Bảo triết học xưa nay quan tâm đến nhân sinh không bằng bảo nhân sinh vốn là một môn triết học về cuộc sống. Chỉ cần để tâm suy nghĩ thì thế nào cũng thấy từng cặp phạm trù xuất hiện trước mắt bạn, ví như vui mừng và thương cảm, lương thiện và độc ác, khoan dung và đố kị, nhã và tục, đẹp và xấu, vui vẻ và phiền não, nôn nóng và bình tĩnh, tâm tình thế tục và theo đuổi tinh anh, sự nghiệp và gia đình v.v... Những phạm trù này hầu như ngày nào chúng ta cũng phải đối mặt, ít nhất thì trong đời mỗi người, không ai hoàn toàn tránh được.
Vốn dĩ cuộc sống đã là một loại triết học thì chúng ta thực sự nên dùng thái độ triết học để đối xử với cuộc sống. Thái độ triết học ấy chí ít cũng nên là cầu thực chứ không nên là siêu hình, quá khích. Chỉ có như thế mới giảm bớt được độ cong của đường khúc tuyến về nhân sinh.
Triết học xử thế của tôi
Tôi chưa có được sự giáo dục hoàn hảo của nhà trường, số sách từng đọc cũng rất có hạn. Có lúc được người gia ơn không vứt bỏ, được cho là còn có chút kiến giải tư tưởng nào đó, không đến nỗi trôi nổi theo dòng, đó là vì trước hết được thực tiễn cuộc sống gợi mở và cũng vì hiểu biết nhờ hiếu học.
Quả thực tôi thừa nhận mệnh đề cơ bản “tri thức thực sự có từ thực tiễn” đồng thời cũng không phủ nhận những ngoại lệ và biến dị ở ngoài mệnh đề cơ bản nói trên.
Ngày sinh lần thứ 60 của tôi sắp tới rồi, tích góp kinh nghiệm trong cả một giáp, tôi có thể nói chút gì với các bạn đọc đây?
Điều thứ nhất, không nên tin ở giản đơn hóa.
Tôi đã nói ý này ở nhiều nơi: Phàm những ai nói phân minh trắng ra trắng, xanh ra xanh như đậu phụ xào hành tươi về những vấn đề phức tạp thì đều không đáng tin; phàm những ai nói giải quyết vấn đề phức tạp dễ như thò bàn tay lấy đồ trong túi đều không đáng tin; phàm những ai bảo sự việc phức tạp là sai lầm của một ý nghĩ, của một người, cho rằng sửa đổi ý nghĩ đó đi, gạt bỏ người ấy ra là vạn sự đại cát cũng đều không đáng tin.
Cho rằng mâu thuẫn chủ yếu giải quyết xong thì mâu thuẫn thứ yếu cũng giải quyết được liền - xin nói thực, cả đời tôi chưa bao giờ gặp được sự việc nào dễ dàng như thế. Đại đa số, tuyệt đại đa số trường hợp là mâu thuẫn chủ yếu giải quyết xong thì mâu thuẫn thứ yếu trở nên càng nổi trội và kịch liệt, càng thêm phiền toái.
Bởi vậy tuy tôi tán dương châm cứu song lại không tin ở điểm huyệt và đọc bùa chú.
Tôi biết trên đời không có đơn thuốc vạn năng, bởi vậy tôi cũng chẳng bực mình hoặc căm giận một vị thuốc nào đó mất thiêng. Tôi thường không kỳ vọng quá mức cho nên rất ít khi bi quan tuyệt vọng.
Điều thứ hai, không nên tin ở chủ nghĩa cực đoan và thuyết độc đoán.
Trên đời này tuyệt đối không phải chỉ có hai màu đen trắng, hai loại phẩm chất thiện và ác, hai loại lực lượng ta và địch, hai loại chủ trương đúng và sai, hai loại giai cấp tư sản và vô sản.
Cần biết cách đối mặt và nắm vững một lượng lớn trạng thái trung gian, trạng thái quá độ, trạng thái không tuần tự, trạng thái tự mâu thuẫn, trạng thái có thể điều chỉnh khống chế, trạng thái có thể tự tạo ra v.v...
Sự việc trên đời này tuyệt đối không phải cứ tiêu diệt được đối phương là có thể thiên hạ thái bình, quang minh sáng láng. Hơi một tí là tự đặt mình vào phe chính nghĩa, đúng đắn, gạt đối phương sang phe sai lầm, thậm chí đối địch, hơi một tí là muốn đại phê phán, chửi gục đối phương - bất kể là Giáp ỷ thế phê Ất hay là Ất đón sóng phê Giáp thì đều có mùi vị dối đời trộm danh, tự mình bán rao của con buôn đầu cơ và sự ấu trĩ của con trẻ. Nên học để biết cách đối diện với đại thiên thế giới thực sự chứ không phải chỉ đối mặt với loại tranh thuyết minh đã bị một ý đồ, một lý luận nào đó sàng lọc và sửa chữa.
Khi chưa nắm vững tuyệt đối một lượng lớn vấn đề thì lựa chọn con đường trung dung là cách khả dĩ, có thể chịu đựng được thử thách.
Điều thứ ba, không nên hoảng sợ vì những lời nói khoác, không nên hoảng sợ vì những lời bậy bạ không đâu, không nên hoảng sợ vì những loại cờ hiệu.
Nhân phát minh một câu nói mà khiến người nghe phục lăn thì câu nói đó quá nửa có pha nước. Những luận đoán lớn lao nhưng không thích đáng thì bên dưới luận đoán đó không biết có bao nhiêu lỗ hổng và ứng phó giả dối.
Thái quá cũng không hay như bất cập. Quá vĩ đại hoặc quá nhỏ mọn, quá cao minh hoặc quá ngu xuẩn, những lời nói quá lạ lùng đặc biệt hoặc quá cũ rích đều đáng ngờ cả.
Không nên sa vào cuộc tranh luận về nhãn mác và cờ hiệu, không nên cho rằng vừa phân loại vừa chụp mũ đã có thể phán đoán giá trị. Không nên cho rằng vừa phân loại vừa phán quyết thế giới là đã trật tự đâu ra đấy, phần lớn là ngược lại, càng thêm méo mó.
Người đội vòng nguyệt quế cũng có thể là cứt chó, người bị đội chậu phân cũng có thể bị oan, đó là một. Bản thân nguyệt quế có thể đã không đáng quý, bản thân chậu phân có thể không làm người ta mất mặt, đó là hai. Phía dưới cùng một khái niệm hoặc một chủng loại có thể ẩn giấu nhiều trạng thái hoặc nhiều tính chất khác nhau, đó là ba. Bản thân cách phân loại của bạn chưa được chứng minh, cách phân loại ấy lại có chỉ số thông minh cực thấp vì thế không đáng dựa vào, đó là bốn.
Cần phải biết sử dụng khái niệm chứ không được để cho khái niệm sai khiến và sử dụng mình.
Nói chung, trong trường hợp không có đủ chứng cứ thì giữa kiến thức thông thường và lời ăn to nói lớn, tôi chọn kiến thức thông thường. Tuy nhiên tôi cũng quyết không khinh suất phủ định loại luận điểm cao siêu đến kinh ngạc. Đối với loại này, tôi giữ thái độ cứ để đấy rồi xem sẽ ra sao.
Điều thứ tư, không nên bài xích ý kiến khác mình, không nên hơi một tí đã coi ý kiến khác mình là dị đoan(1).
Đặc biệt là về vấn đề văn học và nghệ thuật cùng nhiều vấn đề khác nữa, thà tin ý kiến của người khác và của mình đều trong quá trình như anh mù sờ voi còn hơn, bởi vì ai cũng có lý và ai cũng muốn giữ ý kiến của mình. Trong các chuyện kể trên đời, không chuyện nào có tỉ dụ sâu sắc hơn, phổ biến hơn, cho người ta lời dạy bảo có ích hơn chuyện anh mù sờ voi.
Bởi vậy, nhiều năm nay, tôi luôn kiên trì nói rằng có thể bênh vực ý kiến giống mình song nên thận trọng hoặc không nên công kích ý kiến khác mình. Cách tốt nhất là bênh vực ý kiến giống mình và vui mừng với ý kiến khác mình, hoặc bênh vực ý kiến giống và học tập ý kiến khác mình. Có thể lão Vương tôi bán dưa nên tự bán tự khen song không như nhát kéo chẳng có cửa hiệu nhánh của Vương Rỗ(2). Nên đề xướng đa nguyên cùng bổ sung cho nhau chứ không nên hơi một tí là có tôi không có anh.
Tôi dốc sức đề xướng và xây dựng phẩm cách học thuật có tính xây dựng. Trong nhiều trường hợp, tôi chủ trương chữ Lập đứng đầu, chữ Phá có ở trong đó. Có Lập được đúng đắn thì mới có thể Phá, có nghĩa là trừ bỏ hoặc vứt bỏ những điều sai lầm. Sự thực đã chứng minh không Lập, tức không xây dựng, mà chỉ Phá đơn thuần thì hậu quả thường mang lại chỉ có thể là mất chuẩn mực, hỗn loạn, trụy lạc. Khoảng chân không này còn tồi tệ hơn cả khi chưa phá.
Điều thứ năm, vì những điều nói trên, tôi đề xướng hiểu biết, tôi tin tưởng hiểu biết lẫn nhau còn cao hơn cả yêu nhau.
Thậm chí khi phê bình sai lầm, trước hết vẫn nên hiểu đối phương để biết vì sao anh ta sảy chân lỡ bước, làm sao lại phiến diện và thổi phồng; để biết tính hợp lý cục bộ của anh ta và ánh sáng rực rỡ đó làm sao lại kết hợp, biểu hiện cùng với tính sai lầm về tổng thể, chứ không nên coi đối phương là yêu nghiệt một cách giản đơn. Không ai có quyền hơi một tí là coi người có ý kiến đối lập là yêu nghiệt, là ma trâu thần rắn.
Tôi chủ trương hễ thấy sự việc mình chưa từng gặp hoặc chưa hiểu rõ thì trước hết hãy cố gắng tìm hiểu và thể hội; khi đã nắm vững thật sự rồi, lúc đó mới phê bình và uốn nắn. Tôi không tán thành thói xấu hễ gặp cái gì mình không hiểu là lên tiếng thảo phạt ngay, cứ khép tội đã rồi tìm lý do sau. Cái gì mình không hiểu không nhất thiết đã xấu. Cách làm tốt nhất đối với điều mình chưa hiểu là hãy xem xét và nghiên cứu, nếu vẫn chưa hiểu thì hãy tạm treo nó lên.
Tìm hiểu như tôi nói có nghĩa là bạn làm rõ chân tướng, làm rõ chân tướng đã rồi mới phán đoán giá trị. Đó là nguyên tắc cơ bản. Nếu phán đoán giá trị trước rồi mới hỏi đến chân tướng, thậm chí không bao giờ hỏi đến chân tướng thì đó là tiêu chí nổi bật để nhận biết người thông minh và kẻ thiểu năng trí tuệ.
Bất kỳ người nào có ý muốn cho mình là người cầm trịch chân lý, cầm trịch đạo đức, cho mình là Chúa Cứu thế, mọi người đều đục riêng mình ta trong, mọi người đều say riêng mình ta tỉnh thì chớ có nhẹ dạ cả tin.
Sở dĩ tôi đề xướng “fair play” là vì tôi không tin bản ý của Lỗ Tấn lại là muốn người ta đấu tranh tàn khốc không ngơi không nghỉ, do đó tôi tán thành không tranh luận vô vị. Đối với những danh từ, khẩu hiệu màu mè đủ kiểu, đối với những điểm nóng, vấn đề nóng, đối với những lời lẽ khua môi múa mép, tôi thường giữ thái độ bình tĩnh, không động tâm, không nổi nóng, chờ xem biến đổi, không tin tà thuyết, đối chiếu giữa lời nói và việc làm rồi so sánh và phân tích; do đó tôi thường hoài nghi những lời tuyên cáo tự mình sáng tạo ra hoặc tự mình phát hiện ra chân lý cuối cùng.
Điều thứ sáu, tôi thừa nhận ngoại lệ đặc biệt song càng coi trọng trạng thái bình thường hơn; tôi mơ tưởng một giây chớp nhoáng nào đó song càng coi trọng sự thường xuyên; tôi không tin có thể dùng ngoại lệ đặc biệt và sự việc chớp nhoáng để phủ định trạng thái bình thường; tôi không tin sự cố ý làm khác người nói chung, cho dù sự khác người đó xuất hiện dưới hình thức ăn to nói lớn như thế nào.
Bởi vậy tôi tha thứ, thậm chí thường thông cảm với phàm tục, tôi cho rằng khoan dung thích đáng là điều tất yếu.
Trong đối xử với người, tôi thích thái độ đi vào việc cụ thể, tôi thà giả định mọi người đều có khuyết điểm và đa số là tầm thường. Tầm thường không phải là lỗi lầm, thông tục không phải là tội lỗi, không cần thiết ghét cái xấu như ghét kẻ thù. Ích kỷ, làm lợi cho mình cũng không phải là tội nhưng không được hại người. Hại người, hại nước, chỉ biết mưu lợi cho cá nhân là những thói tôi rất ghét.
Vận dụng và thảo luận học thuật, tôi cho rằng trong trăm nhà đua tiếng tất nhiên phải có số lượng lớn lời nông nổi, lời thiên lệch, lời thô lậu, lời “cứt chó”. Tôi cũng từng nói nhiều lần rằng trong trăm nhà, có vài ba nhà trình bày sâu sắc và chân thực thì đã quý lắm rồi. Nếu bạn cho rằng “tỉ lệ vàng” như thế là quá thấp, nhân đó phế trăm nhà đua tiếng đi thì không chừng cách chân lý càng xa chứ không phải càng gần. Không thể bỏ ăn vì nghẹn được.
Tôi đương nhiên thừa nhận đặc thù, thừa nhận ngoại lệ, song tôi không thể tùy tiện tán thành việc dùng ngoại lệ và đặc thù để phủ định quy luật nói chung. Chẳng hạn vừa nói đến yêu là nhấn mạnh không được yêu con vi trùng lao, vừa nhấn mạnh nghiệp vụ là biện bác liệt sĩ nọ đâu có vĩ đại vì nghiệp vụ v.v... Đó đều là lối ngụy biện vô ích. Chúng ta coi trọng đặc thù, ngoại lệ thì chúng ta càng nên để mắt tới tình hình chung, để mắt tới quần thể, để mắt tới trạng thái trong tình thế thông thường. Nói khoan dung, đương nhiên là muốn chỉ trạng thái bình thường chứ không phải để chỉ giây phút đâm lưỡi lê vào kẻ địch. Cả đến những lời đáng phế bỏ như thế nào cũng đem ra nói, tôi thật lấy làm tiếc cho điều đó.
Điều thứ bảy, về phương diện ham học, ham hiểu biết, tôi coi trọng học tập ngôn ngữ, ngôn ngữ dân tộc khác, triết học, lôgích học và kiến thức thông thường về toán học, khoa học nói chung.
Tôi thích đọc sách báo, thích suy nghĩ, thường so sánh, nghiên cứu, không cẩu thả tán đồng cũng không cẩu thả bài bác, tin rằng rất nhiều chân lý đều phải được thực tiễn kiểm nghiệm. Tôi tin cây đời luôn xanh tươi, tin giữa chân thiện mỹ có rất nhiều chỗ tương thông và bồi dưỡng lẫn cho nhau.
Tôi có hứng thú với những sự vật trên đời bề ngoài có vẻ khác nhau nhưng trên thực tế lại gần gũi nhau, cũng như bề ngoài cùng thuộc một loại nhưng trên thực tế lại chẳng giống nhau. Nhận ra được điều đó mới là những phát hiện rất thú vị.
Tôi đặc biệt mong muốn bồi dưỡng cho bản thân những tri thức và kỹ năng rất không tương đồng và liên can, chí ít thì cũng trong phạm vi thường thức. Chẳng hạn như lý luận lôgích và thơ trực quan, chẳng hạn như hý khúc địa phương và nhạc giao hưởng cùng nhạc jazz. Hằng ngày tôi đều cảnh giác và trừ bỏ cái nhìn thiển cận và đứng nguyên một chỗ. Tôi vẫn cảm thấy mình chưa hoàn toàn thoát ra khỏi bóng đen của căn bệnh đó.
Điều thứ tám, tôi coi trọng kết luận và cũng coi trọng phương pháp. Xét xem phương pháp của ai đó thì có thể nhận biết người ấy không hề lấy thiên lệch để đối với thiên lệch, đem thô bạo đổi lấy thô bạo, đem riêng tư đổi lấy riêng tư.
Tôi thường phát hiện phương pháp mà hai bên kịch liệt xung đột với nhau thường dùng là có ta không mày, là mạt sát sự thực, là “lục kinh chú ngã”(1), là đưa ra kết luận rồi sau đó mới hùng biện, thậm chí cả phương pháp nói khoác, làm bộ làm tịch để dọa nạt nữa.
Tôi học được ở phép biện chứng rất nhiều điều bổ ích, bao gồm biện chứng pháp của Lão Trang, biện chứng pháp của Hegel, biện chứng pháp của các lãnh tụ cách mạng. Tôi càng được biện chứng pháp của bản thân cuộc sống gợi mở cho rất nhiều điều, vì vậy tôi coi khinh những đầu óc xơ cứng chỉ biết một mà không biết hai, ba, nói năng ấp úng thiếu rõ ràng, bảo thủ, rao bán cái xấu xa tuần hoàn tự túc.
Điều thứ chín, về thái độ đối với cuộc sống, tôi thích sống vui vẻ, có hứng thú với mọi sự vật mới, cũ.
Tôi tin rằng hứng thú và niềm vui muôn màu muôn vẻ không những có ích cho sức khỏe mà còn có ích cho học vấn, công tác, cho chí xử lý việc công, việc tư. Ít nhất chúng cũng có lợi cho việc tiếp xúc điều này thì hiểu được điều kia, có lợi cho việc phát triển sức tưởng tượng, từ đó có thể lựa chọn tốt hơn, có lợi cho việc từ điều này suy ra điều khác; có lợi cho ung dung thảo luận, có lợi cho biết người biết ta, có lợi cho quan sát, thể hội kỹ càng, có lợi cho dung nạp nhiều ý kiến, có lợi cho việc trừ bỏ vô tri và thiên kiến.
Tôi ghét và coi khinh nhất là tật giận dữ đến mất trí, thói thích chui ngõ cụt, thói chỉ nhằm vào một điểm mà công kích, thói chỉnh người chỉnh mình, nghìn bài như nhau, tự đóng khung, kết bè kéo cánh, xưng bá xưng vương.
Điều thứ mười, về vấn đề sứ mệnh của người trí thức, tôi chủ trương ai làm tròn việc của người nấy. Chỉ có làm tốt công việc của mình thì mới làm cho đất nước phát triển được thiết thực, mà có phát triển thiết thực thì mới có tất cả. Không phát triển thiết thực được mà chỉ vội vã đưa quan điểm của nước ngoài vào thì không làm nên việc gì cả. Nếu bảo nước ta có bệnh kinh niên khó chữa nào đó thì cũng như bệnh kinh niên của một người, ai nấy xúm vào đòi chữa, tranh chấp về phương án trị liệu đến sứt đầu mẻ trán thì người ấy nhất định không chữa đến chết không xong. Người ta thường tránh nói đến bệnh tật và sợ phải chữa, hoặc ngược lại tự dối mình và dối người thì cả hai đều chẳng nên. Phương pháp đúng đắn chỉ có thể là thực sự cầu thị, tuần tự tiệm tiến, chú trọng tích lũy, chú trọng dựng xây.
ở đây cũng có vấn đề về trạng thái bình thường và trạng thái bất thường. Trong thời kỳ không bình thường, người ta thường vứt bỏ công việc của mình, công, nông, binh, học sinh và thương nhân đều cùng cứu nước. Cũng giống như một người ngày ăn ba bữa, đó là trạng thái bình thường, còn trong tình hình bất thường, có thể ba ngày cũng không ăn một bữa. Kết quả của cách mạng rốt cuộc khiến người ta càng sống trong trạng thái bình thường nhiều hơn hay càng khiến người ta sống trong trạng thái bất thường nhiều hơn? Đây vốn dĩ không phải là vấn đề gì sâu sắc.
Điều thứ mười một, về mặt làm người, tôi chọn cho mình mấy châm ngôn như sau:
Đại đạo vô thuật: cần phù hợp với đại đạo một cách tự nhiên, không để ý đến một số kỹ xảo hoặc những chuyện làm ồn vụn vặt về mặt quyền thuật cùng những được mất nhỏ nhặt.
Đại đức vô danh: thật sự đức hạnh, thật sự làm được những việc tốt đáng kể thì không nên và cũng không thể xuất đầu lộ diện cho người ta biết.
Đại trí vô mưu: học những trí tuệ lớn để làm người đại trí, làm và ngừng đều đúng mực, không cần phải lao tâm khổ tứ để nghĩ ra các loại kế sách, mà nếu không khéo thì đâm nghiện âm mưu quỷ kế
Đại dũng vô công: công của bậc đại dũng thì nơi nào cũng có, không nên làm nổi bật bản thân, khoe khoang bản thân, không nên phô trương, không nên vì không có công được biểu dương mà tự bốc thơm.
(Những điều nói trên về đại thể không thích hợp với quan điểm thẩm mỹ trong văn học của tôi. Tôi cho rằng văn học nghệ thuật là sự bổ sung và sự bật trở lại giữa hoạt động thực tiễn và hoạt động học thuật của loài người. Chính hoạt động văn nghệ mới càng cần đến sự kỳ tưởng, cuồng tưởng, trạng thái thất thường, thần bí, tiềm thức để tìm tòi và đột phá không bao giờ ngơi nghỉ. Cho rằng chỉ dựa vào sách giáo khoa triết học bậc trung học cơ sở là có thể khua chân múa tay với văn nghệ thì thật là chủ quan một cách thơ ngây).
Tổng hợp những điểm nói trên, tôi muốn đổi sang một phương thức khái quát tương đối triết học hơn để nói về mấy nguyên tắc mà bản thân tôi tuy nhiều năm nay có thực hiện song chưa được tự giác.
1. Nguyên tắc trung đạo hoặc trung hòa. Thừa nhận tính phức tạp và tính đa nguyên của thế giới, thừa nhận tính mâu thuẫn và phép biện chứng của thế giới, thừa nhận tính tương đối của mỗi một nhận thức cụ thể, thừa nhận sự biến động của lịch sử là do nhiều lực hợp lại mà tạo nên, còn phương hướng của những hợp lực này là tiến lên theo đường đối đỉnh của hình bình hành bốn cạnh - tức trung đạo. Tôi xưa nay luôn dốc sức tìm kiếm điểm gặp nhau giữa các mặt của những mâu thuẫn khác nhau. Tôi tin tưởng ở “hòa vi quý” (hài hòa là quý) trong tình thế bình thường.
2. Nguyên tắc trạng thái bình thường hoặc kiến thức thông thường (tôi không phủ nhận biến thái và dị thái nhưng dùng khái niệm thường thái - trạng thái bình thường để bao dung biến thái và dị thái. Cái gọi là biến thái và dị thái đến từ thường thái rồi lại trở về sự biến dị của thường thái, là sự dao động, lắc lư của thường thái, cuối cùng cũng là một hình thức của thường thái.)
