm tinh đến học. Nhưng cũng có một số khách hàng, chủ yếu là nữ giới, được bạn bè giới thiệu đã tới nhờ cậu đoán vận mệnh. Bà Iida là một trong số đó. Nhưng đề nghị của bà lại rất, rất khác thường.
“Chuyện này có thể rất lạ lùng…” Bà chậm rãi bắt đầu. “Tôi đến đây thực ra không phải để coi bói dù điều đó có thể giúp tôi một chút. Tôi đến vì chuyện chẳng liên quan đến tôi, mà là chuyện của cha tôi.”
Trông bà hết sức nghiêm túc. Kiyoshi vẫn ngồi im lìm như đang câu cá trong hồ. Cậu lộ vẻ uể oải, chẳng buồn khích lệ khách hàng nói tiếp, nhưng lại chờ bà lên tiếng. Giống như khoảng lặng lúc bạn châm một điếu thuốc, đợi cho người đối diện tiếp tục nói. Nhưng Kiyoshi lại là người cực lực phản đối thuốc lá, nên cậu chỉ ngồi ngây như phỗng.
“Xin nói thật với ông,” bà Iida tiếp tục, “Lẽ ra tôi nên báo việc này với cảnh sát, nhưng tình thế không cho phép chúng tôi… Ông Mitarai, ông còn nhớ cô Mizutani không? Tôi tin cô ấy đã tới gặp ông khoảng một năm trước.”
“Cô Mizutani à…?” Mắt Kiyoshi chớp lia lịa. “Ồ, vâng. Cô ấy đến chỗ chúng tôi vì bị mấy cú điện thoại quấy rầy.”
“Chà, cô ấy là bạn của tôi. Cô ấy kể với tôi rằng ông cực kỳ có tài, không chỉ là thầy bói mà còn là một thám tử. Cô ấy thật sự ngưỡng mộ ông.”
“À…” Kiyoshi tự cho phép mình phổng mũi.
Ngừng lại một lúc, bà Iida đột ngột nói, “Tôi xin phép hỏi tên của ông có được không, ông Mitarai?”
Kiyoshi vô cùng bất ngờ trước câu hỏi, đó là câu cậu rất ghét nghe. “Có mối liên hệ nào giữa tên của tôi và câu chuyện của bà ư?” Cậu nhướng mày.
“Không, chỉ có điều cô Mizutani thắc mắc tại sao chẳng bao giờ thấy ông nhắc đến tên của mình.”
“Bà Iida, có phải bà đến đây chỉ để hỏi tên của tôi?”
“Là Kiyoshi,” tôi xen vào rất nhanh. “Kiyoshi Mitarai. Theo Hán tự tên anh ấy là Thanh Ty, nghĩa là ‘cầu tiêu sạch’. Tôi nói nghiêm túc đó!”
Mặt Kiyoshi bực bội thấy rõ.
Bà Iida nhìn xuống một lát, cố gắng nén tiếng cười. “Ồ, thật khác thường!” Bà thốt và ngước nhìn lên. Hai gò má ửng đỏ.
“Người đặt tên cho tôi có khiếu hài hước khác thường.” Kiyoshi đáp lại lập tức.
“Là cha ông à?”
Nét mặt Kiyoshi càng thêm u ám. “Vâng. Ông ấy trả giá cho điều đó bằng việc qua đời rất sớm.”
Lại im lặng một lúc nữa, nhưng lớp băng dường như đã bị phá tan.< /p>
Với khả năng diễn đạt trôi chảy, bà Iida bắt đầu kể. “Câu chuyện có một số chi tiết đáng hổ thẹn đối với cha tôi. Ông qua đời tháng trước, và tôi sợ rằng mọi việc có thể biến thành trách nhiệm hình sự nếu giới trức bắt đầu hỏi đến sự liên can của ông. Chồng và anh trai tôi có thể cũng gặp rắc rối to vì họ là sĩ quan cảnh sát như cha tôi. Tôi không có ý nói rằng cha tôi là tội phạm. Ông là một con người trung thực. Cha tôi nhiều lần được cơ quan tuyên dương và khen thưởng, thậm chí khi ông về hưu, cơ quan tổ chức một bữu tiệc tri ân rất hoành tráng để chia tay. Cha tôi luôn đúng giờ và mẫn cán, chưa bao giờ vắng mặt ở văn phòng dù chỉ một ngày. Tuy nhiên, tôi tình cờ phát hiện một sự kiện rất tệ mà cha tôi có can dự cách đây một thời gian dài.”
“Tôi tự nguyện tìm đến đây. Chồng tôi là một người khá bảo thủ, giống như cha tôi, nhưng anh trai tôi thì không. Anh ấy sống khá hướng nội và lạnh lùng, mà cũng rất bốc đồng. Cứ nghĩ đến những gì cha tôi đã phải trải qua, tôi không tài nào để anh ấy xử lý việc này được. Vấn đề bản thân nó đã quá tồi tệ rồi. Nếu ai đó có thể giải quyết hết ráo mà không làm tổn hại danh dự của cha tôi thì sẽ là điều tốt nhất cho tất cả.”
Iida ngừng lại, hít một hơi thật sâu.
“Cha tôi bị tội phạm lợi dụng,” bà tiếp tục. “Tôi tin chắc ông đã nghe nói về Tokyo hoàng đạo án, một vụ án giết người hàng loạt xảy ra trước Chiến tranh Thế giới thứ hai.”
Kiyoshi nói cậu không hề hay biết vụ đó, làm bà Iida phải nhìn chằm chằm vào cậu với ánh mắt kinh ngạc. Bà không thể tin được, tôi cũng vậy. Vụ án không chỉ rất nổi tiếng mà còn liên quan đến chiêm tinh học.
“Tôi hiểu,” bà nói vẻ miễn cưỡng. “Vậy tôi sẽ kể cho ông nghe, được không ạ?”
Bà bắt đầu thuật lại câu chuyện về cái chết của Heikichi, nhưng tôi ngắt lời, nói rằng tôi biết khá rõ sự vụ và sẽ kể mọi chi tiết cho Kiyoshi sau. Iida nhất trí và chỉ nói khái quát câu chuyện.
Sau cùng bà thêm, “Tên thời con gái của tôi là Takegoshi. Tôi là con gái của Bunjiro Takegoshi, cha tôi sinh ngày 23 tháng Hai năm 1905. Khi ông Umezawa bị giết, cha tôi chỉ mới 31 tuổi và đang làm việc tại đồn cảnh sát Takanawa. Khi đó cha mẹ tôi mới sinh anh trai tôi, còn tôi chưa ra đời. Gia đình tôi sống ở Kaminoge khi cha tôi bắt đầu tham gia vụ án.”