Bởi vậy tôi thừa nhận tính bỉ ngạn (bờ bên kia) của văn hóa và tính nhân gian của văn hóa; thừa nhận tính thế tục của nhân loại, thừa nhận tính hợp lý của việc phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, làm lợi và tránh hại; thừa nhận nguyên tắc lợi ích lớn nhất của tuyệt đại đa số người dân; thừa nhận tính hợp lý giữa đời sống của quốc gia, dân tộc, xã hội (kể cả xã hội quốc tế) với những nỗ lực về chính trị. Còn đối với những lời lẽ buông thả, bàn luận cao xa ra đời từ lưng chừng trời thì tôi giữ thái độ thận trọng.
3. Nguyên tắc lành mạnh. Như thế nào là lành mạnh và như thế nào là không lành mạnh?
Nguyên tắc lý tính là lành mạnh. Nóng giận đến mất khôn, khua chiêng đánh trống, khoe mẽ, chủ quan theo ý mình đều không lành mạnh, là bệnh hoạn.
Thiện ý, làm điều tốt cho người, quang minh chính đại, lòng dạ rộng mở là lành mạnh. Ác ý, lòng dạ hẹp hòi, gây điều ác cho người, hơi một tí đã hùng hổ đấu đá là bệnh hoạn.
Nguyên tắc lạc quan là lành mạnh. Trước mọi sự phiền phức không hề ảo tưởng nhưng vẫn giữ thái độ lạc quan đối với con người, đối với lịch sử và đối với văn minh nhân loại là lành mạnh. Hơi một tí đã rêu rao muốn treo cổ trên cột điện là bệnh hoạn.
Nguyên tắc lành mạnh là nguyên tắc làm lợi cho mình và vui với cuộc đời, đồng thời cũng là một nguyên tắc về đạo đức. Tôi tán đồng câu tổng kết “quân tử thản đãng đãng, tiểu nhân thường thích thích”(1). Cảnh giới đạo đức và trí tuệ càng cao thì càng có thể làm, càng nên làm những việc có lợi cho sự lành mạnh về thân thể và tâm hồn của mình và của người khác chứ không nên làm những việc hại người hại mình, làm những việc khổ cho người, khổ cho mình.
Nguyên tắc lành mạnh đồng thời cũng là nguyên tắc trí tuệ. Bậc trí giả thường biết đối xử với đủ mọi vấn đề một cách lành mạnh. Thí dụ về việc này có vô số.
Những nguyên tắc nói trên chẳng những không tách rời nhau mà còn là điều kiện cho nhau. Chẳng hạn thiện ý là thường thái, trung đạo hầu hết là lành mạnh.
Những nguyên tắc trên quả thật quá bình thường, quá mềm yếu, quá thông thường, không hề có điều nào đáng kinh ngạc, lạ lùng. Trong thế giới bóng đao ánh kiếm, lừa bịp, dối trá, gian nan, khốn khổ, tích oán trùng trùng, những nguyên tắc của tôi tỏ ra quá “bị thịt”. Nhưng tôi vững tin người ta cần đến những nguyên tắc có tính thường thức đó, hy vọng người ta chú ý đến chúng chứ không phải là ngược lại.
Kỳ thực tôi cũng thiên về coi trọng sự gợi mở của kinh nghiệm hơn, thiên về coi trọng sự gợi mở của cuộc sống, thiên về coi trọng tính tương đối của sự vật, thiên về coi trọng thường thái, thường lý, thường thức của sự vật. Tôi thực sự chẳng có phát minh gì, vả cũng không thích biểu diễn ngựa đen(1). Mặt khác, tôi tương đối có nhược điểm sơ suất về mặt nghiêm ngặt, cẩn thận trong nghiên cứu học thuật, về mặt nghiêm chỉnh của hệ thống, về mặt uyên bác trong chứng minh, trích dẫn, về mặt cứng rắn trong quyết đoán sát phạt cùng tính chính xác trong dùng từ và luận đoán. Một số kiến giải của tôi nếu bảo là học thuật thì chẳng bằng nói là thường thức của nhân sinh. Thừa nhận nhân sinh, thừa nhận thường thức thì chúng ta sẽ có được cơ sở để thảo luận và giao lưu.
Tôi thích hài hước
Tôi hy vọng hài hước nhiều hơn một chút, ít một chút giận dữ đến mất trí, ít một chút cố chấp cực đoan.
Có ung dung mới có hài hước, đối xử bình đẳng với người mới có hài hước, siêu thoát mới có hài hước, thành thạo có thừa mới có hài hước, thông minh thấu triệt mới có hài hước.
Nói như thế là để nói nôn nóng khó có hài hước, làm bộ làm tịch khó có hài hước, chui vào ngõ cụt khó có hài hước, kín được đầu thì hở chân khó có hài hước, đần độn chậm chạp khó có hài hước.
Tôi mong có nhiều hài hước hơn một chút không phải chỉ để được cười. Đương nhiên tôi cũng mong có nhiều nụ cười hơn, ít “có ta không mày” hơn.
Tôi càng mong có lý tính trong sáng hơn, ít giận dữ đấu đá hơn; có thêm ung dung khoan hậu, bớt đi tính toán chi ly; có thêm thú vị và thanh thoát, bớt đi thói xấu làm liều. 10000 Cũng thêm phong phú, thêm mỹ cảm, thêm trò chơi về ngôn ngữ một chút, bớt đi nghìn bài như một, bớt đi ngán ngẩm và khô khan một chút.
Có một loại người bản thân không hài hước và cũng không cho phép người khác hài hước. Họ đáng thương quá. Tôi chợt nghĩ tới câu nói của một nhà văn nước ngoài, nói rằng nếu có một phần tử nguy hiểm trong đám đông mà bạn không biết hắn là ai thì bạn hãy kể một truyện cười, người nào có phản ứng bình thường, tức thích hài hước thì nói chung đó là người tốt. Còn người nào chỉ muốn kiện cáo, luôn cảm thấy người ta nợ mình trăm quan tiền thì bạn kể càng buồn cười, anh ta càng trợn mắt dựng mày, thì hầu hết là KGB.
Chắc chắn là như vậy!
Còn có một cách nói cao siêu hơn là theo tiêu chuẩn nước ngoài, nhất là nước Anh, thì Trung Quốc không có humour. Tôi không mấy tin tưởng cách nói đáng sợ hoặc dọa người này. Một nước không có hài hước, humour thì khó mà tồn tại được, y hệt một người khó sống nổi vì không có hài hước, humour vậy. Không có tính hài hước thì ai còn dám giao thiệp với anh ta? Ai còn dám sống chung với anh ta hoặc chị ta nữa? Người như thế chẳng phải đã giết người hoặc tự tử từ lâu rồi sao?
Cái lưỡi thứ hai của tôi
Một tối mùa thu năm 1987. Trưa hôm đó, đoàn ca múa Tây Tạng tới Bắc Kinh biểu diễn được mời dùng cơm trưa. Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Sma-y Ai-mai-ti lên phát biểu. Tôi động viên ông nói bằng tiếng Duy Ngô Nhĩ và tôi đảm nhiệm chức vụ phiên dịch. Ông thoái thác một lát rồi chúng tôi thao tác như vậy. Mọi người được một bữa cười no.
Tôi thích nghe tiếng Duy Ngô Nhĩ, tôi thích nói tiếng Duy Ngô Nhĩ. Tôi thường đắm mình trong cảnh êm đềm đồng bào dân tộc thay nhau dùng ngôn ngữ của dân tộc mình say sưa, sảng khoái bày tỏ tình cảm, biểu đạt ý muốn mà đồng thời tôi lại có thể giao lưu rất tốt. Ngoài ra, cũng không thể giấu giếm là tôi không chịu bỏ qua bất kỳ cơ hội nào có thể sử dụng ngôn ngữ Duy Ngô Nhĩ, có thể luyện tập để nâng cao tiếng Duy Ngô Nhĩ, thậm chí có thể khoe trình độ tiếng Duy Ngô Nhĩ của mình. Hễ nói bằng tiếng Duy Ngô Nhĩ là thần sắc tôi hớn hở, xuân phong đắc ý, sinh động hoạt bát, nhạy bén khôi hài. Một loại ngôn ngữ không chỉ là một thứ công cụ mà là một loại văn hóa; tôi như được ở trong nhóm người sống động, giàu hương vị của cuộc sống. Ngôn ngữ là một vẻ đẹp kỳ diệu, là vẻ đẹp của thiên nhiên và cũng là vẻ đẹp của con người. Dân tộc Duy Ngô Nhĩ là một bộ phận thật sự kỳ diệu của thế giới, là một đoạn trải nghiệm mãi mãi khó quên của tôi. Đó còn là những bi hoan ly hợp của hàng loạt bạn bè của tôi, là tình hữu nghị và tấm lòng của họ nữa.
Cuối thập kỷ 60, khi số phận ban cho tôi cơ hội được cùng sống với nông dân Duy Ngô Nhĩ, sau đó bão táp chính trị đã quăng tôi tới vùng ven thung lũng Y Lê ở biên thùy miền Tây Tổ quốc. Nhờ học tiếng Duy Ngô Nhĩ mà tôi đã đứng vững được ở đó, giành được tình hữu nghị và sự hiểu biết lẫn nhau. Tôi đã học được bao nhiêu tri thức mới suốt đời dùng không hết, đã khắc phục được tình cảnh hiu quạnh và gian nan ở nơi đất lạ, người không quen, làm cho đời sống tinh thần của tôi đầy đủ hẳn.
Tiếng Duy Ngô Nhĩ rất khó học, từ vựng thì vô cùng. Âm đầu lưỡi, âm uốn lưỡi, rồi âm xì hơi, đó là những âm không hề có trong tiếng Hán. Khó khăn hơn nữa là những âm có âm tố gần giống với tiếng Hán, làm sao để nghe ra, nói ra được đặc sắc khác với Hán ngữ của chúng đây? Ngữ pháp lại càng phức tạp hơn, nào là sáu cách của danh từ, nào là thì, thái, nhân xưng và thành phần thêm vào của động từ; có khi một động từ phải thêm vào đến mấy chục thành phần phụ gia... Thật là muốn phức tạp đến mức nào thì có ngay mức đó. Nhưng chính chúng lại làm khuynh đảo lòng tôi, khiến tôi mê đắm. Chúng liên kết với mọi người Duy Ngô Nhĩ hát hay múa giỏi, chúng liên kết với giống dưa ở Thổ Lỗ Phồn, với tuấn mã ở Y Lê và Yên Kỳ, với dao giắt lưng ở Anh Cát Sa, với ngôi chùa lớn Thanh Chân và mộ Hưng Phí ở Ca Thập, với ngọc thạch và thảm len ở Hòa Điền... Tôi rất thích lối phát âm vang xa và mạnh mẽ của tiếng Duy Ngô Nhĩ, rất thích ngữ điệu khiến người ta rạng rỡ nét mặt, rất thích trình tự biểu đạt độc đáo của nó... Hễ nhàn rỗi là tôi lại mở đài nghe phát thanh bằng tiếng Duy Ngô Nhĩ. Lúc đầu, hầu như tôi không hiểu một chữ nào nhưng vẫn cứ nghe, rồi như say, như si chẳng khác nào nghe âm nhạc, và hễ nghe là tươi cười hớn hở, hoa lòng nở rộ. Hai đứa bé nông dân nói chuyện với nhau, tôi đứng bên rót âm thanh vào tai, vừa nghe vừa khâm phục: “Xem kìa, bọn trẻ mới giỏi làm sao! Nhỏ tuổi chừng kia mà đã nói giỏi tiếng Duy Ngô Nhĩ! Mà khoan, chúng vốn dĩ là người Duy Ngô Nhĩ mà. Tiếng ấy là tiếng mẹ đẻ của chúng, chúng biết nói tiếng đó chẳng khác gì con cháu chúng ta vừa học nói là nói tiếng Hán đó thôi, thật chẳng có gì là lạ!”
Tôi học tiếng Duy Ngô Nhĩ đã sắp tới mức tẩu hỏa nhập ma. Tôi học cách dùng tiếng Duy Ngô Nhĩ để phản ứng với tư duy. Ban đêm trở dậy đi tiểu, tôi vịn vào giường và nói karawat, khi mở cửa thì nói ixik, đi men theo tường thì nói tam, đi tiểu thì nói suduk, gió nổi lên thì nói xamal, trở về giường thì tự nhủ uhlay! uhlay! (mệnh lệnh thức ngôi thứ nhất của động từ ngủ). Sau đó nhìn thấy con số trên bàn tính hoặc chữ số Arập, tôi đã có thể lập tức đọc lên bằng tiếng Duy Ngô Nhĩ, nhưng lúc nào đó đột nhiên có đồng chí người Hán hỏi tôi bằng tiếng Duy Ngô Nhĩ đó là số bao nhiêu thì tôi ắt trợn mắt cứng họng, trong phút chốc ngơ ngác chẳng biết trả lời ra sao.
Cuối cùng, tôi có thể nói rằng tôi có thêm cái lưỡi thứ hai. Ngồi cùng người Duy Ngô Nhĩ, tôi cũng có thể miệng như thác đổ, thao thao bất tuyệt như họ, cũng có thể giở trò chơi ngôn ngữ, hàm nghĩa ngoài lời... Không những tôi có thêm một cái lưỡi nữa mà còn có thêm đôi tai thứ hai. Tôi đã có thể thoải mái nghe lọt một thứ ngôn ngữ nữa, lĩnh hội toàn bộ hàm nghĩa, sắc thái, tình cảm... của nó. Tôi có thêm một đôi mắt, đọc hiểu chữ Duy Ngô Nhĩ uốn lượn từ phải sang trái theo hàng ngang. Tôi càng có thêm một cái đầu, một trái tim, có được tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết, tín nhiệm và hữu nghị.
Thực ra có thêm không chỉ là lưỡi, mà còn là đôi mắt. Bạn cũng thế thôi, bạn đọc hiểu sách xuất bản bằng thứ tiếng đó là có thêm một đôi mắt; bạn nghe hiểu nhiều điều và bài hát là có thêm một đôi tai; bạn càng thêm quan tâm và nhớ về họ nhiều hơn là có thêm một trái tim. Tóm lại là một thế giới khác mở ra với bạn.
Người ta chẳng nói “hiểu biết muôn năm” đó sao? Để hiểu biết, chúng ta hãy học và học tốt càng nhiều tiếng nói và chữ viết của các dân tộc anh em, học tốt càng nhiều ngoại ngữ. Thời đại cải cách mở cửa thì càng cần có nhiều tri thức ngôn ngữ và bản lĩnh ngôn ngữ. Vả chăng quá trình học tập này còn có biết bao kinh nghiệm và lạc thú kỳ diệu nữa.
Khuyên làm điều thiện
Lâu nay tôi vẫn cho rằng thiện ác báo ứng là ảo tưởng trẻ con, tự an ủi hoặc thuyết giáo, còn người tốt không được báo đáp là hạt nhân của mọi câu chuyện bi kịch thông tục khuấy động tình cảm, là thủ đoạn chủ yếu của nhà văn hạng ba để kiếm chút nước mắt của bạn đọc (và khán giả), vì vậy cũng là trò trẻ.
Lâu nay tôi vẫn cho rằng mấy loại liệt kê, tổ hợp sau đây là đều có thể: người tốt được đền đáp tốt, người tốt nhưng báo đáp không tốt, người ác được báo đáp tốt, người ác gặp quả báo, người tốt không được đền đáp, người ác không bị quả báo...
Gần đây nói chuyện phiếm với bạn, anh bỗng nhiên nói những kẻ chỉnh anh năm xưa, những kẻ tâm thuật nham hiểm, những kẻ liều mạng kiếm chác không từ một thủ đoạn nào - tức những kẻ ác mà mọi người công nhận, đều có kết cục chẳng ra gì, hiện nay hầu hết bọn chúng cả thân và danh đều bị tiêu vong. Tôi chợt nghĩ, quả có thế thật. Mấy người hơi một tí là hạ độc thủ mà tôi biết rõ thì trong số đó có người đã tự tử từ lâu, có người bị bệnh hiểm nghèo, có người gặp tai họa. Đương nhiên chưa phải trăm phần trăm nhưng tỉ suất báo ứng đã đạt tới 60% hoặc 70%.
Bèn nghĩ, tại sao thế nhỉ?
Rồi bỗng nhiên đại ngộ: ác là một loại bệnh. Tính vị tất đều thiện cả nhưng về đại thể vẫn nên làm sao cho coi được. Trong tính cũng có ác nhưng không có đại ác. Ác trong tính tình chỉ là ích kỷ và dục vọng riêng tư mà thôi, chứ không ác thêm ác hoặc cực ác. Vậy thì tại sao có người lại ác tới mức vượt xa phạm vi tự thỏa mãn cho mình? Tại sao họ liều mạng làm hại người khác, cùng người làm điều ác, đặt mục tiêu phấn đấu suốt đời ở việc hại người, hoặc giả điên cuồng tự thổi phồng mà không làm sao thoát khỏi? Họ có thể vì lòng dạ hẹp hòi, ghen ghét người tài, có thể vì nghi ngờ lung tung, đứng ngồi chẳng yên; có thể vì con ma âm mưu tác quái nên tinh thần bị thương tổn, cơ thể mệt mỏi; có thể vì mặt dày vô liêm sỉ, ti tiện hạ lưu, chỉ vì một chút lợi nhỏ bằng đầu ruồi mà chẳng ngại làm những việc cả người bình thường cũng không dám làm; có thể vì tham lam vô độ, vi phạm pháp luật, làm loạn kỷ cương...
Đây thật ra là một căn bệnh tâm lý, biểu hiện thành cuồng bức hại, cuồng vọng tưởng, biểu hiện thành ảo thính, ảo thị, ảo giác, ảo ảnh; biểu hiện thành nôn nóng điên cuồng phi lý tính, hoặc trầm uất, tức thuộc típ bệnh tinh thần gặp chướng ngại về tình cảm; biểu hiện thành thói quan niệm ngoan cố, chui vào ngõ cụt, tự mình cũng không bằng lòng về mình song không bao giờ tự giải được; biểu hiện thành tự kinh sợ, tự quấy rối, thần kinh suy nhược; biểu hiện thành mừng giận bất thường, làm và nghỉ vô độ, biểu hiện thành căng thẳng cao độ, công năng ức chế và hưng phấn thất thường, không điều tiết được; biểu hiện thành phản ứng quá mức, khoa trương rêu rao; biểu hiện thành nghi ngờ sợ hãi “bóng rắn hình cung”(1), cây cỏ đều là quân lính; biểu hiện thành cuồng tự đại, cuồng tự luyến, cuồng tự ngược, Dạ Lang tự đại(2) nhìn bóng mình mà tự thương, khua chiêng đánh trống, tự bán tự khoe, tự ngã cảm giác thác loạn, phán đoán về ngoại giới cũng sai lầm, lẫn lộn v.v...
Thân thể và tâm hồn không thể tách rời nhau. Thử nghĩ mà coi, một người có bao nhiêu chứng bệnh như trên thì bất hạnh biết mấy? Hẳn người ấy thường nộ khí xung thiên, vằn mắt lên vì tham lam, đầu nặng, lòng sợ hãi, ngũ hành thiếu điều tiết, âm dương khó hài hòa, tiêu hóa không tốt, ẩm thực không ngon, mất ngủ, ra mồ hôi trộm, tim u uất đập mạnh, một bụng bất mãn, luôn cảm thấy người khác nợ mình hai trăm quan tiền nhưng lại muốn thao thao bất tuyệt khoe công, khoe lòng trung, khoe thanh cao, đòi thưởng đòi chiếu cố, đòi danh đòi lợi làm thương tổn tì vị, chẳng khác gì sa xuống địa ngục, rơi xuống biển lửa... Tệ hơn nữa, bạn là người thì người ta cũng là người, bạn có chút thông minh thì người ta chưa hẳn đã không có, hoặc có khi người ta còn thông minh hơn bạn; bạn chỉnh được người thì người ta cũng có thể phản kích bạn. Thế là người ác thì ai cũng ghét, người nào so kè tính toán với người khác thì người ta cũng tính toán so kè lại, người nào nghi ngờ người khác thì người ta nghi ngờ lại, người làm điều ác với người khác thì sớm muộn gì cũng có ngày trở nên cô quả, bốn mặt đều quân địch, chẳng khác gì rau hẹ tháng Sáu thối inh cả phố và như thế thì người ấy càng có thêm gánh nặng về tư tưởng.
Dùng phương pháp ác độc có thể được lợi, giành thắng nhất thời trong một việc nào đó, nhưng năm tháng, ngày ngày qua đi, kẻ ác cuối cùng cũng sẽ bị xã hội phỉ nhổ và lịch sử trừng phạt. Lòng dân đều hướng về cái thiện, người người vui với việc thiện, đó là điều mà kẻ ác không có cách nào làm được, đó cũng là nguyên nhân căn bản khiến kẻ ác không bao giờ có được sự cân bằng về tâm lý và niềm vui sáng sủa. Như thế lúc nào họ mới thoát khỏi đau khổ hoặc bớt đau khổ chút ít đây?
Người đời hãy nên lương thiện, đôn hậu một chút, cho dù đó chỉ vì khiến cho thân thể mình được khỏe mạnh, tâm hồn mình được lành mạnh.
Lương thiện
Lương thiện dường như là những chữ đã lỗi thời từ lâu. Trong cuộc cạnh tranh sinh tồn, trong cuộc đấu tranh giai cấp, trong đủ mọi quan hệ giữa người và người, nguyên tắc lợi ích và nguyên tắc thực lực dường như đã thay thế nguyên tắc đạo đức.
Đương nhiên chúng ta cũng biết trong một số trường hợp nào đó nếu chỉ một mực lương thiện thì cũng không đủ nhờ cậy. Chúng ta đã từng nghe rất nhiều truyện ngụ ngôn về người tốt bụng cũng tức là người ngu xuẩn. Đông Quách tiên sinh(1), người nông dân và con rắn trong hai truyện đều là người thực đáng cười biết mấy! Chuyện mách bảo chúng ta nếu đối tượng là sói, là rắn thì tốt bụng là tự chuốc lấy diệt vong, người tốt bụng có chết cũng đáng đời. Tốt bụng là giúp cho con sói dữ và con rắn độc làm điều ác, tốt bụng là thiểu năng trí tuệ.
Song chúng ta cũng không ngại nghĩ thêm, trong số những người cần giúp đỡ, trong số những người rét cóng và bị thương nặng đang chờ bàn tay cứu trợ của người tốt bụng, có bao nhiêu phần trăm là rắn độc và sói dữ đây? Chúng ta còn muốn hỏi giữa vạn vật trong vũ trụ, có bao nhiêu phần trăm là rắn độc và sói dữ? Vì số rắn độc và sói dữ có hạn ấy mà không ngại coi tất cả là rắn độc và sói dữ, không ngại dùng nguyên tắc đối phó với rắn độc và sói dữ làm tiêu chuẩn của mình thì thử hỏi đó là bệnh gì?
Chúng ta còn có thể hỏi thêm, trong số những người đen đủi bị chúng ta đối xử bằng thái độ đối với rắn độc và sói dữ, đã có bao nhiêu người là rắn độc và sói dữ thật sự chịu đựng được sự thử thách của thời gian. Nếu bảo một mực tốt bụng đối với rắn độc và sói dữ là hồ đồ chẳng khác gì người nông dân và tiên sinh Đông Quách, vậy đối với những người không phải rắn độc và sói dữ mà lại kiên quyết đối xử với họ bằng thái độ đối xử với rắn độc và sói dữ thì chúng ta sẽ thành thứ gì? Phải chăng tự chúng ta đã tiến gần đến rắn độc và sói dữ?
Khi đặt tốt bụng cạnh hung ác mà so, thì tốt bụng mới non nớt, yếu ớt biết bao, còn hung ác mới to khỏe, lớn mạnh biết bao! Hung ác sẽ không chút do dự chìa bàn tay độc ác với tốt bụng, còn tốt bụng thì ở vào thế không đề phòng, thậm chí không hề đề kháng. Hung ác không điều gì là không làm vì thế nó có đủ các loại vũ khí. Còn tốt bụng thì có điều không làm bởi vậy vũ khí của nó ít hơn của hung ác rất nhiều. Tốt bụng thường thất bại trong tay hung ác.
Nhưng người ta vẫn thích tốt bụng, hoan nghênh tốt bụng, hướng về tốt bụng. Có tốt bụng mới có hạnh phúc; có tốt bụng mới tập chung sống hòa bình và vui vẻ với người khác; có tốt bụng mới tập trung được tinh lực để làm những việc có ý nghĩa và có tính xây dựng; có tốt bụng mới thoát ra khỏi những cuộc đấu đá ác tính và tự ngã tiêu hao không biết đâu là dừng; có tốt bụng mới có thể thực hiện cục diện lành mạnh hoặc chí ít cũng là bình thường. Tóm lại, có tốt bụng thì thiên hạ mới thái bình.
Đó chính là sức mạnh của tốt bụng. Sức mạnh của tốt bụng ở chỗ vì nó thuộc về người. Nó là của người, nó thuộc về lịch sử, thuộc về văn minh, thuộc về lý tính, thuộc về khoa học. Nó thuộc về người càng văn minh, càng cao thượng, càng phát triển và càng tốt bụng. Nó thuộc về xã hội càng văn minh, càng dân chủ, càng phát triển, càng giàu mạnh.
Mỗi lần chiến thắng lương thiện, hung ác lại co vào một chút, bởi vì nó tuyên cáo chính nó là xấu xa. Mỗi lần thất bại về tay hung ác, lương thiện lại nở rộng ra một chút, bởi vì nó tuyên dương sự sáng rỡ của mình.
Lương thiện là một loại trí tuệ, là một loại nhìn xa, là một niềm tự tin, là một sức mạnh tinh thần, là một chốn bình an cho tinh thần, là sự trầm lắng, bình ổn lấy nhàn nhã đối xử với vất vả, là một loại văn hóa, là một niềm khoái lạc, là một nét lạc quan.
Lương thiện có thể liên hệ với ngây thơ và cũng có thể liên hệ với siêu đẳng của thuần thục. Trong đa số trường hợp, lương thiện sở dĩ không làm điều ác là vì không muốn làm chứ không phải không làm được. Người lương thiện không phải không biết tự vệ và chống trả mà chỉ vì không muốn lạm dụng quyền “phòng vệ chính đáng” đấy thôi. Thông thường là như sau: trẻ con thường tính thiện, người thực sự thẩm thấu sự lớn mạnh của nhân sinh và thế giới cũng tính thiện. Còn người nào cả một bình cũng chưa cho là đủ song chỉ nửa bình đã ngất ngư thì tính chẳng thiện vào bậc nhất.
Quân tử lòng dạ bằng lặng mở rộng, tiểu nhân lòng dạ thường hẹp hòi, lo buồn. Kẻ ác càng thường cảm thấy bốn mặt đều là quân thù, chẳng khác nào phải đối mặt với kẻ địch lớn, bởi vậy lên tiếng thì thê lương, hành động thì hoang đường, muốn hòa hợp thì ít người theo, trong lòng luôn hoảng sợ. Còn người tốt thì mỉm cười đối mặt với hiện thực, không bao giờ mất lòng tin ở thế giới, ở loài người, ở Tổ quốc, ở bạn bè và lý tưởng.
Tôi thích lòng tốt và không thích hung ác. Tôi thấy rằng ví dù mình tự cho đã đại diện trăm phần trăm cho chân lý và chính nghĩa thì cũng không nên lạm phát cái ác. Bản thân việc lạm phát cái ác đó không còn là chính nghĩa nữa rồi. Tôi tin rằng người Trung Quốc cuối cùng sẽ càng ngày càng lương thiện chứ không phải là ngược lại. Trong “Đại Cách mạng Văn hóa” hung ác chẳng phải đã chiếm thượng phong đó sao? Hung ác chẳng phải đã khoác hết tất cả những bộ quần áo có màu sắc mê hoặc được người ta đó sao? Sau đó đã ra sao rồi?
Không đề phòng
Tôi có ba con dấu để chơi: vô vi nhi trị, tiêu dao, bất thiết phòng. Về vô vi và tiêu dao, tôi đã nói rồi. Bây giờ nói về bất thiết phòng.
Bất thiết phòng là không đề phòng, có hạt nhân một là quang minh, bằng phẳng và rộng rãi, hai là không sợ bộc lộ khuyết điểm của mình.
Tại sao không đề phòng? Vì không cần thiết phải làm như thế. Không có lòng hại người, không có ý cẩu thả, không có ý phạm pháp, không có tư tưởng trái lẽ thì đề phòng cái gì? Ai có thể làm gì với người không đề phòng như thế?
Tôi viết bút lông rất kém nhưng vẫn có người đến xin chữ tôi. Tôi thích nhất câu châm ngôn tự soạn ra gồm bốn chữ là “đại đạo vô thuật”. Thông minh lanh lợi quỷ quái dù sao cũng chỉ là thông minh lanh lợi loại nhỏ, thủ đoạn nhỏ chỉ có thể hữu hiệu nhất thời. Thủ đoạn nhỏ chỉ có thể làm rùm beng một lúc. Chỉ có đại đạo, đạo của quy luật khách quan, đạo của phát triển lịch sử, đạo của làm văn, làm người mới có thể thực sự giải quyết vấn đề. Đề phòng chỉ là tiểu thuật, tỉa tót tẩn mẩn. Dựa vào tiểu thuật chỉ chiếm được lợi nhỏ, cuối cùng để lại tiếng cười cho người trong nghề. Đề phòng thì phải làm bộ làm tịch, lời nói và việc làm không đi đôi với nhau, làm trò hề ngay tại trận, không giấu được đuôi, chỉ làm trò cười. Đề phòng thì phải đeo mặt nạ, chặn bạn bè chân chính ở ngoài ngàn dặm, cuối cùng chẳng ra làm sao, trở thành cô độc.
Không sợ để lộ khuyết điểm của mình, thậm chí dám tự trào, điều đó có nghĩa là tỉnh táo, càng có nghĩa là tự tin, sống động và chân thành. Khuyết điểm đành khuyết điểm, nhược điểm đành nhược điểm, không định hù dọa người, không định lừa bịp người mà thân thiết đối xử với người thì nhân chân thành mà được đáp lại bằng chân thành. Không lo lắng vì hình tượng của mình, không nóng giận vì lời nói bóng gió của người khác, không hơi một tí là lôi mình ra, tô son trát phấn cho mình. Tự khua chiêng đánh trống, tự than tự oán, tự nôn nóng làm mình làm mẩy đều là kết quả của việc không một sở trường, không chút tự tin, thật là đáng để cho người cười chê.
Nói trên một phương diện khác, không đề phòng lại là bảo vệ tốt nhất. Thân thiết và rộng mở, được ngàn vạn bạn đọc và bạn bè hiểu biết và ủng hộ, được người trên kẻ dưới, trong ngoài, tả hữu hiểu biết và ủng hộ, như thế chẳng phải là tuyến phòng thủ không sao công phá nổi, hơn cả tuyến phòng thủ Maginot(1) hay sao?
Sở dĩ không đề phòng còn có một nguyên nhân có lẽ là quan trọng nhất và căn bản nhất: chúng ta không có thời gian. So với đề phòng cá nhân, chúng ta có càng nhiều công việc có ý nghĩa hơn nữa cần làm. Làm tốt công việc, đó cũng là phòng ngự và tấn công tốt nhất đối với những ai chuyên quấy rầy không cho người khác làm việc.
Vì không đề phòng phải chăng cũng có lúc bị thiệt, cũng có lúc để cho những kẻ tiểu nhân có ý xấu được dịp tóm liều bím tóc, chụp mũ bừa bãi?
Đương nhiên là có. Nhưng nói về lâu về dài, được lớn hơn mất, tuy mất nhưng lại được, vì thế không đề phòng vẫn là niềm tin mà từ đầu chí cuối tôi không hề hối.
Tiêu dao
Chẳng biết vì sao từ nhỏ tôi đã thích hai chữ “tiêu dao”. Vì hình dạng của chữ chăng? Hai chữ cùng có chung bộ quai xước chỉ sự đi, cho người ta cảm giác vận động tung hoành từ trên xuống dưới và cảm giác rộng mở. Vì âm tiết của hai chữ chăng? Một chữ âm bình, một chữ dương bình, hai vần phức hợp gồm nguyên âm tròn môi và không tròn môi khiến người ta liên tưởng đến những từ dao dao, thiền thiền, chiêu chiêu, tiêu tiêu, sâm sâm, kiêu kiêu, niễu niễu, tiệu tiệu..., mỗi từ đều có một vẻ đẹp.
Chẳng biết hai từ ấy có ý nghĩa gì đối với Trang Chu, đối với phái “tiêu dao” không tham gia đấu tranh trong “Đại Cách mạng Văn hóa”? Cũng chẳng biết từ cuốn Thuyết văn đến từ điển Từ hải đã có bao nhiêu cách giải thích về “tiêu dao”? Còn đối với cá nhân tôi, về cơ bản đó là một thái độ sống giàu thẩm mỹ, coi cuộc đời, sự nghiệp, công tác, kết bạn, lữ hành cho chí mọi loại chìm nổi đều là một cách thể nghiệm phong phú, đầy đặn và toàn diện; coi thiên nhiên, cả một vùng Thần Châu(1) các sắc tộc, các vật đủ loại, mọi sự kiện đều là đối tượng của thẩm mỹ, là sân khấu lớn của đời người để từ đó có được cảm giác rộng mở, tự do và siêu việt.
Tự mình có phong phú thì mới cảm nhận được sự phong phú của thế giới; thế giới của người hẹp hòi, cố chấp thì chỉ có thể là một lỗ huyệt không bao giờ chui ra được. Tự mình có ham học thì mới cảm nhận điều mới lạ của thế giới; thế giới của kẻ lười biếng chỉ có thể là sự lặp lại đơn điệu. Tự mình có lương thiện thì mới cảm nhận được vẻ đẹp của thế giới, còn xung quanh những kẻ âm mưu bao giờ cũng là ám khí và cạm bẫy. Tự mình có bằng lặng thênh thang trong lòng thì mới có thể sống một cách tiêu dao giữa trời và đất, kẻ ham hố chút lợi nhỏ bao giờ cũng thường giật mình, sợ hãi.
Vì tiêu dao nên không bao giờ để bản thân vướng mắc vào những vụ nhân sự rắc rối, nhàm chán, nào anh anh tôi tôi, ân ân oán oán, nào bới bới móc móc, thầm thầm thì thì. Những người như thế nhiều nhất cũng chỉ giành được “thành tựu” bằng con muỗi - vo ve được vài tiếng và đốt người ta được vài nốt mà thôi.
Đương nhiên không chỉ có tiêu dao mà còn cần phải quan tâm, khuynh tâm và một trái tim nồng cháy. Tiếc rằng những việc chỉ đáng đối xử bằng cách tiêu dao vẫn còn quá nhiều. Không lãng phí tinh lực vào những việc hoàn toàn không đáng lãng phí, đó là đức tin quý báu nhất mà tôi rút ra được trong kinh nghiệm tích lũy hàng mấy chục năm qua.
Ung dung
Có một trạng thái mà tôi rất thích, rất ngưỡng mộ, đó là ung dung.
Sống là một việc rất lắm phiền toái, những lúc sốt ruột, nôn nóng, phẫn uất, bất bình thường nhiều, còn những lúc yên ổn, bình tĩnh, trấn tĩnh có chủ định thường ít.
Người ta thường oán trách người khác không hiểu mình và ai cũng mong được người khác hiểu, điều đó chứng tỏ hiểu được người không phải chuyện dễ, được người hiểu lại càng khó hơn. Mong người khác hiểu mình bằng cách oán trách, giải thích, biện luận, lớn tiếng kêu gào mãi không thôi thì chỉ tổ làm người ta sợ mà bỏ chạy.
Bản thân việc không hiểu là điều có thể hiểu được. Hiểu cái việc không hiểu là bước đầu của sự hiểu, cũng là tiền đề của việc được hiểu. Bạn không hiểu được việc tại sao người ta lại không hiểu mình thì làm sao bạn có thể hiểu được người khác. Người không hiểu được người khác thì làm sao mong được người khác hiểu mình?
Không nên ỷ lại quá mức vào ngôn ngữ. Không nên luôn mong chờ chiếm thượng phong về mặt ngôn ngữ. Cái gì ngôn ngữ không cởi ra được thì sự thật có thể cởi ra. Nếu ngôn ngữ cởi ra được mà sự thật lại không cởi ra được thì ngôn ngữ sẽ mất đi giá trị, thậm chí chỉ làm rối thêm. Người hễ gặp việc là muốn để cho sự thực lên tiếng sẽ ung dung hơn rất nhiều người hơi một tí là muốn dùng lời đánh đổ mọi người.
Không nên cho rằng, có cái này thì sẽ có cái kia. Không nên cho rằng có tiếng tăm là có được tín nhiệm. Không nên cho rằng có thành tựu là có hạnh phúc. Không nên cho rằng có quyền lực là có danh vọng. Không nên cho rằng việc này làm tốt thì việc tiếp theo cũng nhất định làm tốt.
Có người sùng bái nhãn mác nổi tiếng, có người lại thích chỉ trích nhãn mác nổi tiếng. Có người thừa nhận thành tựu nhưng có người lại vằn mắt lên nhìn thành tựu của người khác. Có người khát vọng quyền lực và cũng có vô số đôi mắt theo dõi xem bạn vận dụng quyền lực đó. Một thành công có thể kéo theo một loạt thành công và cũng có thể vì sự cuồng vọng buông thả của bạn mà trở thành thất bại, đại bại. Nếu chỉ có lẽ phải về mặt này mà không có lẽ phải về mặt kia thì còn trò gì để xem nữa?
Ung dung thuộc về kẻ mạnh, kiêu ngạo nôn nóng chỉ tỏ ra ấu trĩ. Ung dung thuộc về người có trí tuệ, nóng nảy đến mất khôn chỉ tỏ ra đáng cười. Ung dung thuộc về niềm tin, gây rối ồn ào chỉ cho thấy thực ra chẳng có mấy khí lực.
Ung dung cũng có lúc bị phá hoại vì hỉ, nộ, ai, lạc là thường tình của con người. Vấn đề là sau khi hỉ xong, nộ xong, ai xong, lạc xong có kịp thời trở về trạng thái ung dung được hay không? Nếu hơi một tí là vật mình vật mẩy; nếu hơi một tí là kéo người ta lại để trình bày mình đã đúng đắn, chính xác ra sao; nếu đòi hỏi bạn đời, con cái, cấp dưới của mình chứng minh không biết mỏi mình là người tốt như thế nào; nếu nhìn thấy hoa không nở theo ý nguyện của mình, không lớn theo thước đo của mình là giậm chân buồn bực thì bạn cần đến sự giúp đỡ của bác sĩ tâm lý rồi đó.
Có ung dung mới bình tĩnh quan sát được, có quan sát mới phán đoán được, có phán đoán sáng suốt mới hành động được. Có lý có lẽ, không hoảng không loạn, thong dong như nấu một món ăn tươi, có như thế mới nói đến học vấn được.
Hồi nhỏ tôi thường nghe một câu tục ngữ hình dung người nóng nảy thái quá là “nóng vội đến chộp cả bọ cạp”. Nếu bạn đúng, việc gì phải nóng vội? Nếu bạn kém cỏi, càng nôn nóng càng chẳng ăn thua. Hơi một tí là tỏ rõ dáng vẻ chộp bọ cạp ra, cho rằng như thế có thể nát được người, thực ra chỉ đáng ghét, đáng than mà thôi. Dì Triệu trong Hồng lâu mộng là người hơi một tí liền “chộp bọ cạp”, tôi cần lấy bà ta làm gương. Năng lực của con người có lớn có nhỏ, chí ít cũng bất tất phải sống khổ sở đến thế, mang đến cho người khác nhiều điều không vui đến thế.
Lại nói về ung dung
Để được ung dung, kinh nghiệm của tôi là:
Thứ nhất, tiếp xúc, chú ý, thưởng ngoạn, quyến luyến nhiều với thiên nhiên. Núi cao sông dài, trời mây sa mạc, hải triều xô đẩy, mặt hồ sáng như gương, hoa nở hoa tàn, trăng tròn trăng khuyết, bốn mùa thay đổi, ba ngôi trên trời. Lặng ngắm vạn vật đều lấy làm tự đắc thì sẽ thích nghi khi nhìn sự đời trong trạng thái động. Còn như không hề động lòng trước thiên nhiên, chỉ biết có đấu, đấu, đấu thì tế bào của bạn có vấn đề rồi đó.
Thứ hai, thưởng thức nghệ thuật nhiều hơn, nhất là âm nhạc. Nghe âm nhạc có vào được không, về đại thể đó là một tiêu chí để xét xem bạn có cần nhờ bác sĩ tâm lý tư vấn cho hay không.
Thứ ba, gặp việc gì thì nên nghĩ nhiều về khuyết điểm của mình, nghĩ nhiều về điểm tốt của người khác. Không nên chui vào ngõ cụt để rồi không ra được, không nên càng phân tích bản thân thì càng sai lầm đối với người khác. Không nên luôn có ý nghĩ người khác không phải với mình; không nên như một mũi khoan, vừa mới khoan được một lỗ đã tưởng đi suốt được thế giới, càng không nên hàn cố định tất cả các đinh ốc vặn vào lỗ khoan, vì nếu như thế, bạn có thể không vấp váp sao được?
Thứ tư, bất kể bạn có được chút “vĩ đại” nào hay không, nhất định bạn vẫn phải hiểu rõ thực ra chín mươi mấy phần trăm của bạn không có gì khác với người thường: cấu tạo sinh lý của bạn và công năng của nó không khác gì người thường; bạn ăn uống, ngủ nghê, tiểu tiện, đại tiện y hệt người thường (nếu không muốn nói là tệ hơn họ); ngôn ngữ, chữ viết của bạn không khác gì người trong nước, mừng, giận, yêu, ghét của bạn hầu hết không khác gì mọi người. Bạn nổi giận chẳng có vẻ gì là thanh thoát, bạn đói mèm cũng đâu có dáng thân sĩ... Mọi người coi bạn là người thông thường đã là phúc cho bạn lắm rồi. Bạn coi người khác như bạn, đó là sự chín chắn của bạn. Càng làm bộ làm tịch, càng tỏ ra ấu trĩ, người ta càng không coi bạn ra gì. Chớ như thế nữa nhé, bạn thân mến ạ!
Thứ năm, chú ý kết hợp giữa vất vả và nhàn nhã, chú ý điều tiết giữa tác dụng hưng phấn và ức chế của vỏ đại não, lúc nào cần chơi thì nên chơi, lúc nào nên gác lại thì gác lại, lúc nào nên làm gấp thì làm gấp, lúc nào nên chờ đợi thì chờ đợi... Không bao giờ nên nóng giận đến mất khôn, không bao giờ nên khản giọng kiệt sức.
Thứ sáu, hài hước một chút. Nên cho phép người khác nói đùa với mình, cần biết tự trào và giải trào(1). Có nhiều việc trong một lúc thấy gấp gáp như có lửa đốt, sau đó nghĩ lại mới thấy hài hước. Có hài hước thì mới có nhẹ nhàng, có nhẹ nhàng thì mới có thể ung dung, có ung dung thì mới biết lựa chọn. Chớ nên làm cho tư thế bi tráng biến thành rẻ tiền; chớ nên dọa mãi người khác không được, cuối cùng lại làm sợ chính mình.
Thứ bảy, việc nhỏ hơi ngu một chút. Việc gì nên quên khuấy thì quên khuấy, nên sơ ý thì sơ ý, nên không hiểu thì không hiểu, việc gì đã qua thì cho qua. Nếu chỉ biết nhớ mà không biết quên, chỉ biết tính toán mà không biết đại khái, chỉ biết xét đến cái tơ cái tóc mà không thấy cả xe củi, chỉ biết tinh tường mà không biết để rơi vãi... thì công năng tâm lý của bạn không kiện toàn, còn phiền phức hơn cả hạt không đủ hai lá mầm(1). Bạn phải uống thuốc rồi.
Thứ tám và cũng quan trọng nhất, cần có thêm vài “thế giới nữa”, có thêm mấy hứng thú nữa. Có thể viết văn, có thể làm việc, có thể đọc sách, có thể chơi bài, có thể lôgích, có thể hình tượng, có thể sáng tạo, có thể phiên dịch, có thể tiểu phẩm, có thể tác phẩm lớn, có thể thanh nhã, có thể thông tục, có thể tây một chút, có thể quê một tẹo, có thể tiếc thời gian như vàng, có thể an nhàn thảnh thơi như lông chim, có thể nặng nhẹ, có thể xuất nhập, có thể trang trọng, có thể hài hòa. Tôn trọng quy luật khách quan, yêu cầu bản thân phấn đấu, mất ở chỗ này thì được ở chỗ khác(2). Bạn còn muốn đòi hỏi gì nữa?
Vui mừng
Tôi không biết từ điển giải thích ra sao về những từ biểu thị tình cảm vui sướng trong Hán ngữ, cũng không biết trong tiếng nước ngoài có những từ tương ứng hay không. Dù sao đối với những từ ấy, tôi có một số cảm giác không biết có gọi được là độc đáo hay không, chúng gợi lên trong tôi một số tình cảm khác nhau rất đặc biệt.
Vui(1) là một tình cảm cụ thể được gợi lên bởi sự vật nhìn thấy được, sờ thấy được. Vui thuộc về tâm lý, mà cũng thuộc về sinh lý. Nó đến nhanh mà đi cũng nhanh, ai cũng chẳng nên nhìn mà không thấy để đánh mất nó ngay trước mắt, bất cứ ai không nên cứ làm những việc khiến mình mất vui mà cũng làm người khác mất vui. Chúng ta hãy nói đến những việc dễ làm nhất mà cũng dễ khiến người ta vui nhất. Hãy tôn trọng mình và cũng tôn trọng người, đó là quyền lợi của mỗi người, song tôi còn muốn nói đó cũng là nghĩa vụ của mỗi người.
Sung sướng(2) cũng là một trạng thái sinh tồn, trạng thái công tác giàu tính khái quát. Dường như nó là điều tiên nghiệm, đến từ sức sống của bản thân sinh mệnh, đến từ sức hút của vũ trụ, của trái đất và của nhân gian, nó là điều thể hiện sự phong phú, sự cao rộng, sự lâu đời và vẻ đẹp của thế giới. Sướng còn là một sức mạnh, một mạch rễ chôn vùi dưới đất. Muốn dập tắt nỗi sướng của một cá nhân còn khó hơn nhiều phải đào trốc rễ một cây đại thụ.
Hân hoan(3) là tình cảm trẻ trung mang ý thơ. Nó đến từ xung lực khi dang hai tay chạy tới tương lai, đến từ niềm kích động bí ẩn vừa nhẹ nhàng vừa thần bí, vừa mông lung vừa lan tỏa. Nó là điểm báo một tình cảm phấn khích sắp đến, nó lại là dư vị nhấm nháp lâu dài và đẹp đẽ sau khi mưa tạnh còn hơn cả lúc mưa.