“Sau ngày cha qua đời, tôi dọn dẹp giá sách và tình cờ thấy phần ghi chép này. Đây là thủ bút của chính cha tôi ghi trên giấy văn phòng chính thức, loại dùng cho các thanh tra thuộc sở cảnh sát. Đọc nó mà tôi vô cùng choáng váng, không thể tin rằng cha tôi lại làm một việc như vậy. Ông ấy vốn là một người rất ngay thẳng, bảo thủ. Hẳn ông đã phải chịu đau đớn khủng khiếp, tôi cảm thấy rất thương ông… Tôi quyết định phải làm gì đó. Trong phần ghi chép, cha tôi thú nhận lỗi lầm của mình, điều mà dĩ nhiên chẳng sĩ quan cảnh sát nào muốn mắc phải cả. Đó là lý do tôi có mặt ở đây. Xin ông hãy giải quyết vụ này để cha tôi có thể an nghỉ, được không? Phần ghi chép đó đây. Xin hãy đọc nó. Ông sẽ thấy rằng cha tôi chết trong hối hận, giận dữ và hổ thẹn… Nếu không thể giải quyết được hoàn toàn, ít nhất ông cũng cố gắng tìm ra một lời giải thích thỏa đáng cho sự can dự của cha tôi, được không?”
“Tôi hiểu,” Kiyoshi trả lời, chẳng nói gì thêm nữa.
Về phần tôi, không có từ nào diễn tả được sự phấn khích trong tôi. Tôi cảm tạ Trời Phật đã để cho mình quen biết Kiyoshi Mitarai.
Tiễn bà Iida về rồi, chúng tôi cẩn thận đọc phần ghi chép của cha bà ấy.
Giải lao: Lời thú nhận của một cảnh sát
Lời thú nhận cuối cùng
Ba mươi tư năm phục vụ trong ngành cảnh sát chẳng để lại gì ngoài sự đau đớn. Tôi có bằng khen lồng khung kính và tước hiệu của một sĩ quan cảnh sát, nhưng chúng chỉ là những mảnh giấy vô nghĩa. Tuy nhiên, tôi không nghĩ mình là nạn nhân. Khi nỗi đau càng sâu thì người ta càng muốn che giấu nó. Tôi tin chắc tôi không phải là người duy nhất phải gánh chịu. Sự thật trần trụi thường được che giấu bằng những nụ cười giả tạo.
Khi tôi chấp nhận nghỉ hưu non ở tuổi 57, thuộc cấp của tôi đều không thể tin nổi. Một số anh em còn nghĩ rằng nguyên nhân chính là sức hấp dẫn của khoản lương hưu tăng đến 50%, nhưng đâu phải như vậy; cũng chẳng phải tôi không còn hứng thú với công việc của mình. Tôi chấp nhận trả giá bởi vì tôi muốn từ bỏ hết. Tôi chờ đợi ngày về hưu của mình như thiếu nữ mơ đến ngày vu quy.
Tôi biết rằng viết một bản thú nhận là rất mạo hiểm, nhưng “sự cố đó” luôn luôn ám ảnh tâm trí tôi trong suốt những năm qua. Tôi sẽ không thể thanh thản nhắm mắt xuôi tay nếu không chấm dứt nó. Bởi vậy tôi viết ra, dẫu biết rằng mình có thể thiêu hủy phần ghi chép này bất kỳ lúc nào.
Tôi luôn hoảng sợ. Địa vị càng cao thì tôi càng hoang tưởng. Khi con trai tôi bắt đầu bước lên nấc thang thành đạt cũng với tư cách một cảnh sát thì tôi gần như không thể chịu đựng nỗi sợ hãi của mình. Tôi không còn đường thoát. Nếu tôi bỏ việc, đồng nghiệp của tôi sẽ nghi ngờ. Nếu như mọi sự vỡ lở tôi sẽ bị bắt giữ ngay lập tức. Việc tôi từ chức cũng sẽ không thay đổi được tình thế của con trai tôi.
“Sự cố” mà tôi nhắc đến chính là vụ giết người hàng loạt ở gia đình Umezawa. Sau chiến tranh, giới tội phạm hoành hành dữ dội ở Nhật Bản. Ngày càng nhiều những vụ án kiểu này xảy ra ở vùng nông thôn và cũng nhiều trong số đó không bao giờ tìm ra lời giải. Vụ Umezawa do đồn cảnh sát Sakuradamon phụ trách điều tra. Lúc đó, tôi là chánh thanh tra tại đồn Takanawa. Thời ấy, thanh tra cảnh sát được khen thưởng tùy vào số lượng đối tượng tình nghi mà họ đưa ra truy tố. Tôi đủ xuất sắc để được thăng là chánh thanh tra ở tuổi 30. Tôi đã mua một căn nhà ở Kaminoge và sống cùng vợ với con trai đầu lòng của chúng tôi. Một cuộc sống mới tràn trề hy vọng đang trải ra trước mắt. Nhưng sau đó, tôi bất ngờ vướng vào một biến cố kinh khủng. Tôi vẫn còn khá do dự khi nhắc tới chuyện này, nhưng tôi phải dũng cảm thôi.
Khi tôi còn là một tranh tra cảnh sát trẻ, thỉnh thoảng tôi thức dậy sớm hơn vợ mình, đi làm và trở về nhà sau khi cô ấy đã đi ngủ. Vào thời điểm xảy ra biến cố, tôi được bổ nhiệm làm trưởng phòng, cho nên tôi đến nhiệm sở lúc 6 giờ sáng và trở về nhà sau 7 giờ tối một chút trên cùng một lộ trình. Một hôm, rời nhiệm sở như lệ thường, tôi xuống Kaminoge và bắt đầu đi bộ về nhà. Đi được năm phút, tôi nhìn thấy một phụ nữ mặc bộ kimono màu đen đang đi phía trước mình. Đường phố vắng tanh. Đột nhiên, cô ta ngồi thụp xuống, ôm lấy bụng. Tôi chạy lại hỏi xem cô ta có làm sao không. Cô gái nói đang bị đau ghê gớm, vì thế tôi đưa cô ta về nhà, cách đó không xa lắm. Khi tôi sắp ra về, cô gái đề nghị tôi ở lại một lúc vì cô chỉ có một mình. Cô nằm trên sàn nhà, quằn quại vì đau đớn. Bộ kimono bị kéo lên tận đầu gối, để lộ ra hai đùi. Nhìn vào giữa hai chân cô ấy, tôi thấy rõ cô không hề mặc đồ lót. Nói thật, tôi chưa bao giờ ngoại tình và cũng không có ý định như vậy với người phụ nữ này, nhưng thật xấu hổ, tôi cảm thấy mình đánh mất khả năng kiểm soát.
Cô ta dựa vào và bám chặt lấy tôi, luôn miệng thầm thì rằng cô rất cô đơn. Bằng một giọng buồn rầu, cô xin tôi đừng bật đèn. Khi chúng tôi xong việc, cô ta liên tục xin lỗi. Rồi bảo, “Xin anh hãy cứ để đèn tắt và về nhà đi. Vợ anh sẽ rất lo lắng nếu anh về nhà muộn. Chỉ là em cảm thấy cô đơn mà thôi. Xin hãy quên em đi. Em sẽ không nói với ai về chuyện này đâu.” Tôi mặc quần áo trong bóng tối và ra về.
Tản bộ về nhà, tôi nghĩ về những gì mình vừa làm, mọi thứ cứ như một giấc mơ. Giả vờ bệnh tật là một mẹo thông thường của đám đàn bà lưu manh móc túi, nhưng tôi lại chẳng hề mất gì cả. Cho nên cơn đau giả vờ của người phụ nữ rất có thể là một âm mưu để quyến rũ tôi làm tình với cô ta. Tôi không cảm thấy có lỗi. Thực tế, tôi cảm thấy khá ổn vì đã đem lại cho cô ta một quãng thời gian vui vẻ. Vợ tôi sẽ chẳng bao giờ biết về cuộc gặp gỡ này. Thậm chí nếu cô ấy phát hiện ra thì điều đó cũng sẽ không làm ảnh hưởng đến địa vị xã hội của tôi. Tôi về đến nhà lúc 9 giờ rưỡi. Cuộc phiêu lưu như mơ của tôi chỉ kéo dài không quá hai tiếng.
Hai ngày sau, tôi đọc báo buổi sáng về vụ giết hại người phụ nữ mà tôi đã làm tình. Bài báo dài đến một phần tư trang và có cả bức ảnh nạn nhân. Tên cô ta là Kazue Kanemoto. Đó là một bức ảnh cũ có lẽ được chỉnh sửa lại. Trông cô ta khác hẳn, nhưng vẫn có những nét giống. Tờ báo cho biết thời điểm tử vong vào khoảng 7 giờ đến 9 giờ tối ngày 23, chính là thời điểm tôi ở cùng cô ta. Tôi gặp cô ta trên phố quãng 7 giờ 15 phút và rời nhà cô ta trước 9 giờ một chút. Thủ phạm, có lẽ là một tên trộm, hắn đã lẻn vào nhà ngay sau khi tôi rời đi. Báo nói rằng người phụ nữ bị giết trong lúc đang chải đầu. Tôi có thể hình dung rõ ràng toàn bộ khung cảnh đó. Tôi nhanh chóng rời khỏi nhà, đến văn phòng và giả vờ như chưa nghe nói về vụ án mạng. Mặc dù nhà của người phụ nữ không xa lắm nhưng nó cũng không quá gần. Tôi có thể ghé qua hiện trường trước khi tới văn phòng, nhưng tôi không muốn thế.
Điều tra ban đầu xác định rằng nạn nhân bị cưỡng bức, khiến tôi rất hoảng. Thủ phạm cưỡng dâm có nhóm máu O giống như tôi. Tôi sợ đến mức không dám đọc báo. Bộ kimono của nạn nhân và một chiếc bình, thứ tôi đã từng nhìn thấy trong nhà cô ta, được giữ làm vật chứng. Tôi không thể tin được rằng cô ta 31 tuổi. Trông cô trẻ hơn thế nhiều: có lẽ cô gái cố tình làm cho mình trông trẻ hơn để có được một cuộc hội ngộ lãng mạn tình cờ. Tôi cảm thấy rất tiếc cho cô ta. Cô ta nghĩ gì trong đầu khi ngắm mình trong gương sau cuộc làm tình với tôi? Tôi cảm thấy cực kì căm phẫn tên giết người.
Vụ án không thuộc phạm vi thụ lý của đồn chúng tôi. Không có cách nào tham gia điều tra, tôi đành đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra. Vài ngày sau, tôi nhận được một bức thư chuyển phát nhanh, dấu bưu điện đề “1 tháng Tư, Ushigome, Tokyo.” Bức thư được đóng dấu mật, và người gửi đề nghị tôi đốt ngay sau khi đọc xong, tôi đã răm rắp làm theo. Theo tôi còn nhớ, bức thư đại loại như thế này:
“Chúng tôi là những điệp viên bí mật của Thiên Hoàng. Chúng tôi biết rằng anh chính là hung thủ giết Kazue Kanemoto. Thật đáng tiếc và không thể tha thứ được là anh, một sĩ quan cảnh sát, lại phạm phải một tội ác như vậy. Tuy nhiên, xét thực tế rằng đất nước chúng ta đang trong giai đoạn nước sôi lửa bỏng, mối quan tâm của chúng tôi không phải là làm bẽ mặt một công dân đã sống một cuộc sống chính trực cho tới lúc này. Do đó, chúng tôi sẽ chiếu cố tình cảnh anh lâm phải và sẽ bỏ qua tội ác của anh nếu anh giúp chúng tôi hoàn thành mục tiêu. Chúng tôi chỉ cần đến sự hợp tác của anh một lần này và không bao giờ lặp lại trong tương lai. Anh được yêu cầu giải quyết xác của sáu nữ điệp viên Trung Hoa. Họ bị ám sát để có thể tránh được cuộc chiến tranh giữa Trung Hoa và Nhật Bản. Cho nên bí mật tối thượng này cần được giữ kín, không một ai ở cơ quan này sẽ trực tiếp can dự vào việc thực thi nhiệm vụ của anh. Anh phải kiếm một chiếc xe để giải quyết những cái xác ở những vị trí đã định theo đúng cách thức đã định trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu anh bị bắt, anh sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Có thể tìm thấy các xác chết trong nhà kho của nhà Kazue Kanemoto. Anh phải bắt đầu nhiệm vụ của mình vào ngày 3 tháng Tư và hoàn tất nhiệm vụ trong một tuần. Anh có thể chọn cách lái xe vào ban đêm. Không được hỏi chỉ dẫn từ bất kỳ ai cả; không được dừng lại ở bất kỳ nhà hàng nào; duy trì liên hệ với mọi người ở mức tối thiếu. Anh phải giữ bí mật toàn bộ nhiệm vụ này; điều đó vì chính anh. Kèm theo đây là bản đồ. Và hãy nhớ: đôi bên chúng ta đều có lợi. Tạm biệt.”
Tôi rất sốc trước những gì mình được đề nghị thực hiện, nhưng đồng thời tôi nhận ra tôi không thể nào chứng minh được sự vô tội của mình trong vụ án mạng của Kazue Kanemoto. Không có nhân chứng nào cho vụ án mạng, tôi sẽ không thể rửa sạch được sự nghi ngờ dành cho mình. Sau rốt, người ta đã tìm thấy tinh dịch của chính tôi trong người nạn nhân. Các điều tra viên sẽ lập tức kết tội tôi. Tôi suy sụp, không biết làm thế nào để hoàn thành công việc được giao bây giờ. Tôi đã từng nghe nói về sự tồn tại của các cơ quan mật vụ như Trường Nakano. Nếu người gửi bức thư là người của một tổ chức đó thì tôi cảm thấy ít nhất họ sẽ giữ đúng lời hứa giữ bí mật.
Nhiệm vụ không hề dễ dàng. Tôi chỉ có một tuần để thực hiện, chủ yếu vào ban đêm. Đính kèm bức thư là chỉ dẫn đầy đủ, kể cả lộ trình đi lại tôi phải theo và giải thích chính xác cách chôn những người phụ nữ. Mỗi vị trí vẽ trên một tấm bản đồ, nhưng bản đồ lại thiếu chi tiết và không chính xác. Tôi cảm thấy chính bản thân tay điệp viên bí mật có lẽ chưa bao giờ đặt chân tới những vị trí đó.