Vui mừng(1) là sự tu dưỡng và một loại cảnh giới mang sắc thái siêu hình. Nếu bảo nó là một loại tình cảm thì chẳng bằng bảo nó là một loại trí tuệ, một loại siêu việt, một loại khoan dung và lý giải về sự bi phẫn, bất bình; một loại tự tin vì đã trải nghiệm đầy đủ biển dâu, một loại lý tính sáng sủa, một loại thuần thục kiên định, một sự trong sáng, thấu triệt chiến thắng được phiền não và dung tục. Nó là một đầm nước trong, là ráng chiều, là bình nguyên vô bờ bến, là đôi cánh và cũng là tổ ấm đi về. Nó là một chén mỹ tửu, là một đóa hoa sen nở mãi không tàn.
Hãy làm tốt công việc của bạn
Cách đây không lâu, tôi có gặp một nữ học giả người Trung Quốc sang thăm Mỹ trên đất Mỹ. Khi nói chuyện về một số thành tích và vướng mắc trong cải cách mở cửa ở trong nước, bà tỏ ra quan tâm tới công việc trong nước và bày tỏ tâm nguyện muốn giúp ích cho nước, cho dân. Sau đó bà hỏi tôi:
- Anh nói xem chúng ta có thể làm những gì?
- Hãy cứ làm tốt công việc của chị! - Tôi buột miệng trả lời.
Nói như thế có nghĩa là nếu bây giờ bạn đang đi thăm nước ngoài thì mong rằng hoạt động trao đổi học thuật và lên lớp nói chuyện với sinh viên của bạn sẽ thành công, mong rằng bạn hãy cố gắng tới mức cao nhất để tiếp thu những tri thức mới có ích, đồng thời bạn cũng gắng hết sức xúc tiến cho người nước ngoài hiểu Trung Quốc. Sau khi về nước rồi, bạn hãy tiếp tục nỗ lực nhằm thúc đẩy sự nghiệp học thuật của nước ta được phồn vinh và thúc đẩy việc giao lưu học thuật giữa nước nhà và nước ngoài.
Nếu ở trong nước bạn là vận động viên chơi bóng rổ thì tôi mong bạn hãy chơi tốt hơn nữa.
Nếu bạn chơi đàn violon, tôi mong bạn chơi tốt, chơi hay hơn nữa, tốt nhất là chơi hay hoặc hay hơn cả Paganini.
Còn tôi là một nhà văn, theo đúng lẽ, tôi cần tập trung mọi cố gắng, mọi chú ý của mình để cung cấp cho bạn đọc càng nhiều tác phẩm hay hơn nữa.
Làm tốt việc của bạn là kể cả việc riêng của bạn. Tôi chúc cho mọi người ngày càng thu xếp được tốt hơn nữa cuộc sống của mình, sao cho thân thể khỏe mạnh, gia đình êm ấm, hàng xóm bình an. Tề gia chưa hẳn đã trị được quốc, song tề gia chí ít cũng có lợi cho trị quốc chứ không phải là ngược lại.
Điều đó rất đơn giản. Xã hội là một tập thể lớn có phân công hợp tác, không có hợp tác thì không có xã hội, không có phân công cũng không có xã hội, trừ phi là thời kỳ chiến tranh và thời kỳ bất bình thường. Nếu muốn ổn định và phát triển thì phải tôn trọng sự phân công xã hội, chí ít thì đại đa số ai cũng có chức phận của mình, ai cũng yên tâm với nghề của mình, chứ không phải hơi một tí là tổng động viên toàn dân. Nếu tách rời sự quan tâm về tổng thể đối với xã hội và làm tốt công việc của mình thì sẽ làm xuất hiện một loạt những kẻ có dã tâm ăn nói viển vông, khoác lác dối đời, mắt ngước cao nhưng tay làm thì dở, nói suông làm hại nước; một loạt những nhân tài bán cao da chó(1) và một loạt những anh hùng lao động nước bọt.
Trước kia chúng ta thường vô tình hay hữu ý chỉ nói đến việc lớn, việc chỉnh thể, muôn người chung lòng... có tác dụng quyết định ra sao đối với cá thể mà không hề nói đến việc nhỏ, việc của cá thể, việc của ai người đó làm tốt thì sẽ có tác dụng không thể coi nhẹ đối với việc chỉnh thể, việc lớn như thế nào. Vì thế mới gây nên tình trạng ùa ra như ong vỡ tổ, cùng xông lên đầu ngọn sóng, dùng lời lẽ chính trị rỗng tuếch thay thế cho lý lẽ cứng cỏi về phát triển. Nếu kết quả của việc mọi người đều quan tâm đến chính trị, đến việc lớn của quốc gia, không phải là ai nấy làm tốt công việc của mình, lại là nội chiến toàn diện, kinh tế suy thoái, trăm nghề bỏ hoang, thì kết quả của câu “dân chúng hãy quan tâm đến việc lớn của quốc gia, phải tiến hành đến cùng Đại Cách mạng Văn hóa vô sản” chỉ có thể là một đại họa.
Thực ra cùng quan tâm một sự việc lớn với cái giá phải trả là ai nấy không được yên vui với nghề của mình, thì điều đó chỉ có thể và chỉ nên xuất hiện trong thời kỳ bất thường của quốc gia, ví như xảy ra chiến tranh, dịch bệnh lan tràn, động đất toàn diện, đảo chính hoặc cách mạng theo nghĩa hẹp tức cướp chính quyền...
Chúng ta cũng thường đề cao những việc làm gương mẫu mà đặc điểm là thấy việc nghĩa dũng cảm lao vào và “vác tù và hàng tổng”. Chẳng hạn một nhân viên bán vé xe khách giúp một bà già nhà quê không hề quen biết tìm con trai v.v... Đương nhiên việc làm đó là tốt, là rất tốt, song ở đây cũng nảy ra một vấn đề. Đó là đã nói ai nấy nên trước hết làm tốt công việc của mình thì nhân viên bán vé xe khách trước hết phải làm tròn chức trách là bán vé cho tốt, báo rõ tên các bến đỗ, giữ gìn trật tự trong xe, có thái độ hòa nhã với hành khách v.v... Như thế là nếu ai nấy chỉ biết quét tuyết trước cửa nhà mình, còn sương có đóng băng trên mái nhà người khác cũng mặc kệ thì đó đương nhiên là sai. Nhưng chỉ lo sương đóng băng trên mái nhà người khác mà không để ý quét tuyết trước cửa nhà mình thì lại là trái lẽ, đáng ngờ. Nên là trước hết quét tuyết trước cửa nhà mình, sau đó cố gắng lo đến sương đóng băng trên mái nhà người khác, như thế dường như hợp lôgích hơn.
Ở một nước mà cả đến tinh thần kính yêu nghề nghiệp tối thiểu cũng còn phải chờ bồi dưỡng thêm thì đề xướng gạt bỏ làm tốt công việc của mình, gạt bỏ làm việc thực sự để quốc gia hưng thịnh, cũng như chỉ nói đến cứu nước, cứu dân, lấy thiên hạ làm trách nhiệm của mình, lấy cách mạng thế giới làm mục tiêu, lấy chuyện làm lợi cho người khác làm tấm gương v.v... ắt luôn khiến người ta khó tránh khỏi cảm giác khó xử cho mình và cả cho người khác.
Khoan dung và ghét cái ác như ghét kẻ thù
Gần đây trong giới học thuật có một số người đề xướng khoan dung và cũng giống như vậy, một số bạn trẻ lên tiếng cự tuyệt khoan dung. Trước tình hình đó, cách nhìn nhận của tôi là:
Khoan dung được đề xướng là nhằm vào phương diện chính sách văn hóa, vào phương diện lãnh đạo công tác văn hóa, vào phương diện cùng tồn tại và cùng tranh luận giữa những tư tưởng, quan niệm, phong cách, trường phái học thuật và văn nghệ khác nhau. Nói chung nên khoan dung chứ không nên áp chế hà khắc. Nói cho đơn giản là, để quán triệt phương châm “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, đối với tư tưởng, quan điểm, trường phái khác nhau, nên có thái độ khoan dung trên cơ sở của hiến pháp và pháp luật, như vậy mới bảo đảm tự do học thuật và tự do sáng tác hợp pháp có liên quan với số phận của học thuật và văn hóa.
Việc đề xuất khoan dung là nhằm vào các cuộc vận động chính trị liên miên nhiều năm trước đây, nhằm vào cuộc đấu tranh tàn khốc và đả kích cạn tàu ráo máng cực tả trong lĩnh vực hình thái ý thức, tức cục diện vạn ngựa đều câm lặng trong “Cách mạng Văn hóa”, nhằm vào cách làm sai lầm hơi một tí là chụp mũ, đánh đòn, giật bím tóc đối với những quan điểm học thuật hoặc theo đuổi nghệ thuật khác nhau. Đề xuất khoan dung phát ra từ cảm xúc, là mũi tên có đích.
Chỗ dựa cơ bản của khoan dung có nền móng là những nhận thức như sau: đối với một loạt vấn đề về học thuật và văn hóa, người ta không thể nào chỉ một lần là hoàn thành việc nhận thức chân lý được. Do nghĩ tới quy luật mỗi người có một cách hiểu khác nhau và đa nguyên cùng bổ sung cho nhau về văn hóa và học thuật; do nghĩ tới việc xây dựng và phát triển văn hóa, học thuật là một quá trình lâu dài, quanh co, của lịch sử, của toàn nhân loại và phải tích lũy dần dần; do nghĩ tới kinh nghiệm chính diện, phản diện hoặc nhiều phương diện của các nước trên thế giới, đặc biệt là của Trung Quốc trong phát triển học thuật và đề xướng văn hóa, người ta càng ngày càng nhận thấy khi đối xử với các trào lưu tư tưởng, quan điểm và trường phái văn hóa, học thuật khác nhau, tốt nhất là nên khoan dung, dân chủ một chút.
Mặt đối lập với khoan dung là chủ nghĩa chuyên chế, chủ nghĩa bè phái về văn hóa, là “chuyên chế vô sản trong lĩnh vực hình thái ý thức” v.v... chứ không phải là tính nguyên tắc và tính kiên định ghét cái ác như ghét kẻ thù.
Đương nhiên không thể bàn phiếm về khoan dung khi tách rời tư tưởng học thuật, nghệ thuật, khi tách rời sự lãnh đạo công tác văn hóa và nắm vững chính trị. Chẳng hạn đối với kẻ phạm tội hình sự thì phải xử nghiêm, không thể khoan dung, lập pháp, chấp hành pháp luật không thể khoan dung; chống tham nhũng, đề xướng liêm khiết, không thể khoan dung; kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa không thể khoan dung; huấn luyện vận động viên cũng không thể khoan dung quá; quốc phòng, ngoại giao, hải quan cùng một loạt công việc có liên quan với chủ quyền và lợi ích quốc gia càng không thể tùy tiện khoan dung. Đó là những lý lẽ thuộc phạm vi thường thức, không cần nói cũng đủ rõ.
Có khi người ta còn đưa khoan dung vào phạm vi xử thế của con người và hàm dưỡng cá nhân. Với tư cách là một đức tính, khoan dung cũng là một từ tốt, ví như “bụng rộng chứa được việc thiên hạ khó chứa”, “trong bụng tể tướng có thể chống thuyền lớn”, “có khí lượng” đều là những câu hay. Bụng dạ hẹp hòi, oán thù bằng cái tơ cái tóc cũng phải báo đều không đáng khen. Nói khí lượng, khoan dung ở đây là chỉ ở độ lượng bao dung được người, bao dung được lời nói, bao dung được sự việc. Đó là một yêu cầu đối với những “đại nhân”, “tiên sinh” được nói đến trong sách cổ, tức những nhà chính trị hoặc nhân vật ở tầng lớp cao, không thể dùng thước đo đó để yêu cầu tất cả mọi người. Còn những nhân vật bé nhỏ, lòng dạ vốn không cao hơn trời, chỉ vì có tài mà không gặp thời nên không thi thố tài năng được, vậy mà ta lại đòi hỏi họ khoan dung thì thật không khoan dung một chút nào.
Khoan dung về mặt tu dưỡng và nghiêm khắc về mặt việc làm không hề mâu thuẫn nhau. Làm việc thì cần nghiêm ngặt, đối xử với người thì nên khoan dung, khép mình vào kỷ luật thì cần nghiêm ngặt, đối xử với người thì nên khoan dung. Về đại thể, như thế là đúng. Còn đối với sự việc cụ thể, việc nào nên khoan dung, việc nào cần nghiêm ngặt thì tùy người, tùy việc, tùy thời, tùy nơi mà có khác. Đối với những kẻ xấu hay gây chuyện thị phi, lá mặt lá trái, đẩy người xuống giếng, bẫy người phạm tội, nuốt lời bội nghĩa; đối với những kẻ ác vi phạm pháp luật, làm loạn kỷ cương, làm trò bậy bạ, phá hoại gây rối, không biết hối cải thì nói chung không nên khoan dung. Còn đối với những người có thể có nhược điểm như thích hơn người, thích tự đề cao, giữ chút lợi riêng, thích thú thấp kém v.v... thì khoan dung một chút cũng chẳng ngại gì. Mao Chủ tịch chẳng phải đã nói về lý lẽ “nước trong vắt thì không có cá, người quá xét nét thì không có học trò” đó sao? Làm người và xử thế là cả một ngành học lớn, ở đây tôi chỉ nói về khoan dung hay không khoan dung nên đều thật chẳng đủ dùng. Không nên ảo tưởng chỉ dùng một hai từ là có thể đạt tới linh nghiệm.
Một cá nhân thuần túy, nhất là văn nhân sắc thái tình cảm tương đối nồng hậu thì về phương diện làm người và xử thế, người ấy dù có nhấn mạnh mình ghét ác như ghét kẻ thù, quyết không khoan dung cũng chẳng sao, vì đó là quyền và cũng là sự lựa chọn cá tính của anh ta. Nhưng một người lãnh đạo hoặc nhân vật lớn có ảnh hưởng thì không nên nói quá nóng nảy, chặt chẽ, cũng không nên nói quá phóng túng, không có bờ bến. Càng trong tình thế bình thường càng nên khoan dung một chút, còn trong tình thế đột ngột phát sinh sự kiện, như kẻ địch nước ngoài xâm lăng, tai họa do thiên nhiên gây ra v.v... thì nên nhấn mạnh tới mặt nghiêm trọng của sự vật, không nên chỉ biết có khoan dung. Như thế để nói, về vấn đề khoan dung hay không khoan dung, có thường lệ và cũng có biến thể, vận dụng được thích hợp hoàn toàn nhờ ở kinh nghiệm tu dưỡng, cảnh giới và trí tuệ, không cần gì phải tuyệt đối hóa.
Ngay cả khi nên khoan dung thì khoan dung cũng không phải cái gì tuyệt đối và vạn năng, cũng giống như trong vấn đề giữ vững nguyên tắc, trong vấn đề đối lập gay gắt, kiên trì đấu tranh và trả ơn, trả đũa cũng không phải là điều tuyệt đối. Trong đấu tranh địch ta cũng không phải không có thỏa hiệp và tranh luận đua tiếng cũng có thể trở nên mười phần gay gắt, đó cũng là vấn đề có tính thường thức. Nên khoan dung thì khoan dung, nên nghiêm ngặt thì nghiêm ngặt, có như thế mới đúng đắn, mặc dù nói như thế dường như cũng bằng không. Sau “Cách mạng Văn hóa”, trong giới tri thức có người đã nói đến nên khoan dung, song như thế tuyệt đối không có ý bảo mọi người đều trở nên hiền lành quá mức, trở thành kẻ mưu đồ lợi riêng, trở thành giá áo túi cơm hoặc người mắc chứng loãng xương, càng không có ý giúp thêm cho kẻ xấu.
Để xã hội được ổn định, học thuật được hưng thịnh, mọi người được trổ hết tài, và vì một hoàn cảnh nhân văn càng tốt hơn nữa, hỡi con người, ở trường hợp rõ ràng có thể khoan dung, hãy chớ nên không chịu khoan dung.
Nhiều vẻ và thống nhất
Về phương diện này, tôi tán thành mệnh đề của Hegel: thống nhất giữa nhiều vẻ.
Nhiều vẻ có tính gợi mở. Đời người lý tưởng của chúng ta không phải là đứa trẻ bọc trong tã, cũng không phải là bức tường trắng mặc cho người bôi vẽ. Sống trên thế giới này, chúng ta cần thể nghiệm, bao dung, tiêu hóa được mọi thứ trên đời, có cái tốt, cái chưa thật tốt và cái rất xấu, sau đó chúng ta hãy lựa chọn.
Chúng ta thừa nhận đường khác nhau mà cùng tới một chỗ. Chúng ta không thừa nhận chỉ có một cửa hàng mà không có chi nhánh. Chúng ta thừa nhận nhiều con đường lớn dẫn tới Rome, chúng ta không tin hơi một tí là chỉ có hai con đường cho người khác lựa chọn. Chúng ta thừa nhận hiện thực không viên mãn, vì thế chúng ta phải cố gắng sáng tạo nên nhân sinh tốt hơn và càng tốt hơn. Rất tiếc là nhân sinh tốt không thể nào là một đầm nước trong vắt. Tôi rất thích biển cả, biển cả không phải là nước cất. Chúng ta càng cần đối mặt và thừa nhận bản thân không trọn vẹn, bởi vậy chúng ta không định làm quan tòa của tòa xét xử tinh thần.
Năm 1957 tôi có làm một bài thơ ngắn đặt tên là Sai lầm:
Khen ngợi chim ưng non thơ dại,
Quyến luyến giọt nước mắt long lanh,
Mong chờ nước cất chảy trên biển xanh,
Quét sạch giấc mơ nửa đêm than thở.
Thơ tôi chưa lỗi thời đấy nhỉ? Mở cửa thì không thể một mực đơn thuần; trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở thì không thể một mực đơn thuần; hiểu sâu biết rộng cũng không thể một mực đơn thuần; sự đời thấu hiểu, tình người trả đủ cũng không thể cứ mãi đơn thuần. Ở đây cần phân biệt đơn thuần với ấu trĩ, thành thạo và giảo quyệt, phong phú và phức tạp là điều quan trọng.
Thống nhất ở đây có nghĩa là hướng đi của sự lựa chọn giá trị, nguyên tắc phán đoán giá trị và tính có thể giao lưu, bổ sung cho nhau. Ngả theo chiều gió, thấy người ta nói gì cũng nói theo, ham hố lợi nhỏ bằng đầu nhặng, vô trách nhiệm, chủ nghĩa cơ hội đều là những điều không chấp nhận được.
Đơn thuần
Người nào yêu cầu chính bản thân phải đơn thuần là người nghiêm túc, hoặc là người ngây thơ, hoặc là người thần thánh.
Người nào yêu cầu người khác đơn thuần(1) là người ảo tưởng, là người nghiêm khắc, hoặc người bạo liệt đáng sợ.
Ngay từ gần bốn chục năm trước, trong truyện Người trẻ tuổi mới về phòng tổ chức, tôi đã viết: “Là một người bônsêvích thì kinh nghiệm cần phong phú nhưng con tim cần đơn thuần”. Lúc ấy tôi hết sức thích thú với câu này.
Tại sao tôi lại thích thú với đơn thuần? Vì cảm xúc với cảnh ghen ăn tức ở, đấu đá tranh giành trong quan hệ giữa người với người, với động cơ mưu lợi cá nhân trong sự nghiệp lớn (như hồi bấy giờ, tôi đặc biệt ghét phải nghe người ta bàn về cấp bậc, đãi ngộ), với những hiện tượng không thống nhất giữa lời nói và việc làm, với các loại ý thức tư tưởng không thuần khiết... Những tồn tại đó khiến tôi đau khổ. Tôi thường nghĩ nếu mọi người đều giữ mãi được tình cảm nóng bỏng và lý tưởng thời gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản hoặc gia nhập Đảng Cộng sản hoạt động bí mật thì tốt biết mấy.
Bây giờ thì không thế nữa rồi, song tôi vẫn thích tấm lòng tương đối đơn thuần, có điều đơn thuần cũng phải đơn thuần cho rõ ràng, đơn thuần cũng phải có mức độ, đơn thuần phải có dư lực. Không thể chỉ dựa vào đơn thuần, không thể chỉ dựa vào thuần khiết, không thể chỉ dựa vào tính sôi nổi, không thể chỉ dựa vào dũng cảm. Sau đó thì sao?
Đơn thuần thường có mối liên hệ với ngây thơ, nhưng con người không thể chỉ một mực ngây thơ, khi nên trưởng thành thì phải trưởng thành, nên chín chắn thì phải chín chắn. Tuổi ngây thơ xán lạn đã qua đi rồi mà vẫn một mực ngây thơ xán lạn thì chẳng đáng yêu, càng chẳng dùng được vào việc gì.
Thế giới là phức tạp, cho dù thế giới có phức tạp đến mức chẳng được như ý muốn thì bạn cũng không thể không thừa nhận sự phức tạp đó. Dùng đơn thuần để điều khiển phức tạp thì có lúc chẳng được việc, có lúc lạc đường sa bẫy, có lúc bị thế lực không đơn thuần chút nào lợi dụng. Chúng ta hãy nghĩ về số phận hết thế hệ thanh niên đơn thuần này đến thế hệ thanh niên đơn thuần khác trong gần trăm năm qua của nước ta xem sao đi!
Trí tuệ không phải không đơn thuần, song cũng không đơn thuần như thế. Kinh nghiệm không phải không đơn thuần, song cũng không đơn thuần như thế. Thuần thục không phải không đơn thuần, song cũng không đơn thuần như thế.
Trước kia chúng ta đã thường nêu khẩu hiệu bảo vệ sự thuần khiết của chủ nghĩa Mác hoặc tư tưởng Mao Trạch Đông, và những cuộc đấu tranh tiến hành dưới khẩu hiệu đó đã có biết bao kinh nghiệm, bài học, có biết bao nhiêu câu chuyện đáng sợ.
Lý luận nòi giống ưu tú của Hitler cũng yêu cầu sự thuần khiết trong kết cấu dân tộc, bởi vậy chúng ta đã vừa chú ý đến dịch ý và dịch âm để gọi đồ đảng của hắn một cách truyền thần là Nạp Túy(1).
Chủ nghĩa lý tưởng không thể không có. Không có chút lý tưởng nào thì chúng ta trở thành giòi bọ, thành lợn. Nhưng lý tưởng nơi thiên đường cũng có thể xua người ta xuống địa ngục. Đây cũng là kinh nghiệm quý báu mà tôi rút ra được qua nửa thế kỷ.
Hơn nữa, thiên đường cũng chẳng phải thuần khiết như chân không. Thiên đường mà thuần khiết như thế thì theo tôi, chẳng hơn gì địa ngục. Các bạn hãy đọc mấy quyển sách như Thế giới mới mỹ lệ, Chúng tôi và Năm 1984 thì ắt biết.
Tính thuần khiết của đạo đức, tính thuần khiết của tình cảm - như tình yêu chẳng hạn, tính thuần khiết của không khí và đồ uống, đó có thể là khả thủ và quý báu, nhưng không thể mở rộng những khẩu hiệu tương tự để giải quyết những vấn đề phức tạp hơn nhiều. Vả chăng, không khí thuần khiết nhất cũng hoàn toàn không phải thuần là oxy.
Nhã và tục
Hàng ngày tôi ăn ba bữa, ngủ tám tiếng, đại tiện một lần, tiểu tiện sáu bảy lần, song chưa bao giờ nghĩ như thế là nhã hay tục.
Tôi thích nghe nhạc giao hưởng của Tchaikovsky, Beethoven, Mahler, Schumann là vì tôi thích chứ không phải vì nhạc ấy nhã hay chưa đủ nhã.
Nghe nói ăn chay là nhã, còn “ăn thịt là thô bỉ”, nhưng tôi vẫn ăn thịt mà không ngại thô bỉ, chỉ trừ những năm muốn ăn thịt mà phải có tem phiếu. Vì vậy tôi vui vẻ hân hoan, ca ngợi công đức bởi ăn thịt mà không cần tem phiếu, bất kể điều đó có thô bỉ hay không.
Tôi thích nghe kịch hát có đệm mõ, tấu hài, Barbara Streisand và Phượng Phi Phi hát, không sợ và cũng không ngại là tục, bởi vì tôi thích nghe, tìm thấy niềm vui nào đó khi nghe.
Viết văn, tôi đòi nhuận bút bởi vì tôi có nhu cầu tục đó và cũng không sợ như thế là tục. Song tôi cũng không chuyên nhằm vào nhuận bút, không phải vì nhã mà vì hiệu quả tối ưu của văn chương và vì tình hữu nghị giữa tôi, biên tập viên cùng ngành xuất bản, cũng còn vì lòng tự tôn, tự tin với tư cách là một nhà văn của tôi.
Chỉ có ai tục nhất mới không có lòng tự tin, chỉ có ai không có lòng tự tin mới sợ người ta bảo mình là tục; chỉ có ai tự luyến, tự yêu quá mức mới cần biểu lộ rằng mình không tục.
Dung tục lớn nhất là làm bộ làm tịch; chiều theo thói tục tệ nhất là thấy người ta nói sao mình cũng nói vậy; tục thấp kém nhất là ngắm ảnh rồi tự thương cho mình.
Thế nào là tục? Thế tục, dung tục, ti tục đều là tục cả song không giống nhau.
Đón ý người khác là đáng buồn. Chiếu cố đúng mực đối với người khác lại là điều khó tránh và có lúc còn là cao thượng. Giữ vững nguyên tắc, không cẩu thả tán đồng là đáng kính. Vì không muốn mắc tiếng chiều theo thói tục mà không chiều theo thói tục là sự trống rỗng không khả dĩ một chút nào.
Suy nghĩ về nhã và tục hoặc suy nghĩ xem đã chiều theo thói tục hay chưa đều là dấu hiệu cho thấy sống mà không tìm được cảm giác, chẳng khác gì một người chỉ khi nào thấy ăn khó tiêu mới thè lưỡi ra ngắm nghía mãi không thôi.
Chiều theo thói tục là không tốt. Chiều theo nước ngoài, chiều theo thói Tây, chiều cấp trên, chiều cấp dưới, chiều học giả, chiều nhà phê bình, chiều trào lưu, chiều thanh niên, chiều trung niên, chiều lão niên đều không tốt như nhau. Tại sao lại không tốt? Vì bạn đang nhập vai, đang ngưng động(1), bạn thành một loại mặt trong tuồng(2). Bạn sợ chiều theo thói tục cũng là một loại chiều, tức cái thứ nhập khẩu đang thịnh hành, là phê bình chiều theo thói tục.
Nên thế nào thì là thế ấy. Không che giấu bản sắc, sau đó mới có tiền đề để đánh giá giá trị.
Cách mạng, thế tục và lời yêu cầu của
Tạp chí Đọc sách số 11 năm 1998 có một bài viết rất thú vị, đó là bài Ánh sao trong đêm tối. Trong bài này tác giả Ngô Tăng Định giới thiệu tự truyện của Vêra, một cô gái quý tộc nước Nga thế kỷ 19. Cô đã tính toán kế hoạch đâm chết Sa hoàng. Điều khiến người đọc tâm đắc nhất là bài viết đã phân tích - nói đúng hơn là miêu tả “sức hấp dẫn to lớn” của cách mạng. Từ lâu tôi đã nhiều lần nói rằng đối với tuổi trẻ, không gì giàu sức hấp dẫn hơn là cách mạng và tình yêu. Trong một trường hợp nào đó, sức hấp dẫn của cách mạng còn lớn hơn cả tình yêu. Nói theo cách đơn giản hóa một chút của tôi thì chí ít đã có một nhân tố: Vêra vì sợ hãi và từ chối cuộc sống thế tục của phụ nữ đã kết hôn ở nước Nga cũ nên mới hướng tới cách mạng quyết liệt như thế. Tôi nghĩ tới tiểu thuyết Bài ca tuổi trẻ của nữ nhà văn Dương Mạt. Nhân vật nữ trong truyện là Lâm Đạo Tĩnh trong lúc tuyệt vọng vì chạy trốn hôn nhân đã được Dư Vĩnh Trạch cứu, sau đó sống chung với Dư. Rồi cô lại cắt đứt với Dư (theo cách nói thời thượng hiện nay là bye bye) không những vì do xung đột về chính trị mà còn vì xung đột về nhân sinh quan. Tiếp tục sống với Dư thì cuộc sống của cô ắt là thế tục hóa: sinh con, lo việc nhà, tính toán thu chi, đối phó với sinh lão bệnh tử, con người rồi cũng đến lắm điều, cẳn nhẳn cằn nhằn v.v... Như thế chẳng còn gì là lãng mạn, chẳng còn trò gì hay, bạn đọc sẽ không đồng ý.
Điều này đặc biệt mẫn cảm đối với phụ nữ. Từ lâu Giả Bảo Ngọc đã nêu ra vấn đề: tại sao một thiếu nữ ngây thơ sau khi lớn lên lấy chồng lại trở nên dung tục, tầm thường, đáng ghét đến thế? Trong vườn Đại Quan, Bảo Ngọc và Đại Ngọc đều chống lại thế tục hóa, nhưng họ đã thất bại. Họ không đi theo cách mạng bởi vì đằng sau họ không có một cơn lốc cách mạng nào làm bối cảnh. Cách lựa chọn chống lại thế tục hóa của họ là tình yêu và chết vì tình yêu đó. Tình yêu và chết vì tình yêu cũng không xong thì chỉ có bỏ trốn vào cửa không. Thực ra, cái chống thế tục hóa cũng mạnh mẽ như cách mạng chính là tôn giáo.
Cuối cùng, nơi tịnh thổ duy nhất để trốn tránh thế tục hóa là cái chết. Romeo và Juliet nếu không chết cả đôi, nếu người có tình rốt cuộc đều kết thành thân quyến thì năm mười năm sau ngày kết hôn, họ có thoát khỏi sự gặm nhấm của cuộc sống thế tục hay không?
Một truyện cuối cùng của Tsekhov là Cô dâu. Cô dâu sở dĩ bỏ nhà theo cách mạng trước ngày cưới thì một phần cũng vì sợ thế tục hóa. Bạn thấy chưa, cả đến Tsekhov cũng vì sợ thế tục mà dâng nhân vật dịu dàng của mình cho cách mạng. Ở một giai đoạn nào đó của lịch sử, hạt giống cách mạng và mảnh đất cách mạng đã sẵn sàng và chắc mẩy như thế đó. Đương nhiên động cơ của cô dâu, theo ngôn ngữ của Tsekhov không phải là cự tuyệt dung tục, còn thế tục dù sao cũng có nghĩa là dung tục. Từ thế tục là trung tính, dung tục thì có nghĩa xấu. Ở một ý nghĩa nào đó mà nói, động cơ ở toàn bộ tác phẩm của Tsekhov là cự tuyệt dung tục. Dưới bút của ông, dung tục thường liên hệ với loài trai hến biển và hôn nhân. Cho nên, khi sang tới nước ta, trong “đồng thoại” của Ngô La Cẩm(1), người đàn ông dung tục không ngắm cảnh ánh sáng mùa thu trên núi mà chỉ lo sắp hàng để mua cá đao. Xem ra những phụ nữ có ước muốn cao xa nhưng mệnh mỏng như giấy căm ghét nhất là tính khí tầm thường đó của đàn ông.
Từ những tác phẩm cách mạng chống thế tục, tôi lại nghĩ tới người vợ của Miyamoto Kenji - cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nhật Bản là nhà văn lớn Miyamoto Yuriko. Trong truyện dài Nobuko đã được dịch để giới thiệu sang nước ta những năm 60, bà miêu tả tỉ mỉ cô gái Nobuko thuộc loại lãng mạn và giỏi giang hơn người, không sao chịu đựng nổi tính thế tục trong cuộc sống hôn nhân. Truyện đã miêu tả lịch trình trái tim của Nobuko khi đoạn tuyệt với chồng và cũng là đoạn tuyệt với thế tục hóa. Bà viết thật cảm động.
Đến đây, chúng ta hãy tra Từ hải. Có hai cách giải thích về “thế tục”: một là phong tục tập quán, hai là sự ưa chuộng trong dân gian. Còn nghĩa của từ “dung tục” là quê mùa, phàm tục. Lại tra Từ nguyên thì “dung tục” giải thích như trên, còn “thế tục” được giải thích một là phong tục tập quán phổ biến trong thế gian, đó là dẫn từ Sử ký; hai là người nói chung trong đời, đó là dẫn từ Mạnh Tử. Cuối cùng tôi tra Từ điển Hán ngữ hiện đại thì “thế tục” được giải thích một là lưu tục(1), hai là phi tôn giáo. Còn “dung tục” thì được giải thích là bình thường, bỉ tục, không cao thượng. Quả nhiên cách giải thích của Hán ngữ hiện đại có hiện đại hơn và sách ấy biên soạn tốt. Trong những cách giải thích ấy, ngoài những nghĩa xấu trong từ “dung tục” như bỉ lậu (quê mùa), bỉ tục, không cao thượng ra, không thấy chúng có yếu điểm nào đặc biệt khiến người ta phải đau lòng uất hận, không thấy lý lẽ của mấy chữ “ngoảnh ra tục thế” (đời tục) vừa xuất hiện đã làm cho người có chí phải la trời. Các nghĩa của “thế tục” cùng nguồn gốc của chữ này không mang nghĩa xấu, còn như “phi tôn giáo” thì rất tiến bộ. Hàm nghĩa phàm tục trong “dung tục” cũng không mang nghĩa xấu. Cho dù là “bỉ lậu” đi nữa thì cũng không có gì đáng sợ, đáng ghét.
Thế là tôi trở về hỏi thể nghiệm của mình. Không thấy trong sách thì phải tìm ở mình vậy, đó là mẹo của tôi xưa nay. Đặc biệt là hồi trẻ tôi cũng sợ dung tục, sợ thế tục như sợ ôn dịch vậy. Tôi thường coi thế tục cũng như dung tục mỗi khi nói ra. Điều tôi sợ nhất là bản thân chìm nghỉm trong tục chúng (người tục), sợ cuộc đời có một không hai của mình lặp lại quỹ tích đã định của tục chúng, sợ tình cảm sôi sục và ước mơ tắt ngúm, sợ bản thân cuối cùng sẽ “hối hận vì chẳng làm nên một việc gì..., xấu hổ vì bất tài chẳng có gì để lại” (dẫn từ Thép đã tôi thế đấy). Không lãng mạn thì sao gọi được là tuổi trẻ? Không có tuổi trẻ thì cần gì đến sinh mệnh nữa? “Sao ngày xưa là cỏ thơm chừ, mà nay đã thành thân ngải tiêu điều...?”, tôi thường ngâm các câu thơ của Khuất Nguyên như thế. Cỏ thơm là chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa lý tưởng, còn ngải tiêu điều là thế tục hóa. Tôi nghĩ sự sinh tồn và nhiệt tình, đầu óc và giá trị của một con người cần phải được chứng minh không ngừng với chính mình, còn thế tục hóa sẽ làm cho người trí thức có ý thức tinh anh cực kỳ mẫn cảm mất đi sự chứng minh có tính độc đáo của mình và như thế cũng là mất đi tự ngã.
Đương nhiên, thế tục và dung tục là hai khái niệm, ở đây tôi nghiêng về tìm ra tính chung của cả hai, nghiêng về thảo luận thế tục theo nghĩa xấu. Chí ít thì cả hai đều tục, đều tầm thường, đều thiếu nhấn mạnh và đề cao nhân cách độc lập theo tinh thần nhân văn, đều thiếu ánh lửa của chủ nghĩa lý tưởng, cả hai đều hình nhi hạ, thiếu sự quan tâm đến chỗ cuối cùng v.v... Nói đơn giản hơn thì tôi từng cho rằng yếu điểm của thế tục và dung tục là ở chỗ phi tinh anh hóa.
Còn phi thế tục hóa thì sao? Điều này có truyền thống ở Trung Quốc. “Giỏi thay Nhan Hồi” của Khổng Tử đã xây dựng nên một đời sống tinh thần phi thế tục hóa, và cũng có thể nói đã xây dựng nên một điển hình nhân vật tinh anh của thời đó. Còn Mạnh Tử từ lâu đã đưa ra lời biện giải về nghĩa và lợi. Từ Xuân Thu, Chiến Quốc trở về sau, nói đến lợi là quá thế tục, còn nói đến nghĩa (hoặc nói đến “đạo”, đến “nhân”, đến “tinh thần nhân văn”) thì tinh anh hơn nhiều. Khi diễn giảng về “đường lối chung của thời kỳ quá độ”, Mao Trạch Đông đã dùng lại lời cổ “quần cư chung nhật, hiếu hành tiểu huệ, ngôn bất cập nghĩa, kỳ cận đạo dã, nan hĩ tai!”(1) và giải thích rằng cái “nghĩa” mà chưa được nói đến tức là chủ nghĩa xã hội, còn “đạo” tức là đường lối chung của Đảng.
Thật vậy, Mao Trạch Đông là đại sư chống thế tục hóa. Lời phê phán của ông về thuyết duy sức sản xuất, sự không đếm xỉa của ông đối với quy luật giá trị và kinh tế hàng hóa, sự vạch trần tính chất “pháp quyền tư sản” ở nguyên tắc “thù lao theo mức lao động” của ông, sự chế giễu của ông đối với “ông xã, bà xã”, “chum chum lọ lọ”, cho chí “chủ nghĩa hòa bình” và “triết học giữ mạng sống”, thậm chí lời phê phán “chủ nghĩa xét lại Liên Xô” của ông đều có thể gọi là tập đại thành chống thế tục hóa. Lời phê phán thế tục hóa của người ngày nay thật không có cách gì đuổi kịp Mao Trạch Đông. Khrusov chẳng phải vì nhắc đến món thịt bò mà người Hungari thích ăn khi đến nước này (hình nhi hạ biết chừng nào) mà bị chê cười đủ điều và bị tổng kết thành tội danh “đề xướng chủ nghĩa cộng sản khoai tây nấu với thịt bò” đó sao? Trong lời hịch lần đầu chống xét lại vào năm 1959 đã không ngừng xuất hiện những chữ “phàm phu tục tử”, “dung phu tục tử”, điều đó cho thấy một đặc điểm của chủ nghĩa xét lại là tính thế tục.
Đồng chí Trần Nghị dựa vào tư tưởng Mao Trạch Đông nêu ra câu: không mặc quần cũng phải chế tạo đạn nguyên tử. Đương nhiên đó là lời nói trong lúc phẫn khích, song cũng phản ánh tình cảm hào hùng phi thế tục hóa không tầm thường của chúng ta.
Mao Trạch Đông cự tuyệt thế tục hóa bằng vũ khí là cách mạng hóa. Cuộc cách mạng lớn của nhân dân do Đảng lãnh đạo là một trong những sự kiện vĩ đại nhất của Trung Quốc và của cả thế giới trong thế kỷ 20. Sự tàn khốc, triệt để, lớn lao nhất của cách mạng đã hun đúc nên tinh thần lý tưởng, tinh thần hy sinh, tinh thần đấu tranh kiên định, nóng bỏng, không thỏa hiệp, vô cùng cao cả trong đội ngũ cách mạng; hun đúc nên tính tổ chức, tính kỷ luật rất nghiêm ngặt và tinh thần đại đoàn kết thống nhất tập trung chưa bao giờ có; hun đúc nên tinh thần theo chủ nghĩa lợi tha (làm lợi cho người khác), theo chủ nghĩa cấm dục, tinh thần phấn đấu gian khổ cho chí tinh thần khổ hạnh mà theo người tục là không thể hiểu được. Những tinh thần ấy càng vĩ đại phi phàm khi so với sự theo đuổi lợi nhỏ bằng đầu nhặng, theo đuổi hưởng thụ vật chất, chỉ mong làm nô lệ cho yên chứ không biết tự lớn mạnh ngoài thế tục. Có những tinh thần ấy thì vấn đề không giải quyết được cũng giải quyết được hết. Đồng chí Tưởng Nam Tường rất hay dùng những thí dụ trong phong trào học sinh. Ông nói ở khu Quốc Dân đảng thống trị, thanh niên “chống đói bằng gạo trắng, mì trắng”, còn ở khu giải phóng, thanh niên “nhảy ương ca nhờ gạo tấm, bánh ngô”. Ông cho rằng đó là công hiệu của công tác tư tưởng. Thực ra đó là công hiệu của tinh thần cách mạng hóa. Có lẽ chúng ta còn có thể tổng kết tinh thần cách mạng hóa ấy thành tinh thần theo chủ nghĩa anh hùng.
Không ngừng cách mạng cũng vậy mà tiếp tục cách mạng trong điều kiện chuyên chính vô sản cũng thế, từ góc độ thể nghiệm sinh mệnh mà xét thì đều muốn cách mạng hóa chứ không muốn thế tục hóa. Cách mạng thành công thì tục chúng rất dễ nảy sinh tư tưởng thuyền đến bến, tàu đến ga, giải giáp về vườn, cùng hưởng thái bình, được sống sung sướng, “vợ con ấm áp cả giường”. Mao Trạch Đông cảnh giác nhất với sự phát sinh trạng thái đó, bởi vì nó rất dễ đi tới chủ nghĩa xét lại. Biện pháp đối phó là các cuộc vận động chính trị, nhất là cuộc vận động như “Đại Cách mạng Văn hóa”. Lúc thì hô hào đứng lên cùng cách mạng, lúc lại bảo toàn dân “bất ái hồng trang ái vũ trang”(1), xem anh còn thế tục hóa được nữa không! Mấy chục năm sau giải phóng, giải quyết vấn đề vợ chồng được ở cùng một nơi không biết đã gặp bao phiền toái, còn phát động quần chúng làm cách mạng thì dễ như xe nhẹ đường quen, chỉ tay là xong. Cách mạng hóa quả thật là của báu, có thể nghĩ tới của báu này còn được mọi người sử dụng lâu dài. Chẳng hạn cuộc chống lũ lụt năm 1998 cho thấy uy lực của cách mạng hóa lại một lần nữa có mặt.
Kinh nghiệm của Vêra, Lâm Đạo Tĩnh, Miyamoto Yuriko cho chúng ta biết sự kháng cự thế tục hóa theo kiểu tinh anh có thể đi tới cách mạng (cách xong mạng rồi lại biến thành kẻ phản bội kiểu Vương Thực Vị(2), kiểu Mêđích(3), thì đó là vấn đề khác và cũng là tính bi kịch của các tinh anh, bi kịch của tự thân cách mạng). Còn thực tiễn của Mao Trạch Đông cho chúng ta biết giữ vững tính cách mạng là có thể chối bỏ thế tục hóa. Hai bên khác nẻo nhưng cùng về một đường.
Có lẽ chúng ta có thể giả thiết, động cơ chủ yếu dẫn tới cách mạng có ba: một là, vì bị làm nhục và bị tổn hại nên người đó phải làm cách mạng để sinh tồn và từ chối cái chết; hai là, các bậc tinh anh theo cách mạng vì cái cao cả, vì muốn chối bỏ thế tục và dung tục; ba là, nhà chính trị làm cách mạng để được nắm quyền nhằm thực hiện cương lĩnh chính trị, chống lại không được đương quyền và bị người sai khiến. Đó là tam vị nhất thể, có thể dung hòa và kích thích lẫn nhau, song cũng có thể bất đồng với nhau.
Đương nhiên chỉ một việc trí thức theo đuổi cái cao cả không đủ dấy lên một cuộc cách mạng, trước hết là vì các loại mâu thuẫn về xã hội, về giai cấp, về dân tộc xoắn với nhau thành một nút chết, trừ phi có cuộc chiến đẫm máu chứ không có lối ra nào hết thì lúc đó mới có cách mạng, lúc đó mới có các trí thức cự tuyệt thế tục đi theo cách mạng. Không có bối cảnh xã hội đó, cho dù có cự tuyệt thế tục đến mấy cũng cách không thành mạng.
Thổi phồng quá mức mệnh đề cách mạng hóa, khuếch đại quá mức mâu thuẫn giữa nó và đời sống thế tục là không đúng đắn. “Thà có cỏ xã hội chủ nghĩa chứ không cần mầm tư bản chủ nghĩa” là một thí dụ về luận điểm sai lầm. “Cách mạng Văn hóa” là đỉnh điểm của một loại sai lầm. Chống tính thế tục không cần phải chống quá đà, đó là một kinh nghiệm quan trọng của toàn dân tộc trong 50 năm qua.
Thực ra Mao Trạch Đông không hoàn toàn chống đối thế tục hóa. Ông phê bình Vương Minh không hiểu được là người thì phải ăn cơm, đánh trận thì có người chết, đó là ông đã dùng thường thức thế tục để phê bình cách nói suông của tinh anh cách mạng. Trong bài Quan tâm đến đời sống quần chúng, chú ý đến phương pháp công tác, ông còn đề xuất phải dùng 90% lực lượng để lo phúc lợi cho quần chúng, chỉ dùng 10% lực lượng để “đòi” cái này cái kia của quần chúng, cách nói đó cũng rất theo thói tục. Còn tôi muốn nói vui rằng “ưu tiên công nghiệp nặng” theo kiểu Stalin là cách mạng hóa cao độ, còn thứ tự “nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng” của chúng ta là thế tục nhiều lắm. Thời kỳ cuối Cách mạng Văn hóa, Mao Trạch Đông dẫn lời dạy của người xưa “nước trong vắt thì không có cá, người xét nét thì không có học trò”, chứng tỏ ông già chẳng phải một mực lý tưởng, một mực siêu hình, ông cũng có lúc xuống “điệu thấp”. Đặng Tiểu Bình nói mèo trắng mèo đen, mèo nào bắt được chuột là mèo hay, nói nghèo khó không phải là chủ nghĩa xã hội, nói nhiệm vụ chủ yếu của chủ nghĩa xã hội là phát triển sức sản xuất, nói lần theo đá mà qua sông cùng làm kinh tế thị trường. Những điều đó càng phù hợp với thường thức của thế tục mà không thấy phù hợp với tâm nguyện của người đóng cửa tự vệ theo lối giáo điều to tát.
Từ cải cách mở cửa đến nay, sản xuất phát triển, mức sống của người dân được nâng cao, nhưng đồng thời chúng ta cũng đối mặt với một xã hội càng ngày càng thế tục hóa. Những ma quỷ như ham muốn vật chất, dục vọng cá nhân lâu nay vẫn bị nhốt trong chai đã được cởi bỏ cấm đoán ở mức độ tương đối và được thả ra, từ đó mà dục vọng con người mới lan tràn. Điều đó khiến những người theo chủ nghĩa cách mạng lý tưởng, chủ nghĩa đạo đức lý tưởng, chủ nghĩa tự do dân chủ lý tưởng cảm thấy khó chịu. Thực ra, Trung Quốc đại lục có truyền thống đạo đức trọng nghĩa khinh lợi hàng mấy nghìn năm và truyền thống cách mạng một thế kỷ đến nay (bao gồm cả truyền thống của 72 liệt sĩ ở Hoàng Hoa Cương), không thể hoàn toàn triệt để thế tục hóa. Dù có hóa thì mãi mãi cũng không thể hóa đến mức như Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan hoặc các nước Đông Nam Á. Ở chúng ta đây, chẳng phải đã đưa tin về những fan cuồng nhiệt của những ngôi sao ca nhạc đó sao? Và cũng không biết từ lúc nào, nhiệt độ của những người cuồng nhiệt đó chẳng phải đã hạ rất thấp đó sao?