Ngày hôm sau, nỗi sợ bị phát giác gây ám ảnh đến mức tôi không làm nổi việc gì. Tôi có thể mặc kệ bức thư, nhưng nếu như vậy, hậu quả thật không dễ chịu chút nào. Tôi đã quan hệ tình dục với một phụ nữ bị sát hại. Nếu tôi khai thật với bộ phận điều tra, thì nỗi nhục của tôi sẽ vô cùng lớn. Sự đồi bại của tôi sẽ bị phơi ra trên mọi tờ báo. Tôi sẽ mất việc và gia đình tôi sẽ tan nát. Thậm chí tôi sẽ bị kết tội giết hại người phụ nữ đó. Chuyện gì sẽ xảy ra với vợ và đứa con trai bé bỏng của tôi nếu tôi bị bắt và ngồi tù? Tôi thầm quyết định phải tranh đấu vì cuộc sống của mình và gia đình. Trong tình huống sinh tử đó, tôi sẵn sàng làm bất kỳ việc gì.
Rất ít người có thể mua nổi một chiếc ô tô vào năm 1936. Thậm chí các bạn bè giàu có của tôi cũng không có và tôi càng không phải ngoại lệ. Tôi không nghĩ nổi một lý do gì để mượn một chiếc xe cảnh sát trong vài ngày hầu thực hiện nhiệm vụ. Tôi biết một người duy nhất có xe hơi và sẵn sàng cho tôi mượn. Đó là một chủ thầu. Tôi gặp ông lần đầu trong quá trình điều tra một vụ gian lận dính dáng tới tiền bẩn có liên quan đến ông ấy. Thông thường, ông ấy sẽ là người cuối cùng tôi phải nhờ vả, vì điều đó sẽ làm cho tôi mang công mắc nợ. Nhưng tôi không còn lựa chọn nào khác.
Để nghỉ việc một tuần, tôi bịa ra một câu chuyện: vợ tôi bị ốm và tôi sẽ đưa cô ấy tới suối nước nóng Hanamaki gần nhà cha mẹ cô ấy để nghỉ dưỡng. Đúng là số phận run rủi, thực tế tôi cũng phải đi đến khu vực đó, cho nên tôi sẽ dừng lại mua vài món đồ lưu niệm cho các đồng nghiệp, khiến họ tin rằng tôi thực sự đã đến Hanamaki. Câu chuyện của tôi phát huy ngay tác dụng và sếp cho tôi nghỉ phép một tuần. Sáng ngày 3 tháng Tư, tôi bảo vợ rằng buổi tối tôi phải đi công tác và nhờ cô ấy chuẩn bị đủ cơm nắm cho tôi dùng trong ba ngày. Tôi gói ghém thức ăn, để một cái xẻng vào thùng xe và lái tới ngôi nhà ở Kaminoge. Đúng như chỉ dẫn, tại đây tôi thấy các xác chết nhưng đều đã bị cắt xẻ trong giống như những đứa trẻ dị dạng. Tôi vác hai cái xác mà tôi được yêu cầu chôn cất đầu tiên, bỏ vào thùng xe, và sau đó lái về phía tây tới vùng Kansai ngay trong đêm.
Tôi phải đi thật nhanh, bởi vì tôi biết rằng kh i quá trình phân hủy bắt đầu, mùi hôi thối sẽ không thể chịu nổi và gây chú ý. Hơn nữa, rất có khả năng nhà Kazue sẽ bị điều tra lại. Tôi cần đưa những cái xác ra khỏi đó càng nhanh càng tốt.
Thời ấy người ta hiếm khi kiểm tra phương tiện giao thông, nhưng tôi vẫn phải hết sức thận trọng. Tôi có sẵn thẻ cảnh sát đề phòng phải sử dụng khi cần. Tôi mang theo ba can xăng dự phòng. Nếu may mắn, số nhiên liệu này đủ để tới nơi mà không phải dừng lại mua thêm. Tôi không muốn bị một nhân viên trạm xăng nhớ mặt. Trong khi lái xe, đầu óc tôi như chạy đua. Thứ tự và vị trí chôn cất từng cái xác đã được chỉ rõ đến từng chi tiết. Nhưng làm như vậy để làm gì cơ chứ? Phải chăng để cho nó có vẻ giống một vụ giết người hàng loạt do một cá nhân gây ra? Và liệu có lý do gì khiến mỗi cái xác lại bị cắt xẻ một cách khác nhau như vậy?
Tôi không đến được Nara trong đêm đầu tiên, cho nên tôi lái xe vào vùng núi ở Hamamatsu và chợp mắt ngay bên đường. Lúc đó là mùa xuân, mặt trời mọc sớm hơn tôi nghĩ, khiến tôi càng thêm lo lắng. Tôi được chỉ dẫn phải chôn sáu cái xác ở những khu mỏ nhất định rải rác khắp đảo Honshu. Sau mỏ Yamato ở Nara, tôi sẽ phải tới mỏ Ikuno ở tỉnh Hyogo. Sau đó tới mỏ Gumma ở tỉnh Gumma, mỏ Kosaka ở Akita, mỏ Kamaishi ở Iwate và mỏ Hosokura ở Miyagi.
Chiếc xe tôi mượn là một chiếc Cadillac. Nó to hơn bất kỳ chiếc xe hơi Nhật Bản nào nhưng vẫn quá nhỏ để chở được cả sáu cái xác cùng một lúc. Tôi phải đi hai chuyến khác nhau. Vả lại, nếu tôi bị chặn lại vì bất kỳ lý do gì, một chiếc xe hơi sẽ dễ dàng che giấu cho tôi hơn là một chiếc xe tải. Tôi quyết tâm hoàn tất vụ ngã giá của mình mặc dù tôi biết tay điệp viên bí mật có thể phục kích tôi bất kỳ lúc nào.
Đêm hôm sau tôi tiếp tục lái xe và đến mỏ Yamato lúc 2 giờ sáng ngày 5 tháng Tư. Tôi bắt đầu đào hố. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng được việc đào cái hố sâu một mét rưỡi lại nhọc nhằn đến vậy. Nhưng rồi tôi cũng kết thúc được công việc trước lúc bình minh. Tôi ngủ ngay trong núi. Đến trưa, tôi choàng tỉnh vì một người đàn ông quấn khăn che kín mặt. Anh ta nhìn chòng chọc vào trong xe. Lúc đó, tôi nghĩ mọi việc thế là hết. Nhưng khi trấn tĩnh lại, tôi nhận ra anh ta có vấn đề về tâm thần và đang đi lang thang trong rừng như một đứa trẻ lạc. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi anh ta lặng lẽ bỏ đi. Anh ta là người duy nhất đến gần chiếc xe đến thế. Tôi nhủ mình cần phải kiên nhẫn chờ cho tới hết ngày, rồi mới rời đi.
Việc đào hố ở mỏ Ikuno tại Hyogo khiến tôi mệt nhoài, nhưng tôi cảm thấy nhẹ nhõm hẳn khi công việc xong xuôi. Giải quyết xong hai cái xác, tôi lái xe suốt đêm và cả ngày hôm sau, cố gắng cảnh giác hết mức. Tôi về đến nhà vào chiều ngày 6 tháng Tư. Tôi ăn rất nhanh và nằm lăn ra, nhưng không cho phép mình có một giấc ngủ dài.