Xin chú ý, thế tục hóa ở đây chỉ là một khái niệm tương đối, vả chăng tôi cũng không thể ghi chú nguyên văn tiếng Latinh của nó, bởi vì tôi quen dùng khái niệm nguyên sinh chứ không dùng khái niệm qua dịch. Lấy quảng cáo thương mại làm ví dụ, điều nó thức tỉnh là dục vọng tiêu dùng chứ không phải là cách mạng, đạo đức hay lý tưởng cuối cùng. Vì vậy tôi cho rằng, cái do quảng cáo thương mại tràn lan mang đến là áp lực và sức chèn ép của thế tục hóa. Trong tình hình đó, cần nhấn mạnh hai tay phải cứng rắn, nhấn mạnh xây dựng văn minh tinh thần, đó là cách để uốn nắn cho ngay, làm cân bằng và cũng là ứng với ý nghĩa của việc chỉ trích thói đời ngày càng kém và đạo đức tụt dốc, mặc dầu những biện pháp ứng phó đó hiệu quả ra sao còn cần khảo sát và tổng kết. Lo sợ lên tiếng về sự xuống cấp của tinh thần nhân văn khác nhau như tôi hiểu lúc bấy giờ (lấy hệ tham chiếu là cách giải thích về sự phục hưng văn hóa nước Ý) và nhấn mạnh việc phát huy tinh thần nhân văn ấy là cách chống thế tục hóa và biện pháp ứng phó của giới tinh anh. So với hồi vội vàng bị cuốn vào cuộc thảo luận ba năm trước đây, bây giờ tôi càng hiểu thêm và đồng tình với những người bạn ấy. Tôi nghĩ, điều tôi hoài nghi chủ yếu là “xuống cấp” chứ không phải là bản thân “tinh thần nhân văn”, tuy rằng đến nay lời giải thích “tinh thần nhân văn” của mọi người còn xa mới làm cho ai nấy đều thỏa mãn. Yêu cầu của họ có lợi cho việc giữ sức căng cho đời sống tinh thần, cảnh giác với khả năng thoái hóa, biến chất mới nào đó, như thế cũng là có ý nghĩa gợi mở và cảnh báo. Nhưng trước mắt, vấn đề mà chúng ta cùng đám Lâm Đạo Tĩnh (cả Vêra và Nobuko) phải đối mặt có thể có chỗ so sánh được, song bối cảnh thì đã khác xa. Những phụ nữ đó sống trước cách mạng hoặc trong cao trào cách mạng, còn chúng ta sống ở Trung Quốc sau cách mạng (chỉ cách giải thích theo nghĩa hẹp là hành động bạo liệt để một giai cấp này lật đổ một giai cấp khác). Đi tìm ở đâu nguồn gốc của tinh thần nhân văn như thế là việc phức tạp hơn nhiều so với thời của đám Lâm Đạo Tĩnh mà chúng ta cần tìm tòi và thảo luận. Mọi người có cách nói khác nhau. Có người nói nguồn gốc đó tồn tại ở một dân tộc, một giáo phái nào đó, có người nói nó tồn tại ở ruộng đồng hoang dã và thiên nhiên rộng lớn, tồn tại ở văn minh nông nghiệp, có người cho rằng nó tồn tại ở “dân gian”, có người cho rằng nó còn cần kế thừa và phát huy ở Lỗ Tấn mẫu mực mà ta còn chưa với tới. Gần đây, càng có nhiều trí thức tinh anh phát hiện nó có ở chủ nghĩa Mác phương Tây, ở học phái Frankfurt hoặc ở chủ nghĩa hậu hiện đại, ở chủ nghĩa dân chủ xã hội. Đương nhiên cũng có nhiều trí thức nhân văn ưu tú cho rằng vẫn phải tìm nguồn gốc của tinh thần nhân văn ở chủ nghĩa khai sáng, ở phong trào Ngũ tứ, ở Dân chủ tiên sinh, Khoa học tiên sinh. Càng có người cho rằng phải đào xới và phát huy tinh thần ấy ở văn minh phương Đông, ở thuyết thiên nhân hợp nhất(1), ở thuyết Nho, Đạo cùng bổ sung cho nhau. Mỗi người nói một phách cho thấy sự cố gắng của các trí thức trong việc xây ngôi nhà lớn tinh thần hoặc thánh điện tinh thần. Việc làm đó rất trang trọng, rất cảm động, cũng rất thú vị và rất chưa thuần thục.
Học giả nhân văn nhấn mạnh tinh thần nhân văn cũng tự nhiên và hợp lý như doanh nhân nhấn mạnh tinh thần thương mại, nhà khoa học nhấn mạnh tinh thần khoa học và chính trị gia nhấn mạnh chính trị dẫn đầu. Thực ra tinh thần nhân văn vị tất đã là vấn đề riêng của trí thức nhân văn. Nhà doanh nghiệp ngành bách hóa Nhật Bản là Isoarashi Yuni có nêu ra một mệnh đề nổi tiếng: thương đạo tức nhân đạo(2). Bản thân ông viết sách và lập thuyết ngay cả ở việc thu đĩa hát, rất nhiệt tình với việc tuyên truyền đạo đức. Còn khẩu hiệu của công ty Nokia là “human technology” mà chúng ta dịch là “khoa học kỹ thuật lấy con người làm gốc”. Điều đó cho thấy tinh thần nhân văn có thể là sự quan tâm cuối cùng đến tinh thần thuần khiết, tối thiểu cũng còn có thể là tinh thần thân hòa thân thiết, gần gũi hơn nữa, bao quát nội dung vật chất cụ thể, tức tinh thần bao dung cả tính thường thức lẫn tính thế tục. Cho rằng hễ kinh doanh hoặc làm khoa học kỹ thuật là đi ngược với tinh thần nhân văn thì điều đó không có tính tất nhiên. Từ điển Hán ngữ hiện đại giải thích rất hay cho rằng mặt đối lập của thế tục là tôn giáo chứ không phải của cải tinh thần hoặc hệ thống giá trị. Còn như tôn giáo hoặc chủ nghĩa tín ngưỡng có thể hiện tinh thần nhân văn hay không thì e rằng còn đáng ngờ lắm, bởi vì điều mà cả hai (kể cả mê tín hiện đại) làm nổi bật hơn cả là thần hoặc tín ngưỡng chứ không phải là người. Cho rằng thế tục nhất định phải chống tinh anh là ý nghĩ năm 22 tuổi trở về trước của tôi. Tôn chỉ của phong trào phục hưng văn hóa ở Ý vừa hay từ tính tăng lữ của bờ bên kia chuyển biến thành tính thế tục ở bờ bên này.
Cuối thế kỷ 20, trí thức nhân văn như Trần Dần Khác và Cố Chuẩn cũng muốn dựng một tấm gương mới. Đồng thời cũng xuất hiện một số người không ngừng chỉ trích họ như Quách Mạt Nhược, và trách mắng bậc cha chú của mình hoặc cả giới tri thức Trung Quốc, nhất là những nhà văn xương mềm, không có khí tiết. Nhưng rời khỏi bối cảnh của phong trào cách mạng Trung Quốc, mọi sự cổ xúy cô lập hay chỉ trích đều tỏ ra chỉ biết một mà chưa biết hai.
Cần biết rằng cách mạng hóa trí thức chính là một đặc điểm lớn nhất của cách mạng nhân dân Trung Quốc. Không giống việc ra đi của hàng loạt trí thức nhân văn sau cách mạng tháng Mười, trước sau tháng Mười năm 1949 ở Trung Quốc, một lượng lớn trí thức đã xông pha ngàn vạn hiểm nguy trở về Trung Quốc trong thắng lợi của cách mạng. Đó không những là sự lựa chọn giá trị mà còn là sự tất nhiên của lịch sử. Không hề có ý chí quyền lực nào bắt buộc trí thức Trung Quốc làm cách mạng, mà là trí thức Trung Quốc, đặc biệt là nhà văn Trung Quốc (kể cả Thẩm Tùng Văn. Xin xem bài viết có liên quan trên tạp chí Tung hoành) đã lựa chọn cách mạng, vì nghĩa lớn không hề ngoảnh đầu. Giả sử lúc ấy người ta lại lấy Trần Dần Khác làm mẫu mực thì thật là nằm mộng không đâu. Hồi ấy trí thức Trung Quốc đi theo cách mạng với tâm tình lý tưởng hóa. Nét đẹp đẽ và hùng tráng đó hơn rất nhiều lên núi xuống làng hoặc canh gác đồng hoang, hoặc tin theo học phái Frankfurt mà đi sang Âu Mỹ. Còn như trí thức lựa chọn cách mạng cũng phải trải qua rất nhiều gập ghềnh, rất nhiều điều khó xử, thậm chí một số người phải ba mươi năm Hà Đông, ba mươi năm Hà Tây, rời bỏ chủ lưu rồi mới càng đắc thế, đó là chuyện về sau. Trí thức Trung Quốc chưa bao giờ chịu hạ mình dưới sự thống trị của Quốc Dân đảng. Không chịu nhìn nhận và không hiểu giai đoạn lịch sử này, xóa nhòa giai đoạn lịch sử này theo cảm tính, từ phẫn khích tới phẫn khích, tưởng rằng như thế mới là kế thừa Lỗ Tấn thì như thế là đơn giản hóa việc học tập Lỗ Tấn, không thể đặt ngang hàng với sự tỉnh táo của Lỗ Tấn mà bàn được.
Gần đây, những cuộc thảo luận quan tâm tới hiện trạng của Trung Quốc và sứ mệnh của người trí thức dần dần đa dạng và sôi nổi hẳn lên. Đương nhiên điều đó là rất tốt. Nói đến Trung Quốc thì dường như không thể không chạm đến vấn đề cơ bản là lịch sử Trung Quốc và hiện thực Trung Quốc, tức Trung Quốc đã trải qua một cuộc cách mạng vĩ đại và gian khổ, Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa giữ vững sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và chuyên chính dân chủ nhân dân; Trung Quốc cự tuyệt hẳn với Tây hóa toàn bộ, xưa nay không chịu tiếp thu bá quyền về tiếng nói của phương Tây, xưa nay ghét cay ghét đắng bá quyền về tiếng nói của phương Tây. Hiện trạng kinh tế chính trị của Trung Quốc cách rất xa Xô viết trước đây và các nước Đông Âu. Về mặt chủ thể, ở Trung Quốc không hề tồn tại vấn đề lịch sử (chủ nghĩa xã hội) đã hoặc đang kết thúc. Thêm nữa, những năm gần đây, chủ nghĩa dân chủ xã hội đang được thế ở châu Âu, nước Anh, nước Đức đã đổi thành Công đảng và Đảng Xã hội chấp chính, càng bất tất phải nhắc đến những quốc gia Bắc Âu, Canada, Úc, Singapo có truyền thống thường là Đảng Xã hội chấp chính và một số quốc gia theo chủ nghĩa xã hội Islam. Dự đoán tuyệt đại đa số trí thức Trung Quốc đã thầm tiếp thu chủ nghĩa tư bản và bá quyền có tính chung kết về tự do dân chủ tối thiểu cũng không vững vàng bằng dự đoán tuyệt đại đa số trí thức Trung Quốc đều yêu mến Đảng và chủ nghĩa xã hội. Có thể nói Fukuyama(1) là sự tình nguyện đơn phương nhưng ngữ cảnh Fukuyama dù sao cũng khó đặt ngang hàng với chúng ta mà bàn được. Sự khu biệt này khó lược bỏ mà không kể đến. Còn như nói trí thức Trung Quốc đã nghe theo Fukuyama, vì thế phải níu làn sóng dữ cho khỏi đổ xuống. Cách khái quát này cũng chưa phải đã rất sát thực. Tách rời nước Trung Quốc đặc thù để phân tích nhân loại và lịch sử nhất thể hóa, như thế có coi là tiếp thu hay cự tuyệt bá quyền lên tiếng của phương Tây không? Cho rằng kinh tế Trung Quốc đã đang hòa nhập với thế giới thì vấn đề của Trung Quốc cũng không có gì khác với các nơi khác trên thế giới, như thế phải chăng quá thích nghi với thô mà không thích nghi với tinh? Như thế phải chăng quá tin “trung tâm là phương Tây”? Như thế rốt cuộc đã với tới hiện thực của chúng ta, lịch sử của chúng ta ở mức độ nào?
Đối với cái gọi là tự do dân chủ, tôi đã từng có chút mơ hồ. Tự do dân chủ không những là một loại lý luận chính trị mà còn là một thế giới quan, nó dường như nên lấy nền tảng triết học cho mình là tính tương đối và tính đa nguyên. Nói một cách có phần cảm tính là khái niệm tự do dân chủ và khái niệm công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích của người lao động là khái niệm thế tục chứ không giống khái niệm chống thế tục - không biết có đúng như vậy không, mong được chỉ giáo; nó chú ý bảo vệ thiểu số hơn là phục tùng đa số vì thực ra ở nơi nào càng không dân chủ thì càng dễ có hiện tượng lấy danh nghĩa - thậm chí hoàn toàn nhất trí với đa số áp đảo, đa số tuyệt đối để áp chế thiểu số. Cái tự do dân chủ bài xích kẻ khác, căm ghét ý niệm tuyệt đối do thế tục đề xướng ấy có thật là tự do dân chủ không?
Vì sao nguồn tư tưởng của chúng ta lại có hạn như thế? Tại sao cái mà chúng ta sáng tạo đầu tiên lại thiếu hụt như thế? Tại sao khái niệm và mô thức của chúng ta, kể cả mô thức phê bình “hậu thực dân”, phê bình “bá quyền lên tiếng của phương Tây” phần lớn là đồ nhập ngoại? Thật sai lầm khi cho rằng chủ nghĩa xã hội dân chủ toàn diện là do chúng ta sáng tạo ra. Phần trước có nói đến chủ nghĩa dân chủ xã hội ở châu Âu, châu Úc và ở nơi khác, song thực ra Gorbachov từ lâu đã đưa ra thuyết chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo rồi. Còn như nói nhân quyền không chỉ là quyền lợi về chính trị mà còn nên bao hàm cả nội dung về kinh tế và văn hóa thì những điều các bạn chúng ta đưa ra vẫn chưa thấu triệt và sáng rõ bằng bộ ngoại giao nước ta đưa ra. Nhập ngoại cũng được, tiếp thu cũng được vì lẽ thường thấy cái gì tiên tiến thì phải học, học đến nơi đến chốn thì thành của mình. Vấn đề là làm sao khiến những thứ nhập ngoại liên hệ được với cuộc sống của chúng ta, hiện thực của chúng ta, lịch sử của chúng ta đây? Sức hấp dẫn của một lý luận mới lẽ nào không phải ở chỗ nó có nghĩa là sự phát hiện mới mẻ nào đó từ cuộc sống? Đã bước vào hiện thực, đời sống và lịch sử thì rồi cũng sẽ có tính sáng tạo. Tôi nói như thế phải chăng quá tầm thường? Tôi còn thiếu năng lực tham gia thảo luận từ lý luận học thuật, tôi chỉ nói một chút cảm quan để mong được chỉ giáo mà thôi, xin các bạn có học vấn bao dung.
Lại nói, giữa ba điều cách mạng hóa, tính thế tục và lời bày tỏ của giới tinh anh, không phải bao giờ cũng là đối lập. Người cách mạng và giới tinh anh thấu hiểu nguyện vọng thế tục chính đáng của quần chúng nhân dân, họ cố gắng và hiến mình để làm thỏa mãn yêu cầu đó. Thực ra như thế không phương hại gì tới cách mạng và tinh anh mà chính là vì cái nghĩa nên có khiến người cách mạng và giới tinh anh sở dĩ làm cách mạng và đi vào lĩnh vực tinh anh. Bởi vì bạn có vĩ đại đến đâu đi nữa thì vẫn sống trong đời tục, không tách rời khỏi thế tục được. Sau khi trải qua một cuộc cách mạng long trời lở đất, trong rất nhiều trường hợp, thế tục hóa ắt liên hệ với bình thường hóa, hòa bình, ổn định và phát triển sản xuất. Đương nhiên, trong cục diện thế tục hóa cũng sẽ nảy sinh vấn đề chưa từng có trong cao trào cách mạng. Đồng thời với thế tục hóa, chúng ta vẫn cần trân trọng và phát huy tinh thần truyền thống cách mạng hóa như thường, vẫn cần chú ý và tôn trọng yêu cầu về tinh thần của giới tinh anh, nâng cao phẩm vị tinh thần của bản thân và xã hội. Làm được tốt thì có cả văn minh, giàu có, tiến bộ, công bằng, phồn vinh... Đó vừa là sự theo đuổi của cách mạng và giới tinh anh, vừa là sự mong mỏi phổ biến của quần chúng thế tục. Mặt đối lập với thế tục không nhất thiết là đạo đức, thế tục cũng có đạo đức của thế tục, người buôn bán ở nước Trung Quốc trước kia cũng rất chú trọng không nói hai giá, không bắt nạt người già và trẻ nhỏ. Chí ít thì ba khía cạnh trên có lúc có thể song hành mà không trái ngược nhau, như ba bông hoa cùng nở. Ở phương Tây, nhiều khi thế tục và tinh anh ở trong trạng thái nước giếng không phạm tới nước sông. Xã hội ở đó thế tục hóa hơn chúng ta nhiều song tinh thần và tình cảm của giới tinh anh dường như không kích động như chúng ta. Còn như một quốc gia, một dân tộc mà tinh anh hóa triệt để, tạo nên một nước quân tử thì xưa nay trong nước và ngoài nước đều chưa từng có. Tất nhiên, về phương diện này giữ tư thế phê bình nhất định là điều có ích. Tóm lại, đối với thế tục hóa e rằng chúng ta vẫn phải tiếp thu, bao dung, hướng dẫn và nâng cao, hoặc tạm thời treo lên đó chứ không nên một mực chửi rủa và cự tuyệt.
Đương nhiên, tiếp thu và bao dung ở đây là chỉ sự tiếp thu và bao dung yêu cầu sống tốt của người đương đại nói chung (xuất xứ từ sách Mạnh Tử như phần trước đã dẫn), chỉ lợi ích vật chất và phong tục tập quán của dân chúng, chỉ truyền thông đại chúng phục vụ cho văn hóa đại chúng có ích mà không có hại, chỉ quyền tự bảo hộ, tự lựa chọn của người tục như quyền cư trú, quyền di chuyển, quyền chọn nghề, quyền giấu kín những điều riêng tư v.v... chứ tuyệt đối không chỉ mặt ác tính trong thế tục hóa hoặc chí ít là hiệu ứng không mong muốn (những mặt này rốt cuộc là chứng bệnh theo mùa của thế tục hóa hay là chứng bệnh vốn có từ xưa nên càng dễ bộc lộ ra trong tình hình thế tục hóa thì tôi còn chưa rõ), tuyệt đối không chỉ những tà ác, hủ bại, tham lam, cướp đoạt, giả mạo, chống đối, lời nói và việc làm không đi đôi với nhau cùng đủ loại hiện tượng phạm tội và trụy lạc khác. Trước những vấn đề mới xuất hiện hoặc xuất hiện làm thay đổi diện mạo ấy mà cảm thấy căm phẫn, lên án và bút chiến, đương nhiên là hành động chính nghĩa. Mấy năm gần đây tôi đã đọc nhiều bài viết như thế và cảm ơn chúng đã mở mắt cho tôi, nhắc nhở tôi chú ý đến những vấn đề mới đó, chứ không phải chỉ chăm chăm chú ý tới vấn đề cũ. Điều tôi còn chưa hiểu là nếu chỉ quy nguyên nhân những vấn đề nghiêm trọng nói trên có tính hiện đại, toàn cầu hóa, chủ nghĩa khai sáng, chủ nghĩa khoa học, hậu thực dân. Samuel Huntington hoặc Fukuyama và lấy học phái Frankfurt, M.Foucault, Marcuse... làm phương thuốc đề kháng thì đã điểm đúng huyệt hay chưa? Bảo chúng có từ việc sùng bái quyền lực, dùng quyền lực mưu lợi riêng, tố chất quốc dân yếu kém, thể chế và pháp chế không hoàn bị, chưa thuần thục, thiếu sót, đạo đức và giá trị suy thoái trong tình hình chuyển đổi mô hình quá nhanh về xã hội, kinh tế, văn hóa - trong số đó có một số vấn đề mang tính phong kiến, tức không hiện đại, tiền hiện đại, sơ hiện đại thì phải chăng càng thích hợp hơn? Vấn đề của chúng ta thật sự vượt cả người đi trước như vậy chăng?
Còn như cách mạng hóa thì cần phải bảo vệ sự phát huy, không thể sổ toẹt bằng một nhát bút, không thể đơn phương chủ quan không thấy bối cảnh lớn đó, cũng không thể tạo ra một cách nhân vi, không thể đối lập yêu cầu của cách mạng hóa với lợi ích thực tế của quần chúng nhân dân. Đối với yêu cầu của giới tinh anh, chỉ có thể tôn trọng, tìm hiểu và suy nghĩ, thong dong nghiên cứu, trăm nhà đua tiếng, không thể nói một lời không vừa ý đã muốn trừ bỏ, cũng không thể đòi hỏi những yêu cầu đó đều có tính thao tác, bất kể người yêu cầu là người trong nhóm hay người ngoài nhóm với mình. Vì giới tinh anh được tự do suy nghĩ, vì vậy nên cho phép xuất hiện các loại ý kiến vượt người đi trước, hoan nghênh tính vượt trước và tính phê phán, thậm chí cho phép trình bày những ý kiến khác thường, kể cả phiến diện hay sâu sắc, cho chí có tiền đề là trò chơi trí tuệ. Nếu trong giới tinh anh cũng không nghe lọt ý kiến bất đồng với nhau, nếu ý kiến bất đồng chỉ đem lại bất hòa cho nhau, thì điều đó chỉ chứng minh rất nhiều điều hay mà chúng ta bàn tới đều còn quá sớm. Trí thức nhân văn có thể dốc sức lập tâm cho trời đất, lập mệnh cho sinh dân v.v..., cũng có thể dốc sức cho công tác thiết thực, cụ thể, tỉ mỉ hơn nữa. Trên thế giới đã có biết bao nhà văn được trao giải Nobel, song chưa bao giờ nghe nói họ đều là lương tâm của nước ấy, dân ấy, dân tộc ấy. Một người hiện đại khỏe mạnh phải chăng khao khát lấy lương tâm của người khổng lồ chứ không tin ở lương tâm hiện có của mình, đó còn là một vấn đề. Bối cảnh của người khổng lồ là tinh thần kiểu Lỗ Tấn nảy sinh từ giới tinh anh thì bây giờ ở Trung Quốc đã khác, dù có sốt ruột, có chửi rủa nữa cũng uổng công. Bây giờ cũng có thể sản sinh ra nhà văn lớn song tuyệt đối không phải kiểu những nhân vật của quá khứ. Rốt cuộc cột trụ của tri thức về tư tưởng hiện nay là thế nào, cứ chờ người ấy xuất hiện rồi sẽ biết, qua khảo nghiệm của lịch sử một thời gian rồi sẽ biết. Nếu trách móc người khác xương không cứng thì chi bằng tự mình hãy cứng đi! Chí ít Quách Mạt Nhược đã để lại kỷ lục vẻ vang về kiên cường bất khuất ở Trùng Khánh rồi. Về mặt này nếu chỉ tuyên ngôn và trách móc thì tác dụng thật sự có hạn. Lấy thước đo của Foucault làm chỗ dựa để cắt xén, bảo như thế nào, thế nào thì không kể được là trí thức, thì theo các nhà tinh thông bảo cho tôi biết, chủ trương của Foucault lại trái ngược hẳn với lập luận của các bạn hễ nói là dẫn Foucault ra. Họ bảo tôi ngay cả Foucault cũng hoài nghi và phê bình khái niệm “tinh anh”, “tri thức”. Cách làm mượn danh nghĩa cái gọi là Foucault để đuổi các học giả không hợp ý với mình ra khỏi cửa dòng họ ấy, e rằng ý nghĩa thực tế chỉ có hạn. Tốt nhất nên suy nghĩ kỹ hơn về việc phải chăng có thể dùng “nhất nguyên hóa”, “cắt phăng một nhát” khi đánh giá và phán đoán tri thức? Còn về phẩm chất và tiết tháo cá nhân, đương nhiên bạn có thể kiên cường giữ vững cách điệu cao, cực cao, ít hài hòa với thế tục. Đó là việc của bạn. Chỉ cần bạn không lấy đó làm thước đo để cắt xén mạt sát cuộc sống và công chúng thì đó đã đủ để người ta tỏ lòng kính cẩn với bạn rồi. Đồng thời phải chăng có thể đại nhã như tục, Tây đến mức uyên thâm thì như quê mùa? Phải chăng có thể thân thiện, hòa mục và tìm hiểu thế tục, trân trọng và kế thừa cách mạng mà đồng thời vẫn giữ được chất lượng cao cho tinh anh, giữ được nhân cách độc lập, không thỏa hiệp với cái xấu, cái ác?
Ai bảo rằng không thể được?
Khuyên cháu hiền
Con trai ông bạn già của tôi chưa tới tuổi nhi lập(1), gần đây đã được trao chức Phó chủ tịch huyện. Vâng theo lời bạn, tôi khuyên cháu rằng:
Hãy chúi mũi vào công tác, vào nghiệp vụ, không cần để ý xem người ta có phục mình hay không. Một chức quan nhỏ như hạt vừng(2), lại còn trẻ, người ta không có nghĩa vụ phải phục. Không phục thì thôi, không phục vẫn phải xoay vần theo trình tự công tác.
Ngàn lần không nên cho mấy người đi sưu tầm xem ai, ai đã nói về mình như thế nào, nhất là không nên cướp lời để khiển trách, châm biếm người khác trong cuộc họp, không nên tự xuất đầu lộ diện phê phán những lời bóng gió về mình. Nếu cháu làm như thế thì chẳng khác nào tự mình truyền bá lời bóng gió, thu hút sức chú ý của mọi người vào mình, chẳng khác nào tự làm trò hề.
Không nên hơi một tí là chê bai người tiền nhiệm. Chê bai người tiền nhiệm là ra đề khó cho mình vì cháu phải làm khác người tiền nhiệm trong mọi việc và phải làm tốt hơn người ấy rất nhiều. Chê bai người tiền nhiệm là tự đặt mình dưới đèn tụ quang để so sánh mọi chỗ với người tiền nhiệm, như thế thực ra rất bất lợi cho cháu.
Trước mặt cấp trên, không nên cứ nói mãi rằng dân ở huyện mình lạc hậu ra sao, tố chất cán bộ của huyện mình thấp đến mức nào. Chê bai cấp dưới của mình chỉ bộc lộ sự bất tài, vô tri của cháu, bộc lộ cháu đã không biết đoàn kết với mọi người, lại cũng không biết phát huy tính tích cực của họ - tóm lại một câu, bộc lộ cháu không xứng với chức vụ đó. Không nên năng lên cấp trên xin cứu giúp, viện trợ. Mười mấy huyện xung quanh đều yên ổn, chỉ riêng huyện cháu là có chuyện, điều đó ngoài việc chứng minh cháu làm không xong thì chứng tỏ được điều gì khác? Một chút mâu thuẫn cũng không giải quyết được thì cần Phó chủ tịch huyện như cháu làm gì?
Không nên hơi một tí là để lộ sự bất mãn của mình đối với cấp trên. Thường có một số người chuyên môn rình mò mâu thuẫn của cấp trên để hòng lợi dụng mâu thuẫn đó đạt được mục đích cho mình. Người như thế rất không đúng đắn.
Không nên tạo ra tay chân thân tín, càng không nên đi đâu cũng đưa họ đi theo. Chẳng ai là đồ ngốc, cháu làm như thế thì trong khi được mười mấy người tiền hô hậu ủng, đồng thời lại mất đi sự ủng hộ của đại đa số.
Các vấn đề nguyên tắc lớn, thế nào tổ chức và các bác lớn tuổi cũng chỉ bảo cho cháu, những điều nói ở đây chỉ để cháu tham khảo. Tóm lại, quan lớn hay quan nhỏ đều là quan để làm việc. Dùng thành tích công tác để nói thì hưng thịnh, đứng vững, tốt lành. Dùng lời nói thay cho thành tích công tác thì thảm bại, nguy hiểm, hung. Xin chớ, xin chớ!
Cuối cùng bổ sung thêm một câu: lên được, xuống được mới tỏ ra phẩm chất làm người, phẩm chất làm quan. Khi xuống thì nhất thiết chớ để chê cười. Trong thời gian nhậm chức không nên vứt bỏ nghiệp vụ để tránh cuối cùng thành ra người chẳng có sở trường gì, không làm nên được việc gì, khác nào Võ Đại lang chơi xà đơn, lên không được mà xuống cũng không xong.
Yêu quý gia đình
Có một dạo tôi rất khâm phục lý luận và thực tiễn về gia đình cuối cùng rồi sẽ diệt vong hay đang diệt vong. Mấy năm đại nhảy vọt cuối thập niên 50, đã tuyên truyền một hồi về lý luận cho rằng gia đình sẽ tiêu vong theo sự tiêu vong của tài sản tư hữu. Song nói thật lòng, khi kết hợp với tự thân mà nghĩ, những lý luận như thế cũng khiến lòng tôi hoang mang - làm sao lại không thể còn gia đình? Nghe nói, tới xã hội cộng sản chủ nghĩa thì không còn gia đình nữa, song trước khi đạt tới xã hội cộng sản mà đã tiêu diệt gia đình thì người ta khó lòng tiếp thu.
Ở các nước phương Tây phát triển, một số người cũng có thái độ phủ định đối với gia đình và hôn nhân - cơ sở của gia đình. Tuy cá tính và tính kiên định của những người sống độc thân ấy khiến một số người cảm phục, song tôi không thể làm được như họ. Điều này có liên quan tới việc tôi không thích sống độc thân. Ngoài ra tôi cũng cho rằng phương Tây dù sao cũng là phương Tây, chúng ta không phải là phương Tây.
Người ta bao giờ cũng sống cùng người khác. Bất kể quý trọng tính độc lập cá nhân đến mức nào thì một người cũng rất khó sống một thân một mình suốt cả đời. Ở đây có vấn đề mang tính kỹ thuật. Sinh sống, ăn uống, ngủ nghê, đại tiện, tiểu tiện, đọc sách, làm việc... đều cần phân công hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau. Già cả, ốm đau, nhà sập, nhà cháy... đều cần người khác giúp đỡ. Ở đây cũng còn có hoặc càng có vấn đề tâm lý, tình cảm. Con người cần sống chung với người khác, cần chia sẻ với người khác nỗi mừng giận vui buồn, những điều mắt thấy tai nghe và kinh nghiệm. Người ta cần đến tình yêu, cuộc sống mà không có tình yêu là cuộc sống nơi sa mạc, khó mà chịu đựng nổi. Gia đình là kết quả của tình yêu, là nơi chứa đựng tình yêu, là “trường” của tình yêu. Còn tình yêu là chỗ dựa của gia đình, là sức hấp dẫn của gia đình, là nguồn hạnh phúc của gia đình. Có tình yêu thì sinh mệnh làm chứng cho sinh tồn, giao lưu làm chứng cho sự sống. Vợ chồng, cha con, mẹ con làm chỗ dựa và làm chứng cho sinh tồn. Không có tình yêu chẳng có sinh tồn, hoặc tuy sống đấy mà như không sống.
Đặc biệt trong những ngày gay go, gian khổ, công dụng của gia đình thật sự không gì so sánh được. Cá nhân tôi có một phát hiện: chỉ có áp lực về chính trị hoặc về công tác không thôi thì không thể làm người ta gục ngã. Phàm những người tự tử mà chết trong những năm tháng không bình thường, hầu như không ai không là hậu quả của áp lực song trùng, tức là họ thường trong khi bị đả kích và hiểu lầm về mặt chính trị thì đồng thời còn phải đối mặt với sự tan vỡ về gia đình, bị áp lực vợ bỏ con rời ngay trong nhà mình. Ngược lại, người bị áp lực song trùng cả về chính trị và gia đình mà vẫn đứng vững được thì thật là không nhiều.
Có rất nhiều nhân tài quý giá và nhân vật đáng yêu tuy ở vào nghịch cảnh mà cuối cùng đã sống lại, sống lại một cách khỏe mạnh. Tôi nghĩ phải quy công cho gia đình và người thân của họ. Chính gia đình và người thân đã khiến cho người bị thử thách cam go ấy được hưởng chút ấm áp cho dù chỉ là tạm thời. Họ đã được hít thở, đã được cuộc sống chiếu cố, có được niềm tin và lòng nhẫn nại bất kể như thế nào cũng phải kiên cường sống tiếp. Lịch sử cần cảm tạ những gia đình và người nhà họ như thế. Tổ quốc nên cảm tạ những gia đình và người nhà họ như thế.
Gia đình cũng như sức khỏe. Khi bạn có được thì bạn cho rằng mọi thứ bạn có được đều đương nhiên đúng lẽ, thậm chí tiếp nhận một cách nhạt nhẽo, không vồn vã. Nhưng khi mất đi rồi thì bạn mới biết những thứ đó đáng quý biết mấy, không nên để mất mới phải.
Bởi vậy, khi chúng ta chúc người khác, chúng ta thường nói nhất là “chúc bạn khỏe mạnh, chúc gia đ 9e41 ình hạnh phúc”.
Không có gì so sánh được với sức khỏe, nhưng gia đình thì có thể so sánh được. Hơn nữa, theo quy luật nói chung, người có gia đình hạnh phúc thì thân thể càng có cơ hội giữ cho được khỏe mạnh. Còn người không có hạnh phúc gia đình thì sao? Chúc cho họ đến thời thì vận chuyển, có được một gia đình hạnh phúc!
Thương cảm
Thời thiếu niên, tôi dường như cũng hay thương cảm ít nhiều.
Khi học tiểu học, tôi thích nuôi côn trùng. Lúc ấy, Bắc Kinh có nhiều dâu. Trèo lên cây, hoặc chẳng cần trèo, cứ đứng dưới gốc là có thể kéo xuống nhiều lá dâu tươi. Rửa sạch, rũ khô, dùng để nuôi tằm. Mắt nhìn thấy tằm từ con trùng nhỏ như kiến trắng dần biến đổi từng ngày từng giờ, ăn lá dâu thật ngon lành, vừa nhanh vừa nhiều, ai thấy cũng vui. Chỉ có điều cảm thấy chúng sống quá căng thẳng, tranh thủ từng giây từng phút, chưa từng trễ nải bao giờ.
Cuối cùng tằm béo tròn trong suốt, khắp mình có màu xanh, thế là chúng nhả tơ. Nghênh đầu, ngoáy đầu, chúng nhả tơ xem chừng rất mệt thì phải.
Biến thành nhộng khiến người trông thấy mà buồn, cảm thấy sinh mệnh chúng co rụt lại. Biến thành ngài, càng khiến người ta đau đớn thương tiếc. Nhiều lần tôi muốn cho ngài ăn chút gì đó, vỏ bánh bao hay đường thì tốt, đương nhiên lá dâu cũng được. Nhưng chúng đâu có nghĩ đến duy trì cuộc sống, chúng vội vàng tìm con đực rồi đẻ trứng. Chúng khô héo đi, vội vã kết thúc một kiếp luân hồi. Năm sau tuy lại có nhiều tằm, song đã không còn là tằm trước nữa.
Lá dâu thì sao? Tất cả lá dâu thì sao? Nhiều lắm, nhiều lắm, song dù là ai thì cũng không thể thay thế ai được? Cả một vạt lá dâu khô héo, rụng xuống đất, hoặc bị hái đem đi, thế là cả một vạt lá dâu đó cũng không tồn tại nữa.
Bởi vậy khi muôn hoa nở rộ trong mùa xuân khiến tôi tấm tắc thì đồng thời cũng khiến tôi cảm thấy bức xúc. Tôi thường cảm thấy tôi không còn được hưởng mùa xuân bởi muôn hoa nở rộ cũng là điềm báo trước sẽ điêu tàn. Tôi thường cảm thấy mùa xuân khiến người ta nuối tiếc nhất, khiến người ta không biết phải làm thế nào. Thà rằng chẳng có mùa xuân lại hơn.
Thậm chí khi tôi ném một mẩu gỗ hay mẩu giấy xuống dòng nước đang trôi, tôi cũng cảm thấy lưu luyến. Mẩu gỗ ấy sẽ trôi đến đâu. Mẩu giấy ấy sẽ chìm xuống chỗ nào? Tất cả những điều đó chúng ta đều không thể biết.
Mùa hè, tôi đặc biệt thương những con chuồn chuồn bị bắt. Chúng vẫy đôi cánh song không bay lên được. Tôi cũng thương lũ dơi lúc chạng vạng tối và những con đom đóm trong đêm bởi vì chúng hiu quạnh. Chúng không lên tiếng, vậy mà tôi cảm thấy cuộc sống của chúng quá thiếu lạc thú.
Lại còn vầng trăng giữa trời mới xa vời làm sao! Lại còn tiếng khóc của trẻ sơ sinh mới cần giúp đỡ đến mấy! Lại còn tiếng sáo của thầy bói mù, bước chân của người đó mới gian nan làm sao! Lại còn những khúc nhạc dân gian đủ kiểu, trong đó bao giờ cũng bao hàm nỗi buồn. Lại còn vào đầu mùa thu, lần đầu tiên phát hiện thấy nằm trên giường không còn nóng bức nữa thì lại một mùa đã đi qua, lại là một năm khác, thậm chí còn có pháo nổ tưng bừng trong ngày Tết, tạch đùng tạch đùng rồi sau đó khói tan tiếng lặng, chỉ còn xác pháo khắp nơi.
Những thương cảm đó ở đâu ra thế nhỉ?
Sau đó cách mạng đến. Cách mạng là sự nghiệp mạnh mẽ nhất. Sau đó tôi mới biết lối thương cảm đó là không lành mạnh rồi gọi tuốt tuột là “tình cảm tiểu tư sản”. Kỳ thực người tiểu tư sản thật sự - như các hộ cá thể bán tất hoặc mở tiệm ăn, vị tất đã thương cảm như thế.
Sau đó tôi mới gặp phải những ngáng trở và gập ghềnh thực sự, song trái lại thương cảm càng ngày càng ít. Sau đó người ta đều bảo tôi thông thoáng, lạc quan, phóng khoáng, thậm chí sáng suốt. Dù sao tôi tuyệt nhiên không thương cảm nữa.
Thương cảm rốt cuộc là gì? Là tình cảm ấu trĩ, ngây thơ, là sự bổ sung cho con tim mệt mỏi vì tính toán, tranh đấu chăng? Là một chứng bệnh nhẹ về tâm lý chăng? Là tình cảm trời phú cho chăng? Là một sự hưởng thụ chăng? Là con đường nhỏ dẫn đến văn học chăng?
Nghe nói người nước ngoài cũng bảo thương cảm đã lỗi thời từ lâu rồi. Thế thì thật thà mà thừa nhận đi! Tôi đã từng có và bây giờ vẫn còn có cái gọi là sự thương cảm lỗi thời đó. Sống đến già thì cải tạo đến già vậy, đường hãy còn dài mà!
Cười một tiếng
Tháng trước về Quảng Châu, gặp một đồng chí ở Dương Thành vãn báo bèn nhắc lại mấy bài thơ gần như vè tôi gửi họ đăng tháng Hai năm 1988. Đến nay tôi chưa nhận được báo biếu, rốt cuộc đã viết những gì cũng quên sạch. Đó cũng là một biểu hiện của sự lão hóa chăng? Tôi trước đây có gửi một bài viết, cứ nghĩ rằng ít nhất trong hai tháng có thể học thuộc lòng và hai tháng sau cũng chưa quên được nội dung.
May sao đồng chí biên tập có ý tốt, sau khi tôi trở về Bắc Kinh đã phô tô bài thơ năm xưa của tôi rồi gửi đến. Đọc lại thơ cũ đã quên cho người ta cảm giác bỗng nhiên đại ngộ: thì ra mình đã làm một bài thơ như thế.
Một bài thơ lấy đề là Phiếu phúc lợi xã hội:
Cầu phúc hẳn được phúc,
Mơ tiền chửa phát tài,
Sao chẳng vui dự thưởng,
Được mất một tiếng cười.
Lúc ấy trên đường phố Quảng Châu chỗ nào cũng bán “Phiếu phúc lợi” có thưởng, giải cao nhất đến mấy vạn, mấy vạn nhân dân tệ. Sau đó còn dùng phương thức quay số trúng thưởng này để bán nhiều loại phiếu khác. Trước Tết năm nay, tôi đã nhận được mấy chục tấm thiếp chúc Tết có thưởng. Biết rõ cơ hội trúng thưởng là rất hiếm nhưng tôi vẫn cười ha ha vì tình bạn và cũng vì cơ hội trúng giải thưởng lớn là một trong hàng mười vạn lại mười vạn cơ hội nữa mà bạn bè đã ban cho tôi.
Lần cười ấy đã đủ (tốt) cho tôi lắm rồi!
(Sau đó công bố kết quả quay số, tôi trúng một giải ba, ba giải tư nhưng tôi không đến lĩnh thưởng).
Trên thế giới ngoài những việc do lôgích tất nhiên quyết định ra, quả thực còn có một số việc quyết định do cơ hội. Gặp cơ hội thì đáng cười một tiếng, mất cơ hội cũng không ngại cười một tiếng, bởi vì cơ hội chỉ là cơ hội, tỉ lệ trúng vốn đã rất hiếm, rất hiếm. May mà mất cơ hội này vẫn còn cơ hội khác. Hơn nữa, ngoài những việc gặp vận may như trúng thưởng, dù sao chúng ta cũng còn bản lĩnh và phấn đấu chuyên cần phấn đấu. Cơ hội thành công dựa vào bản lĩnh và phấn đấu cần cù không biết lớn hơn mấy trăm, mấy ngàn, mấy vạn, gấp bao nhiêu lần cơ hội chỉ dựa đơn thuần vào cơ hội để giành phần thắng.
Như thế để nói chúng ta không ngán cơ hội, cũng không chối bỏ cơ hội song quyết không ỷ vào cơ hội. Trong mấy bài thơ làm năm ấy, còn có một bài lấy đề là Ý thức thương phẩm:
Khiến anh hãy đi buôn,
Nguồn tiền như sông lớn,
Thư sinh là lão Chín(1)
Leo dòng(2) đêm chưa tàn.
Bài thơ này tuy có ý tự trào song không phẫn uất bất bình. Niềm vui leo dòng trên trang giấy có dùng tiền cũng không đo được (có điều tôi vẫn cho rằng cần nâng cao tiêu chuẩn nhuận bút và thay đổi cách thức tính nhuận bút). Người nào cũng có chí của mình, đạo khác nhau thì không bàn bạc với nhau, bất tất phải ghen ghét nhau. Một nhân vật nghe nói ca sĩ nọ hát một bài, nhận cát sê đến bao nhiêu, bao nhiêu tiền thì nổi giận: “Một tháng tôi kiếm được có chừng ấy tiền thôi!” Ôi, sao mà lòng dạ nhân vật ấy hẹp hòi đến vậy? Ông có ý kiến thì có thể yêu cầu tăng lương cho mình, có thể kiến nghị tăng thêm thuế điều tiết thu nhập cá nhân, chứ thật không nên lôi mình ra so sánh với ngôi sao ca nhạc. Nếu ông đến nhà thi đấu thể thao để bán tiếng hát, liệu có ai nghe không? Lại nói, ông ở cấp bậc nào, đãi ngộ thế nào, uy phong ra sao, tư cách thế nào (đè nén người không biết đến mấy lần) thì tự ông biết, người ta làm sao có thể so đọ với ông?
Kinh tế thương phẩm vừa mới phát triển, trong quá trình đa dạng hóa các nguồn phân phối có thể xuất hiện cơ hội và sự mất cân bằng không ngờ tới. Quả thật có rất nhiều mâu thuẫn cần được giải quyết, có rất nhiều hiện tượng bất hợp lý cần phải loại bỏ. Mâu thuẫn này được giải quyết thì lại xuất hiện mâu thuẫn mới, hiện tượng bất hợp lý này được loại bỏ thì lại xuất hiện hiện tượng bất hợp lý thứ hai. Trước hiện thực khiến người ta vừa mừng vừa lo đó, chỉ nên chú ý khiến tâm lý mình được cân bằng. Còn như đối với những thiệt thòi nhỏ nhặt hoặc không được lợi bằng người ta thì chỉ nên gửi vào một tiếng cười.
Phiền não
Ai có thể không có phiền não đây? Nói khoa trương một chút thì sinh tồn chính là phiền não.
Phiền não là kẻ thù của sinh tồn, là sự dị hóa của sinh tồn, là nấm mốc của sinh tồn.
Người ốm lắm phiền não, người cuồng vọng lắm phiền não, người có dã tâm lắm phiền não. Dục vọng và theo đuổi hư ảo chỉ có thể đem lại đau khổ cho con người. Tiên đan khiến sống mãi không già, phép thuật điểm đá thành vàng, cuộc đời thuận buồm xuôi gió, vẻ đẹp vinh quang và thành công bao giờ cũng thuộc về mình, tóm lại, lòng khát vọng một thế giới và cuộc sinh tồn không hề có phiền não lại chính là căn nguyên của phiền não càng trầm trọng hơn. Đó chẳng phải là sự châm biếm không sao tránh khỏi hay sao? Khắc phục sự ngây thơ thái quá, khắc phục sự lãng mạn yếu đuối, vứt bỏ cảm giác tự ngã lên trời là tốt đẹp, dũng cảm đối mặt với mọi gian nan trong hiện thực, coi phiền não như bụi trên mặt, đất trên áo, có vấy bùn cũng không sợ, tùy lúc mà lau giặt, giữ cho sạch sẽ thường xuyên, như thế chẳng phải là trí tuệ và niềm vui hay sao? Phiền não đã bị khắc phục, bị vượt qua cũng trở thành đầu đề câu chuyện, trở thành một chút thú vị, một chút sắc màu, một mảng hồi ức.
Các bạn thân mến, phiền não của bạn chẳng qua là một chút cảm giác đắng khi nhấp một ngụm rượu nồng, mùi vị thật sự của nó vẫn cần thưởng thức từ từ, nhấm nháp kỹ càng mới thấy được.
Đố kị
Đố kị là tình cảm rất vi diệu, mạnh mẽ và ẩn giấu, bản thân người đố kị cũng không muốn thừa nhận song thỉnh thoảng lại để lộ ra. Đố kị rất hại người, rất hạ thấp người, khiến bản thân người đố kị trở thành xuẩn ngốc, đáng chê cười, đáng buồn, đáng ghét. Người nào càng cố giấu lòng đố kị thì càng dễ bị người khác nhận ra. Đố kị là tình cảm kích động của kẻ yếu, vì ngoài đố kị ra, người ấy cũng chỉ biết đố kị, không làm nổi việc gì khiến mình cảm thấy tự hào, khiến tâm lý mình được cân bằng. Kẻ mạnh nắm vững bản thân, khắc phục bản thân bằng lý trí, bằng đạo đức, bằng lòng dạ lấy đại cục làm trọng, lấy chí cạnh tranh, chí tiến thủ để cải tạo và thay thế lòng đố kị, dùng tinh thần phấn đấu trong sáng để xua đuổi bóng đen của lòng đố kị. Kẻ yếu dùng lời lẽ ra vẻ đường hoàng, thao thao bất tuyệt, nôn nóng thở gấp để che giấu ý báo thù, ý ác độc, ý xấu xa của mình. Phỉ báng và làm thương tổn người khác là phương thức sống của họ, dần dần mục đích sống của họ không còn là mình cần làm gì mà đã là ngăn cho người khác không làm được gì; không còn là mình cần làm nên thành tích mà đã là không cho người khác làm nên thành tích.