Đêm đó, vì đã chuẩn bị sẵn sàng cho phần tiếp theo của nhiệm vụ, tôi bảo vợ rằng tôi sẽ không nghe điện thoại được cho tới khi tôi quay về. Tôi lại tới Kaminoge với bốn cái xác còn lại. Tôi không hề ngủ suốt chặng đường vì không tìm được chỗ nào có thể đậu xe an toàn. Rạng sáng ngày mùng 7, tôi đã đến gần Takasaki, tìm một chỗ hẻo lánh, tấp vào lề đường và đánh một giấc ngon lành. Buổi chiều tôi tiếp tục hành trình và đến mỏ Gumma lúc quá nửa đêm. So với hai công việc trước, nhiệm vụ lần này rất dễ dàng. Tôi chỉ cần phủ một ít đất lên cái xác, sau đó tiếp tục đi dọc theo đường núi.
Tôi đến Hanamaki lúc 3 giờ sáng ngày mùng 8. Vào giờ đó, chưa nơi nào mở cửa, cho nên tôi lái xe tới Akita. Tôi dừng lại dọc đường để nghỉ và bị lạc đường một lần, nhưng may mắn là tôi vẫn đúng kế hoạch. Việc đào hố và chôn cất tại mỏ Kosaka kết thúc vào sớm mùng 9. Công việc ở Iwate hoàn thành vào sáng hôm sau, phần tiếp theo ở Miyagi xong xuôi vào đêm mùng 10, chỉ việc bỏ cái xác ở gần đường núi. Tôi đã hoàn thành toàn bộ công việc trong vòng một tuần đúng như hướng dẫn yêu cầu.
Tôi tới Fukushima trước lúc bình minh ngày 11. Tôi gần như phát điên và không kiểm soát được hành vi của mình vì cả tuần qua ăn uống thất thường lại ngủ rất ít. Tôi tự hỏi bằng cách nào tôi có thể hoàn thành được nhiệm vụ phi thường đó. Đêm hôm ấy, sau khi trở về Tokyo, tôi ngủ say như chết không biết trời đất là gì.
Cái cớ tôi đưa ra cực kỳ có tác dụng. Tôi sụt cân, mắt tôi trũng xuống. Trông đúng như vừa phải vất vả chăm sóc vợ ốm, nên rất được đồng nghiệp thông cảm. Nhưng hậu quả của tuần lễ đó ảnh hưởng ghê gớm đối với tôi. Tôi thường xuyên bị những cơn chóng mặt và cảm thấy buồn nôn, trông cực kỳ mệt mỏi. Tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ hoàn toàn nhờ vào sức trẻ và vị trí của mình. Nếu lớn tuổi hơn, chắc chắn tôi không thể có đủ sức lực, và nếu tôi ở địa vị thấp hơn, sếp của tôi sẽ không cho phép tôi vắng mặt một tuần liền. Từ bấy trở đi, tôi chẳng bao giờ xin nghỉ ốm nữa.
Tôi đã làm xong những gì bắt buộc phải làm, nhưng một câu hỏi bắt đầu đeo bám lấy tôi. Có phải tôi đã bị đánh bẫy để thực hiện công việc bẩn thỉu này không? Cơ quan mật vụ có thể đã giăng bẫy tôi, tạo ra tình huống và sau đó hăm dọa buộc tôi phải làm bất kỳ việc gì họ cần. Cho tới hôm nay, tôi vẫn không hiểu những gì đã xảy ra. Tôi chỉ biết đó là một nỗi sợ hãi khủng khiếp.
Cái xác cuối cùng mà tôi giải quyết, tại mỏ Hosokura, bị phát hiện vào ngày 15 tháng Tư. Khi báo cáo của cảnh sát đến văn phòng, cảm giác tội lỗi trong tôi bắt đầu trỗi dậy. Mọi chuyện đã rõ ràng khi cái xác thứ hai được tìm thấy vào ngày 4 tháng Năm, hóa ra những cái xác mà tôi đem chôn chính là từ vụ giết người hàng loạt nhà Umezawa. Mặc dù tôi biết vụ này, nhưng tôi vẫn chưa tìm ra nguyên nhân vì sao xác các cô gái nhà Umezawa lại ở nhà của Kazue Kanemoto. Đúng là Kazue kết hôn với một người Trung Quốc nhưng liệu các em gái của cô ta có thật sự là những điệp viên chỉ vì lý do đó không? Tôi cảm thấy mình thật ngu ngốc. Tôi là một nạn nhân. Niềm kiêu hãnh của tôi bị tổn thương, bởi tôi đã tự biện minh rằng nhiệm vụ đó là vì an ninh quốc gia, trong khi thật sự thì nó chỉ là việc tôi bắt buộc phải làm để cứu vãn danh dự của mình.
Các đồng nghiệp không ngớt bàn tán về vụ giết người hàng loạt, nhưng tôi thì không dám có mặt ở văn phòng. Không lâu sau đó có một phụ nữ tên là Sada Abe bị bắt vì tội giết người tình và cắt dương vật của anh ta. May mắn cho tôi, vụ việc của cô ta đã chuyển hướng chú ý của mọi người khỏi vụ án mạng các thiếu nữ nhà Umezawa. Vụ Abe vẫn còn mới nguyên trong trí nhớ của tôi. Cô ta bị bắt tại quán rượu Shinagawa, trong tên giả Nao Owada. Vụ việc thuộc thẩm quyền điều tra của đồn cảnh sát Takanawa và đồng nghiệp Ado của tôi nổi danh vì chính là người bắt được hung thủ. Các thanh tra cảnh sát ăn mừng vì phá được vụ án, không khí hân hoan kéo dài ở đồn suốt một thời gian, giúp tôi phần nào cảm thấy thư thái.
Đến tháng Sáu, tôi đọc một bản sao ghi chép của Heikichi Umezawa, được nhóm điều tra gửi cho tất cả các đồn cảnh sát. Tôi không thể hiểu nổi ông ta dính dáng như thế nào đến vụ án mạng Azoth. Vụ án diễn ra y như những gì ông ta đã mô tả, nhưng chính ông ta lại chết trước khi xảy ra các vụ sát hại này. Nhưng nếu không phải ông ta là hung thủ thì ai đã ra tay? Chắc chắn phải là một trong những đệ tử của Heikichi, một ai đó quyết tâm tạo ra Azoth. Trời ơi, tôi đã tiếp tay cho một kẻ điên rồ!
Hàng loạt câu hỏi xuất hiện trong đầu tôi: Có yếu tố chiêm tinh đằng sau âm mưu tinh vi này chăng? Phải chăng ý tưởng của hung thủ là dàn xếp thời điểm phát hiện ra các xác chết? Nếu như vậy, tại sao các xác chết ở Kosaka, Yamato và Ikuno lại phải phát hiện muộn hơn các xác chết khác? Nếu mục đích của hung thủ là trì hoãn sự phát hiện thì tại sao không phải ở các khu mỏ khác hoặc ở những nơi xa xôi hơn? Có ý đồ gì trong toàn bộ vụ việc này chăng?
Lại còn tin đồn về các gián điệp Trung Quốc nữa chứ. Nếu có chút sự thật về việc này dù là nhỏ nhất thì tôi cũng sẽ bị cuốn vào đó chỉ vì cuộc gặp tình cờ với Kazue. Liệu có phải tất cả đã được lên kế hoạch từ trước - tức là những kẻ giết hại sáu cô gái đã tính toán trước chăng? Nếu như vậy thì ai là người phù hợp nhất cho công việc chôn cất các xác chết? Dĩ nhiên là một sĩ quan cảnh sát rồi! Người đó sẽ có giấy phép lái xe và việc chở các nạn nhân trong một vụ án mạng có thể là một phần công việc của anh ta. Không dân thường nào - thậm chí một bác sĩ hay một nhà khoa học - có thể làm được việc đó. Cũng sẽ chẳng ai nghĩ một cảnh sát lại có thể tham gia vào một vụ việc kinh khủng như vậy. Vậy là tôi được chọn! Kazue hẳn đã can dự với tư cách một kẻ chủ mưu, dụ dỗ tôi làm tình với cô ta. Nhưng sau đó cô ta lại tự sát - tại sao chứ? Như thế để tôi có thể bị hăm dọa chăng? Liệu Kazue có biết rằng cô ấy sẽ bị giết không? Hay cô ấy cũng bị phản bội? Đúng, tôi đã ngủ với Kazue bởi vì cô ta dụ dỗ tôi, nhưng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ đồng ý chôn các xác chết nếu như cô ấy không bị giết.
Giả sử chính Kazue là người giết các em gái mình thì sao nhỉ? Sau khi sát hại họ, cô ta quyết định quyến rũ tôi để gây sức ép và sau đó cô ta tự sát. Nhưng việc tự sát có ý nghĩa gì chứ? Thêm nữa, cú đánh chết người nhằm vào gáy cô ấy. Rõ ràng không thể tự sát bằng cách đập vào đầu mình từ phía sau được. Kazue chết vào ngày 23 tháng Ba; sáu cô gái vẫn còn sống một tuần sau đó. Một phụ nữ đã chết thì không thể tự sát được.
Khi Masako Umezawa bị bắt, bức tranh càng thêm rối rắm hơn nữa. Bà bị buộc tội, nhưng tôi không tin bà nói thật. Tôi ước gì có thể vào tù để thăm và nói chuyện với bà ấy, nhưng lại không thể tìm ra một lý do chính đáng nào.
Tôi thật đen đủi khi dính vào vụ việc chết tiệt theo cách kinh khủng này và không thể giũ bỏ được cảm giác tội lỗi. Thời gian trôi đi, rồi công chúng sẽ lãng quên, ngay cả những tội ác man rợ, tày trời cũng sẽ bị quên đi. Nhưng trường hợp này thì không. Sau chiến tranh, một cuốn sách có nhan đề Tokyo hoàng đạo án được xuất bản đã giúp công chúng tiếp cận và biết đến vụ án. Giải đáp bí ẩn vụ giết người trở thành mốt thời thượng và có rất nhiều sáng kiến, gợi ý, tấp nập gửi về cơ quan điều tra. Hàng ngày, các đồng nghiệp của tôi đều đọc kỹ những bức thư kiểu này. Tôi cứ run bắn người mỗi khi họ hét lên, “Thông tin này rất đáng xem xét!” Nỗi lo sợ kéo dài cho tới khi tôi về hưu. Thậm chí đến hôm nay, tôi vẫn còn bị ám ảnh.
Trở lại thời gian đó, biên chế Phòng 1 của Sở Điều tra hình sự là 46 thanh tra cảnh sát, chịu trách nhiệm về các tội danh gian lận, đốt phá và bạo lực, kể cả các án giết người và cướp giật, những công việc này bây giờ được chuyển về Phòng 3 và Phòng 4. Năm 1943, tôi được chuyển sang Phòng 1 theo đề xuất của ngài Koyama, trợ lý giám đốc đồn Takanawa, người nhiệt liệt khen ngợi tôi vì sự bền bỉ và óc phán đoán logic. Tôi có nhiệm vụ chuyên xử lý các vụ gian lận. Để chở sáu xác chết, tôi phải mượn chiếc Cadillac của nghi can trong một vụ gian lận trước đó. Sau khi tôi chuyển sang Phòng 1, người đó liên tục liên lạc với tôi và xin xỏ. Lần nào tôi cũng phải đồng ý.
Chiến tranh bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, quân Mỹ thường xuyên đe dạo không kích Nhật Bản. Các nhân viên của Sở Cảnh sát Đô thành được sơ tán theo từng nhóm nhỏ tới các khu vực khác nhau trong thành phố. Phòng của tôi lập văn phòng tại Trường Trung học Nữ số 1ở Asakusa. Lắm lúc tôi muốn được hy sinh trong chiến trận. Nhiều đồng nghiệp của tôi tòng quân, nhưng việc nhập ngũ của tôi bị đình hoãn, khiến cho tôi càng cảm thấy có tội.
Thời điểm xảy ra các vụ án mạng, con trai tôi là Fumihiko chỉ mới vài tháng tuổi. Giờ nó đã là một thanh tra cảnh sát, con gái tôi Misako đã kết hôn với một sĩ quan cảnh sát. Mặc dù tôi cảm thấy mình như một tội nhân nhưng tôi vẫn tiếp tục thăng tiến xa hơn trên nấc thang danh vọng. Tôi tham gia các kỳ thi vì con trai tôi, luôn luôn hoàn thành xuất sắc và được thăng chức. Ngay trước lúc nghỉ hưu, cấp trên hào phóng thăng cho tôi lên bậc thanh tra cao cấp. Sự nghiệp của tôi hẳn là rất thành đạt, nhưng với tôi, nó chỉ là những năm tháng tù túng, giam hãm mà thôi. Tôi vẫn giữ kín với mọi người về căn bệnh ung thư của mình. Năm 1962, sau ba mươi tư năm cống hiến trong ngành cảnh sát, tôi về hưu một cách nhanh nhất có thể ở tuổi 57. Hai năm sau cái chết của Masako Umezawa, người bị kết án tử hình vì tội giết chồng và sáu cô gái, mối quan tâm của công chúng đến các vụ án mạng chiêm tinh vẫn còn rất mạnh. Bản thân tôi vẫn đọc tất cả mọi tài liệu mà tôi có thể thu thập, nhưng chẳng phát hiện thêm gì ngoại trừ những điều tôi đã biết. Sau một năm nghỉ hưu, tôi thấy mình dần lấy lại được nhiệt huyết. Thế rồi, cuối mùa hè năm 1964, tôi quyết định dành nốt quãng đời còn lại giải quyết bí ẩn này. Tôi cố gắng phỏng vấn tất cả những người còn sống và có liên quan đến vụ việc bằng bất kỳ hình thức nào.
Ayako Umezawa, khi đó đã 75 tuổi, là thành viên duy nhất còn sống trong gia đình này. Bà đã xây một khu chung cư và sống tại đó. Ayako cho biết Yoshio chồng bà vừa mới qua đời chưa lâu. Cả hai cô con gái đều bị sát hại và không còn ai thân thích, bà cảm thấy rất cô độc.
Yasue Tomita đã 78 tuổi. Bà sống một mình trong căn hộ ở Denenchofu, một đặc khu của Tokyo khá giống Beverly Hills. Sau chiến tranh, bà đã bán phòng tranh cũ và mở một phòng tranh mới ở Shibuya có cùng tên gọi là “de Médicis”. Sau khi Heitaro con trai bà hy sinh trong chiến tranh, Yasue nhận nuôi con trai của một người họ hàng, và giờ anh này điều hành phòng tranh thay bà. Thỉnh thoảng, cậu con nuôi cũng đến thăm Yasue, nhưng bà vẫn rất cô đơn.