Nghe nói ở vùng Nam Á lưu truyền câu chuyện: Thượng đế bảo một người rằng Thượng đế có thể thỏa mãn yêu cầu của anh ta, ban cho anh ta mọi thứ theo yêu cầu với điều kiện là sẽ cho hàng xóm của anh ta gấp đôi những thứ như thế. Người ấy nghĩ một lát rồi nói: “Hỡi Thượng đế linh thiêng, xin người hãy móc một mắt tôi đi còn hơn!”
Hỡi những bạn đố kị thân mến, mắt bạn phải chăng vẫn bình an vô sự?
Nói về nhẹ nhõm trong lời chúc mừng
Đầu xuân năm mới, chúc anh nhẹ nhõm!
Cuộc sống không mấy khi được nhẹ nhõm. Phải đi học, phải làm việc, phải cạnh tranh. Cuộc sống thì có hạn, còn hiểu biết, việc làm, suy nghĩ, dục vọng thì vô hạn, bởi vậy phải chạy đua với thời gian, phải cố gắng, nghĩa là không dám lơi lỏng.
Ở đây, điều tôi muốn nói không phải là như thế. Phấn đấu như thế ắt có thành tích, cho nên như thế là có ý nghĩa. Đáng sợ là sự căng thẳng nhân vi trong mối quan hệ với người, giơ súng trước mặt, bắn tên sau lưng, moi móc đấu nhau, mìn gài dưới bẫy, thao lược kế mưu... Nên việc thì không đáng kể còn thất bại thì có thừa. Cả hai thất bại đều bi thương, đều đi tới chỗ cùng kiệt, ai cũng chẳng hòng được mát mặt.
Đáng sợ nhất là sự căng thẳng trong hành vi và sự cuồng vọng, căng thẳng vì mục tiêu cuồng vọng, căng thẳng vì đối thủ của cuồng vọng, căng thẳng vì ngôn ngữ cuồng vọng, dọa người mà cũng dọa cả mình, nóng giận đến mất khôn, vừa kinh vừa ngạc, phải chạy hút chết vì cái bóng của mình nó đuổi.
Sự căng thẳng nói trên đều là lao động vô hiệu, kết quả là số không, nếu không phải tệ hơn cả số không ấy.
Để cởi bỏ mối quan hệ và tâm tình căng thẳng nhiều năm ấy, tôi kiến nghị:
Một là, mọi người hãy làm tốt công việc của mình, nhìn chăm chú vào việc của mình chứ không nhìn chăm chú vào sai sót của người khác.
Hai là, nắm vững đầy đủ hiện tại chứ không gửi gắm hy vọng vào thắng lợi huy hoàng của ngày mai. Nếu bạn có sức khỏe tốt và nghề nghiệp chính đáng, có bạn tình hoặc bạn đời yêu quý lẫn nhau... thì bạn đã đủ hạnh phúc rồi. Bạn có quyền tranh thủ điều tốt hơn nữa, song bạn cần hưởng đầy đủ những gì bạn đã có và cảm ơn điều đó.
Ba là, khi chủ quan và khách quan không nhất trí với nhau thì nên vận dụng thái độ tự phê bình lành mạnh. Người ta không tốt trong nhiều trường hợp đều không phải là nguyên nhân hợp lý hoặc đầy đủ của việc mình không tốt. Chỉ có những kẻ nhu nhược không thuốc nào chữa nổi mới cần luôn luôn tìm kẻ thế tội và cớ để trút nỗi bực mình.
Bốn là, không có tiệc vui nào là không tàn. Việc tốt đến mấy cũng có lúc lỗi thời, việc xấu đến mấy cũng có lúc qua đi. Nhặt lên được mà bỏ xuống cũng được, nhớ kỹ được mà quên nhanh cũng được, có như thế mới là đại trượng phu. “Vỏ dưa hấu mà đem chùi đít thì chùi bao giờ cho sạch?” Bánh xe lăn qua lăn lại, lời nói trở ngược trở xuôi, xin lỗi nhé, bạn là kẻ mũi dãi dầm dề.
Năm là, nếu đố kị với thành công của người khác thì chẳng bằng mình tự làm nên thành tích; nếu vì hẹp hòi mà “om” nên bệnh mãn tính thì chẳng bằng cứ bắt tay vào làm để có chút thành tích.
Sáu là, làm một người bình thường thì nên có nhiều thú vui bình thường hơn nữa. Bộ óc dù lớn cũng không thể chỉ có niềm hưng phấn. “Chức nhỏ không quên niềm lo nước”, câu này rất đúng. Nhưng mọi người đều lo, vị tất đã “lo” tốt được cho nước. Không “lo” nữa mà ai làm tốt công việc của người ấy thì không chừng tình hình đất nước lại tốt hơn nhiều. Cho nên mới nói, quả đất không có bạn thì quả đất vẫn quay, câu này cũng đúng. Tự thổi phồng và coi thường người khác đều vô ích như nhau. Giữa người có dã tâm và kẻ phàm phu tục tử, tôi thà chọn làm loại người thứ hai.
Bảy là, kết hợp giữa làm việc và nghỉ ngơi, lúc nên chơi thì hãy chơi. Giữ cho tâm tình được lành mạnh, ung dung là tiền đề để lựa chọn được chính xác, là tiền đề tưởng tượng và sáng tạo, là tượng trưng cho tác phẩm lớn của nhà văn, là tiền đề cho quan hệ lành mạnh giữa người và người.
Tám là, có điều không làm. Việc không cần quản thì không quản, việc quản không nổi cũng không quản. Việc không nên làm thì không làm, việc có làm cũng không nổi thì không làm. Vấn đề không rút ra được kết luận thì dứt khoát bó lại treo lên. Việc không làm rõ được thì đành để lại chờ sau này. Kẻ vạn năng là kẻ đau khổ nhất. Linh đan chữa được vạn bệnh dễ bị bẽ mặt nhất. Bác sĩ chữa trăm bệnh dễ bị ốm trước tiên.
Chín là, đối với mọi thứ nên có thái độ quan chiếu thẩm mỹ ở trình độ nhất định. Thế giới đại thiên, cảnh sắc vô hạn, không gian và thời gian, Trung Quốc và ngoại quốc, thiện ác và đẹp xấu, thành bại và sắc cùn, ngọt đắng, hiểm nguy hay bằng phẳng, sang hèn hay thông tắc đều thu hết vào tầm mắt, nhớ được thì nhớ, nên quên thì quên. Nhiều lắm thay, không nhiều đâu! Vui lắm thay, niềm vui ấy không gì sánh nổi.
Một xã hội lành mạnh là xã hội mà con người cảm thấy nhẹ nhõm về nhiều phương diện, tuy căng thẳng về mặt làm nên thành tích nghiệp vụ nhưng thấy có ý nghĩa. Một xã hội không lành mạnh là xã hội mà con người căng thẳng về mọi mặt, đặc biệt căng thẳng về phương diện quan hệ với người và phương diện chính trị, còn về phương diện thành tích nghiệp vụ thì cảm thấy lỏng lẻo, thậm chí cảm thấy có cũng được mà không cũng chẳng sao. Một xã hội không lành mạnh là xã hội thường không chú ý đến nhẹ nhõm, cũng không sao nhẹ nhõm được, không chú ý đến vui chơi, không có thú chơi nào vui được, do đó mà ai nấy nhìn nhau như mắt diều hâu.
Xã hội chúng ta đang ngày một lành mạnh. Chúng ta hãy bắt đầu một năm mới bằng tư thái lành mạnh, ung dung, nhẹ nhõm. Trong lúc chúc mừng nhau nhân ngày Tết, chúng ta không chỉ nói “Chúc phát tài” mà còn nói “Chúc khỏe mạnh”, “Chúc vui vẻ”, “Chúc nhẹ nhõm”!
Năm bản mệnh
Tôi sinh năm Giáp Tuất 1934, năm nay lại là năm Giáp Tuất, tức là đã 60 rồi. Người xưa bảo tuổi đã hoa giáp, đến hoa giáp lần sau có nghĩa là tôi đã 120 tuổi. Nếu lúc ấy tôi và báo Tân dân vãn báo vẫn bình an thì tới đó, tôi sẽ viết cho tờ báo buổi chiều này thêm một bài nữa.
Vương Mông già rồi nhưng còn ăn cơm được, uống rượu được, ngâm vịnh được, khóc cười được. Vui để quên sầu, không biết cái già sắp tới (hay đã tới) rồi, đó là vài nét về hình tượng của tôi. Còn như phát phẫn đến quên ăn thì không có chuyện đó cho tôi. Một là tôi không phẫn. Cải cách mở cửa, ca múa thanh bình, viết được đi được, chẳng sợ nhộn nhạo thì làm gì có phẫn? Càng không có chuyện quên ăn. Dân lấy ăn làm trời thế mà đến ăn cũng chẳng có hứng thú thì thế giới quan của người ấy còn cứu được không?
Còn như năm bản mệnh gì gì đó, từ trước tới nay tôi đều trải qua mà không có cảm giác gì. Năm bản mệnh thứ nhất là năm 1946, tôi 12 tuổi, học năm thứ hai phổ thông cơ sở, chẳng có gì khác thường; tôi bắt đầu liên lạc với đồng chí đảng viên hoạt động bí mật, quyết chí theo cách mạng, rất tốt. Năm bản mệnh thứ hai là năm 1958, bị quy sai thành phái hữu song tôi không hề nghĩ đó là do mắc mớ với năm bản mệnh. Năm ấy người cầm tinh con chó cũng có nhiều người không bị quy sai thành phái hữu, hơn nữa vận quan còn hanh thông. Năm bản mệnh thứ ba là năm 1970, tôi đang ở Y Lê, may là đầu và đít đều nguyên vẹn, không bị chạm đến da thịt, không bị khám nhà, thật là cái may lớn trong cái không may. Người xưa nói: “Đại loạn tránh vào thành, tiểu loạn tránh về thôn”, thật là lời vàng ý ngọc. “Cách mạng Văn hóa” là đại loạn vậy (vì không chỉ loạn với những người cầm tinh con chó), tránh ở Bắc Kinh, sau đó về nông thôn ở Y Lê, thế chẳng phải trời giúp cho người lành đó sao? Năm 1982 là năm bản mệnh thứ tư. Năm ấy, họp Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 12 của Đảng, Vương Mông tôi được dự vào hàng ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, không phải là điều hung, chỉ xấu hổ mà thôi.
Vậy năm nay thì sao? Năm nay vẫn như những năm khác. Thoải mái viết lách, thoải mái làm việc, thoải mái bảo dưỡng. Già thì đành là già, chẳng cần phải không chịu phục là đã già mà miễn cưỡng làm cái việc mình làm chẳng xong. Già rồi thì mọi việc đều cần lượng sức. Chỉ có điều tự mình phải cảnh giác, không nên cứng nhắc, không nên hễ nhìn lớp trẻ là thấy chướng mắt, càng không nên ghen tị với thành tích của họ. Thế giới của chúng tôi cũng là của các bạn, nhưng nói cho cùng là của các bạn. Bản và mệnh đều là những từ hay. Bản là gốc, là rễ và cũng là phận của mình. Không nôn nóng, không tham lam, không si mê, không hờn oán, cần biết mình đã biết gì, càng cần biết mình không biết gì; cần biết mình làm được cái gì, càng cần biết mình không làm được cái gì, thế mới là để củng cố cái gốc, để biết mệnh của mình.
Mệnh là sinh mệnh, cũng là vận mệnh - quy luật. Sinh khí sôi nổi, biết trắng để lường đen, phóng mắt nhìn mọi vật, thưởng thức mọi sự đời, nước trong sóng gợn, trong mộng có bạn và tôi, thân và tâm gửi cùng trời đất, như thế mới là biết mệnh vậy. Có như thế mới dưỡng sinh được, mới vui sướng được; củng cố cái gốc hàng năm, biết mệnh của mình hàng năm, cần gì đến thắt lưng đỏ(1) nữa?
Quý trọng sinh mệnh
Ai cũng nói phim truyền hình Ghi chép vụ án lớn 9.18 rất hay. Tôi cũng thấy hay.
Trong phim có một tình tiết khiến tim tôi nhói một cái. Thủ phạm Lưu Nông Quân tức Lưu Tiến khi nghe tuyên án bị xử tử hình, chẳng những không hề sợ, hối hận hoặc van xin tha thứ, mà còn cười, thậm chí có thể nói cười nhạt với vẻ khinh miệt.
“Mặt không biến sắc, tim không loạn nhịp”, tôi lập tức nghĩ đến câu nói quen thuộc trong “Cách mạng Văn hóa”. Đương nhiên điều tôi vừa nói chỉ là hiện tượng rất bề ngoài. Tôi đâu có mụ mị đầu óc, tôi biết câu nói ấy là của chị Giang, liệt sĩ cách mạng vĩ đại nhất, còn kẻ tôi thấy trên màn hình bây giờ là tên tội phạm, cực kỳ hung ác đánh cắp cổ vật.
Có điều bạn không thể phủ nhận sự thực khách quan là cả tên tội phạm cũng có thể coi chết như không. Chẳng những chỉ một Lưu Tiến, mà nhớ lại mới thấy những năm gần đây, có rất nhiều bản tin trên truyền hình cho biết chúng ta đã trừng trị nghiêm khắc bọn tội phạm, bọn tham ô và công khai tuyên án chúng bị xử tử hình. Những kẻ mà tôi trông thấy hầu như đều “cứng cỏi” đến mức không thể hiểu nổi.
Điều đó quả thật đáng sợ quá!
Tôi nghĩ điều đó có liên quan đến việc chúng ta đối xử nhân đạo với bọn tội phạm, song càng đáng sợ hơn là chúng coi khinh cái chết. Chúng không sợ chết!
Có biết bao kẻ gây án mạng, phạm tội lớn tày trời chỉ vì một việc nhỏ nhất, rất không đáng phải như thế. Nhiều năm qua, từng có những vụ giết người chỉ vì muốn cướp chiếc mũ bộ đội, muốn cướp con chim bồ câu hoặc chỉ vì câu nói đùa, tranh nhau một cốc rượu để uống... Coi thường cái chết đã tới mức bất cận nhân tình(1). Nếu bọn tội phạm “tham sống sợ chết” một chút thôi thì có lẽ chúng đã chẳng phạm những tội lớn đến mức đó.
Gần đây tôi có đọc một tư liệu nói rằng những vụ chặt đứt tay chân tự làm mình tàn phế trong mấy năm nay càng ngày càng nhiều. Chẳng hạn có một thanh niên mời bạn đến nhà uống rượu; thấy họ uống nhiều quá, vợ chàng thanh niên bèn cầm chai rượu để trên bàn cất đi, thế là anh chồng cả giận, vung dao chặt đứt luôn ba ngón tay: ngón giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út trên bàn tay trái.
Anh ta đã “thắng” vì kết quả tự làm mình tàn tật đã khiến vợ phải quỳ trên đất xin tha thứ.
Đó là một luồng tà khí, tà khí của bọn lưu manh vong mệnh, bọn phun máu, bọn tàn bạo, làm loạn người, loạn mình và loạn nước, quả thật rất nguy hiểm. Thử nghĩ, nếu một người láng giềng nào của bạn đọc cũng hung tàn, coi khinh sự sống như thế, bạn còn có thể yên tâm ngủ ngon giấc suốt đêm hay không? “Dân không sợ chết, sao có thể lấy cái chết làm họ sợ được”, đó là một câu rất nổi tiếng, rất anh hùng chính diện. Nhưng đó là câu nói của người cách mạng đứng trước kẻ thống trị phản động. Nếu chí của bạn đặt vào công cuộc phát triển ổn định và cải cách mở cửa chứ không phải cái gì khác thì đương nhiên không thể chỉ một mực tuyên truyền cách không sợ chết đó.
Đối với dân chúng bình thường, sợ chết ham sống trong tình hình bình thường là lẽ đương nhiên. Còn đối với những người tố chất rất kém, rất có thể trở thành tội phạm thì làm cho họ sợ bằng cái chết là hoàn toàn cần thiết. Sợ chết, sợ tù là một nhân tố quan trọng để ràng buộc một số người, khiến họ sợ, không dám đem thân đùa với pháp luật. Giết người thì phải chết, phạm tội nặng thì phải chết, mục đích phán quyết ngoài việc trừng trị, răn đe kẻ tội phạm ra, đương nhiên còn để kẻ còn khả năng phạm tội tiềm ẩn cũng phải sợ. Đó gọi là giết gà dọa khỉ. Nếu gà giết đã nhiều mà khỉ một con vẫn chẳng sợ thì không xong rồi. Nếu tội phạm hình sự nào cũng coi chết như không thì bạn nói xem, làm thế nào đây?
Tôi liên tưởng tới một vấn đề đó là chúng ta nên kêu gọi quý trọng sinh mệnh. Sinh mệnh chỉ có một lần, không nên hủy hoại. Sống thì mới có hạnh phúc, có hy vọng, mới thưởng thức được phong cảnh nhân gian kỳ diệu trên thế giới. Sống là trạng thái thông thường và là nguyện vọng mãnh liệt của mọi sinh mệnh. Quý trọng sinh mệnh và thân thể của mình thì mới biết quý trọng sinh mệnh và thân thể của người khác.
Nếu hơi một tí là liều mạng vì một việc hoàn toàn không đáng chết vì nó thì bạn còn mong mỏi người ấy quý trọng cái gì, chịu trách nhiệm vì cái gì và bảo vệ cái gì nữa đây? Nếu ai ai cũng chẳng có tinh thần trách nhiệm, chẳng có lòng thương xót và quý trọng thì nguy hiểm biết bao cho quốc gia này, xã hội này.
Lâu nay chúng ta nghiêng về giáo dục dũng cảm hy sinh, cần thiết hy sinh. Khẩu hiệu chúng ta đưa ra là: vui lòng lấy máu nóng viết lịch sử; quăng đầu lâu, tưới máu nóng; coi chết như về cội; chém đầu chỉ coi như gió thổi bay mũ; chém đầu cũng chẳng sao v.v... Văn hóa truyền thống cũng hết sức kính phục phẩm chất hy sinh oanh liệt. Một số cách nói nổi tiếng là: sát thân thành nhân(1), xả sinh thủ nghĩa(2); nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh(3); nam nhi trọng nghĩa coi nhẹ tấm thân bảy thước v.v.... Dân gian cũng có thêm một số cách nói về coi thường sự sống như: sống thì làm, chết cũng cam; liều một cho đủ vốn, liều hai kiếm được một; hai chục năm sau vẫn là một trang hảo hán; đòi tiền không có, đòi mạng có ngay... Tập hợp tất cả những điều đó lại thì trở thành một dòng nước nóng bỏng không sợ chết, không sợ đem tính mạng ra đùa, sức nóng ấy hơn hẳn rượu nặng.
Ngược lại, cũng ở chúng ta, tham sống sợ chết, nhát gan nhu nhược là những tội danh đáng lấy làm sỉ nhục nhất. Chết đi dường như rất phải lẽ, rất vẻ vang, còn sống tiếp thì đuối lý, không ngẩng được cao đầu, thấp hơn người đến ba phần.
Nếu xảy ra chiến tranh, có thể tưởng tượng binh lính Trung Quốc sẽ hoặc đã chứng minh là vô cùng dũng cảm. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày mà hơi một tí là không sợ chết, như thế có cần thiết không? Chẳng hạn chúng ta có thể nên dùng tinh thần dám chết để phát triển kinh tế thị trường, cải thiện cách quản lý xí nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm và chất lượng cuộc sống hay không?
Trong khẩu hiệu chính nghĩa của chúng ta và của người xưa, hy sinh là có tiền đề, chết cũng có “nặng hơn non Thái” và “nhẹ hơn lông hồng”. Cổ nhân không coi dũng cảm của “sất phu” ra gì. Tiền đề của “chém đầu không sao cả” như chúng ta nói là “chỉ cần chủ nghĩa đúng”. Trong những khẩu hiệu chính nghĩa vĩ đại đó, đương nhiên không khẩu hiệu nào có ý muốn người ta chết một cách vô ích, càng không ý muốn người ta phạm tội và khinh thường hình phạt tử hình của Tòa án Nhân dân.
Có lúc chân lý chỉ hơi tiến trước một chút là có thể trở thành sai lầm. Nếu chúng ta chỉ tuyên truyền cái chết anh hùng và anh hùng của cái chết, tức chỉ nói về giá trị của cái chết mà không nói đến giá trị của sự sống, ý nghĩa của sự sống; nếu chỉ nói đến sự tất yếu và sự vĩ đại của hy sinh mà không nói hy sinh là một lệ đặc biệt, chỉ được thực hiện trong trường hợp vạn bất đắc dĩ, nhất là không nói đến đạo lý lớn là phải yêu quý sinh mệnh, tôn trọng sinh mệnh, không nói đến ý nghĩa và điều tốt đẹp của sinh mệnh và cuộc sống thì về khách quan, phải chăng sẽ hình thành một thói xấu là phiến diện một cách quá khích mà nếu tiến thêm thêm một bước ắt sẽ dẫn tới bất chấp sinh mệnh, đi ngược lại lý tính?
Cơ hội và tình thế anh dũng hy sinh không phải lúc nào cũng thấy, cũng gặp, vậy đó là trạng thái bất thường. Ngoài trạng thái đó mà khinh thường nói đến hy sinh, nói đến chết thì rốt cuộc mong ổn định, mong thiên hạ thái bình hay là muốn thiên hạ đại loạn đây? Nước ta có 1,2 tỉ dân, trong số 1,2 tỉ dân đó, tỉ lệ được định sẵn hoặc quả thực cần họ hy sinh anh dũng lớn đến mức nào? Làm cho rất nhiều “dân không sợ chết” như thế là làm theo đạo trị quốc bình thiên hạ hay là tự làm cho thế trận bên mình bị vỡ?
Cần phải kiên quyết nêu gương những liệt sĩ cách mạng. Mục đích nêu gương trước hết là mong mọi người quý trọng thành quả cách mạng, kể cả quý trọng quyền được sống và hy vọng về cuộc sống mà bạn có được trên cơ sở thắng lợi của chúng ta, quý trọng giá trị của người đang sống như bạn. Chúng ta còn nên noi theo tinh thần chí công vô tư của liệt sĩ cách mạng để làm tốt công việc của mình, sống tốt cuộc đời của mình và làm cho người khác cũng sống tốt đẹp hơn. Học tập liệt sĩ thì cũng quý trọng sinh mệnh, quý trọng cuộc sống, gắng sức ngăn chặn luồng tà khí trái khoáy bất chấp tính mạng để an ủi anh linh các liệt sĩ nơi chín suối. Nếu một người nào đó nhất thời chưa có tấm lòng như liệt sĩ thì mong người ấy hãy làm một công dân thật thà, tuân thủ phép công, bảo toàn bản thân, như thế tốt hơn nhiều kẻ vong mạng như Lưu Tiến.
---- HẾT ----
Truyen8.mobi chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!