Cả Ayako và Yasue đều không phải là nghi can, nhưng không còn lại ai khác trong số những người trong cuộc. Vợ cũ của Heikichi, bà Tae, đã chết, nhưng chồng cũ của Masako, ông Satochi Murakami, thì vẫn còn sống và đã 82 tuổi. Người ta chưa bao giờ thẩm vấn Murakami - có lẽ vì cảnh sát thời tiền chiến rất phân biệt giai cấp trong khi ông ấy lại là người giàu có và danh giá. Tôi nghi ngờ Murakami có động cơ phạm tội: đó là trả thù. Masako đã ngoại tình và sau đó ly hôn Murakami để lấy Heikichi. Với tư cách một cựu thanh tra cảnh sát cao cấp, tôi tới gặp Murakami. Ông đã về hưu, sống một cuộc sống bình lặng quẩn quanh trong khu vườn của mình. Ông ấy còng gập, cái đầu hói có vẻ hợp với tuổi của mình. Thỉnh thoảng đôi mắt của Murakami lại toát lên vẻ tinh anh, mạnh khỏe và tôi có thể hình dung ra ông ấy khi còn trai tráng trông như thế nào.
Cuộc trò chuyện của chúng tôi chẳng đâu vào đâu. Trái với những gì tôi nghĩ, Murakami nói rằng ông đã từng bị thẩm vấn không rõ lý do, rằng thái độ của cảnh sát rất hung hăng. Ông tiếp tục kể lể dông dài về việc bị đối xử như một nghi can. Tôi xin lỗi và ra về. Phòng Điều tra Hình sự đã chu đáo hơn tôi tưởng rất nhiều.
Người ta vẫn rất nhiệt tình với Azoth, nhưng giờ tôi cảm thấy nghi ngờ về sự tồn tại của nó. Mặc dù vậy, tôi vẫn tới mộ của Heikichi để xem liệu có khả năng Azoth ở đâu đó gần mộ không. Nghĩa trang chật kín. Mộ ông ấy gần như bị che khuất bởi các ngôi mộ an táng theo gia tộc ở gần bên. Tôi ngờ rằng Azoth có thể ở trong số đó.
Liệu Heikichi có đệ tử nào không? Hay bạn bè? Hoặc những người quen biết tình cờ? Ông ấy vốn không phải là người quảng giao, chỉ ra ngoài để tới phòng tranh de Médicis và quán rượu Kakinoki.
Tại Kakinoki, chủ quán Satoko là người giới thiệu Heikichi với Genzo Ogata, chủ một nhà máy sản xuất ma-nơ-canh… Khi đó, Ogata 46 tuổi còn Satoko là góa phụ chỉ mới 34. Có vẻ Heikichi rất thích nhà máy của Ogata, mặc dù công việc của họ khác hẳn nhau. Cảnh sát đã tiếp xúc Ogata và loại ông này ra khỏi diện nghi vấn. Tôi thấy Tamio Yasukawa, công nhân ở nhà máy Ogata mới có vẻ là người cần phải điều tra thêm. Heikichi cũng đã gặp Yasukawa tại Kakinoki, và vì Yasukawa làm công việc sản xuất ma-nơ-canh, cả hai có thể có cùng mối quan tâm đến nghệ thuật tạo hình. Yasukawa 28 tuổi vào thời điểm xảy ra các vụ án mạng. Anh ta là một trong số rất ít nghi can vẫn còn sống. Anh ta từng có thời phục vụ trong quân ngũ và hiện tại vẫn sống ở Kyoto. Tôi phải tới gặp anh ta trước khi anh ta chết - hoặc trước khi tôi chết.
Trong số ngững người quen khác của Heikichi ở Kakinoki, người duy nhất tôi đã gặp là Toshinobu Ishibashi, một họa sĩ sống gần quán rượu. Anh ta 30 tuổi vào thời điểm xảy ra án mạng - ngẫu nhiên sao lại cùng tuổi với tôi. Gia đình anh ta có một quán trà, vẽ vời chỉ là nghề tay trái. Có lẽ Ishibashi phụ giúp công việc kinh doanh của gia đình và bước chân vào lĩnh vực nghệ thuật thông qua các cuộc thi. Vì mong ước được tới Paris, điều rất ít người khi đó có thể làm nổi, nên Toshinobu rất thích nói chuyện với Heikichi về những chuyến phiêu lưu bên Pháp. Tôi đã tới gặp Ishibashi tại quán trà ở Kakinokizaka, hiện vẫn do gia đình anh ta quản lý. Anh ta kể chuyện chiến đấu trong chiến tranh, thoát chết trong gang tấc. Toshinobu đã thôi vẽ vời, nhưng con gái anh là tốt nghiệp sinh của trường nghệ thuật. Ishibashi hào hứng tiếp chuyện tôi, kể rằng trong chuyến đi tới Paris mới đây, anh phấn khởi vì đã tìm được một nhà hàng mà Heikichi đã kể lúc trước. Vợ Toshinobu lịch thiệp và tử tế, còn cô nhân viên thì rất thân thiện. Ishibashi cũng có chứng cứ ngoại phạm, đương nhiên chẳng có lý do gì khiến anh ta phạm tội giết người cả. Khi tôi chuẩn bị ra về, Ishibashi mời tôi trở lại quán trà bất kỳ lúc nào. Lời mời chân thành và tôi nghĩ tôi sẽ quay lại.
Quán rượu Kakinoki không còn nữa. Satoko, người đã được loại trừ khỏi diện nghi vấn, đóng cửa quán khi trở thành tình nhân của Ogata. Ogata đã có vợ và gia đình, vì vậy mọi việc trở nên rất phức tạp. Con trai ông tiếp tục công việc sản xuất kinh doanh ma-nơ-canh, nhưng đã chuyển nhà máy tới Kanakoganei.
Nhờ các kỹ năng xã hội của Yasue, phòng tranh de Médicis là một nơi quen thuộc với các nghệ sĩ trung niên: các họa sĩ, nhà điêu khắc, người mẫu, thi sĩ, nhà viết kịch, nhà viết tiểu thuyết và cả giới làm phim. Họ tụ họp ở đó và thảo luận sôi nổi về nghệ thuật. Cho dù là một vị khách thường xuyên nhưng Heikichi cũng không giao du nhiều với những nghệ sĩ này, ông nghĩ rằng họ là những kẻ hợm hĩnh.
Tuy nhiên, Heikichi có duy trì tình bạn với một nhà điều hành tên là Motonari Tokuda. Tokuda là một trí thức tinh tường sở hữu một xưởng nghệ thuật ở Mitaka. Ở tuổi 40, ông đã rất nổi tiếng. Heikichi mê mẩn những tác phẩm điêu khắc của Tokuda, nên các điều tra viên ngờ rằng Tokuda có ảnh hưởng đến những ý niệm của Heikichi về Azoth. Tôi đã gặp Tokuda khi ông ấy bị cảnh sát thẩm vấn. Ông ta có mái tóc dài, rối bù, hai gò má hõm sâu, trông như một nghệ sĩ gàn dở. Tuy nhiên, Tokuda có chứng cứ ngoại phạm và được thả. Lý lẽ bào chữa của ông là ông không có khái niệm gì về cách điều khiển một chiếc xe hơi. Hơn nữa, ông chưa bao giờ tới xưởng vẽ của Heikichi, cũng chẳng hề biết Kazue. Nếu ai đó từng xem các tác phẩm của Tokuda thì sẽ thấy rõ ràng rằng nghệ thuật như thế không thể xuất phát từ tâm hồn một kẻ sát nhân. Ông đột ngột qua đời vào đầu năm 1965, xưởng nghệ thuật được cải tạo thành Bảo tàng Motonari Tokuda.
Qua Tokuda, Heikichi làm quen với một họa sĩ là Gozo Abe. Anh chàng này là người theo chủ nghĩa hòa bình: các tác phẩm của anh ta truyền tải thông điệp phản chiến từ năm 1936, do vậy mà anh ta bị các nghệ sĩ cùng thời tẩy chay - cảnh ngộ mà cả anh ta và Heikichi có thể cùng chịu chung. Abe khi đó mới ngoài 20, trẻ hơn Heikichi một thế hệ nên không chắc là họ biết rõ về nhau. Họa sĩ trẻ sống ở Kichijoji, cách xa Meguro. Anh chàng chưa bao giờ tới xưởng vẽ của Heikichi. Mặc dù không có chứng cứ ngoại phạm thuyết phục nhưng anh ta chẳng có lý do gì để phạm tội cả. Thời chiến tranh, Abe bị đẩy sang Trung Quốc. Các sĩ quan quân đội đối xử rất tệ và gán cho anh chàng họa sĩ danh hiệu “tư tưởng gia bất lợi”. Suốt thời gian quân ngũ anh chàng cũng chỉ là gã lính trơn. Trở về Nhật Bản, Abe ly dị vợ, cưới một phụ nữ trẻ hơn và chuyển sang Nam Mỹ. Anh ta mất ở Nhật năm 1955, cũng có được một chút tiếng tăm trong giới nghệ sĩ. Bà vợ hiện quản lý cà phê “Grell” cũng dành cho giới nghệ sĩ. Các bức vẽ của Abe được treo khắp tường trong quán cà phê.
Tại de Médicis, Heikichi còn quen biết họa sĩ Yasuchi Yamada. Yamada có tính cách nhẹ nhàng và Heikichi làm thân với người này một cách dễ dàng. Thực tế, Heikichi đã tới nhà Yamada hai lần, có lẽ vì bị cuốn hút bởi Kinue vợ của Yamada. Không những từng là người mẫu, Kinue còn là một nhà thơ. Heikichi rất thích Rimbaud[1], Baudelaire[2] và Hầu tước xứ Sade[3], và có vẻ như hai người cùng chung sở thích. Dường như Kinue cũng rất hâm mộ các tác phẩm của Andre Milhaud, nghệ sĩ mà Heikichi lấy cảm hứng. Yasushi và Kinue đều mất vào giữa những năm 1950. Họ đều có chứng cứ ngoại phạm, chưa bao giờ tới xưởng vẽ của Heikichi và cũng không có động cơ sát hại ông.
[1] Jean Nicolas Arthur Rimbaud (1854-1891) - nhà thơ Pháp, một trong những người sáng lập trường phái thơ tượng trưng.
[2] Charles Pierre Baudelaire (1821 - 1867) nhà thơ lớn của Pháp thế kỷ 19, thuộc trường phái tượng trưng chủ nghĩa.
[3] Tên thật là Donatien Alphonse Francois (1740 - 1814), nhà văn và nhà cách mạng người Pháp. Ông nổi tiếng nhất với những tiểu thuyết mang tính khổ dâm và bạo dâm, mô tả những cảnh tình dục mang tính tàn bạo trong đó nhân vật bị tra tấn, hành hạ đau đớn; đặc biệt lồng ghép nội dung khiêu dâm với các chủ đề triết lý, xã hội, đả kích nhà thờ…
Trong số tất cả những người này, người duy nhất nổi lên là Tamio Yasukawa, công nhân tại xưởng sản xuất ma-nơ-canh. Tuy nhiên, thật khó tin được rằng các điều tra viên lại không đưa anh ta vào diện nghi vấn. Yasukawa sống trong một khu tập thể chỉ cách nơi làm việc khoảng mười phút đi bộ. Phần lớn thời gian rảnh anh ta bù khú với cánh đồng nghiệp. Chứng cứ ngoại phạm của anh ta không vững vàng: Yasukawa nói rằng anh ta đi xem phim. Tuy nhiên anh ta mới chỉ biết Heikichi ba tháng trước khi xảy ra vụ Azoth, ai lại thực hiện giết người hàng loạt vì một kẻ điên mới quen được ba tháng? Và nếu đúng là anh ta làm như vậy thì anh ta thực hiện việc đó ở đâu, khi nào? Có vẻ như không thể.
Ở đây có ba vụ án tách biệt - vụ giết Heikichi Umezawa, vụ sát hại Kazue Kanemoto, và vụ án Azoth. Sau quá nhiều năm, bí ẩn này có thể chôn vùi theo hung thủ rồi. Tôi rất tiếc vì không thể tiến xa hơn được nữa. Đúng như Phòng Điều tra Hình sự kết luận, tất cả các nghi can dường như đều vô tội.
Kể từ khi về hưu, hàng ngày tôi đều nghĩ về vụ án này. Giờ đây, tôi thấy suy nghĩ của mình luẩn quẩn và chẳng đi tới đâu cả. Tôi càng ngày càng già, cảm thấy mình đang dần suy giảm cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Những ngày tháng sống trong lo âu căng thẳng đã khiến tôi mắc bệnh ung thư. Tôi không còn sống được lâu và sẽ chết mà không được biết sự thật.
Quan điểm sống của tôi quá ư ôn hòa, chẳng bao giờ đi ngược với xu hướng chung. Là một người bình thường, tôi muốn kết thúc cuộc đời của mình như một người bình thường, nhưng thật xấu hổ là tôi đã không làm được như vậy. Tôi rất mong ai đó sẽ giải đáp được bí ẩn này. Không chỉ cho tôi và công việc mà tôi bị buộc phải can dự vào, mà còn cho công lý. Tất cả những gì tôi có thể làm lúc này là cầu nguyện. Thật xấu hổ là tôi vẫn không có đủ can đảm để kể mọi chuyện với con trai tôi.
Tôi đốt phần ghi chép này hay giữ nó sẽ là quyết định cuối cùng của đời tôi. Nếu có bất kỳ ai đọc được nó sau khi tôi chết, tôi tự hỏi liệu người đó có thấy thú vị không, băn khoăn trăn trở của tôi ấy… liệu có giống như chàng Hamlet[4]?
Bunjiro Takegoshi
[4] Tên nhân vật chính trong bi kịch cùng tên của nhà soạn kịch vĩ đại người Anh William Shakespeare (1564 - 1616). Thời cuộc và nghịch cảnh của bản thân đã gây ra trong tâm hồn Hamlet những phút đau đớn, bi quan, hoài nghi, do dự, những phút trăn trở “tồn tại hay không tồn tại” (to be or not to be), những phút “chịu đựng hay vùng lên chống lại”.