Truyện Kể Tây Tạng Truyện 38-39


Truyện 38-39
Tượng phật biết nói - Con trâu một sừng.

Tượng phật biết nói

Xưa kia một chủ trại giàu SANG có một người con gái độc nhất. Đó là một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, tươi mát như đóa hoa nhài, với đôi mắt lấp lánh và mái tóc đen như cánh quạ, bện thành hai bím dài. Nàng vừa duyên dáng, vừa xinh đẹp, lại rất khéo tay. Khi ngồi xuống bên xa nàng quên hết mọi sự, chỉ quay và quay - thật vui mắt được ngắm nàng. Không ai biết kéo sợi mảnh đến thế, mảnh như một sợi tơ nhện và mềm như lụa. Tối đến khi nàng lại ngồi bên xa, các chàng trai trẻ trong làng đến gõ cửa xin vào. Họ ngồi vây quanh thiếu nữ quay xa, ngắm những ngón tay búp măng, mềm dẻo của nàng, và nghe giọng nói du dương hòa nhịp cùng tiếng vù vù của xa quay. Nhiều chàng trai đã ngỏ lời cầu hôn nhưng nàng chỉ mỉm cười từ chối.

ở trang trại của cha nàng có một chàng chăn cừu, một chàng trai khôi ngô tuấn tú, ngay thẳng và dẻo dai như một thân cây mây, sức khỏe bằng ba người cùng tầm vóc, lại được trời phú cho trái tim vàng nên mọi người ai nấy đều yêu mến. Nhưng chàng trai rất nghèo, nghèo đến mức chẳng bao giờ thấy gió giúi vào túi chàng một đồng xu nhỏ. Người thiếu nữ có trái tim nhân hậu và bao dung sinh lòng cảm thương anh mục tử nghèo. Và vì rằng từ lòng cảm thương đến tình yêu chỉ có một bước nên cái gì phải xảy ra sẽ xảy ra. Một cái nhìn vụng trộm, một chút sắc hồng ửng trên đôi má, một nụ cười anh mục tử gửi trao về cô thiếu nữ, bốn mắt ngời ngời yêu thương - và hai bạn trẻ của chúng ta yêu nhau từ lúc nào chẳng ai hay. Nhưng người cha xưa nay vẫn muốn tìm cho con gái mình một vị hôn phu giàu có, ông ta sẽ không đời nào gả nàng cho một gã mục tử nghèo kiết xác! Vì lẽ đó hai kẻ tình nhân yêu nhau mà phải giấu giếm như đôi chim lạc lối giữa sương mù.

Anh chăn cừu ngày đêm vắt óc suy nghĩ tìm cách thắng ông chủ trại giàu có và gây dựng hạnh phúc riêng của mình đồng thời của người anh yêu cũng là người yêu anh. Một hôm anh nảy ra ý xem chừng không tồi. Anh đặt bẫy chuột khắp nơi và chờ đợi. Không phải chờ lâu. Anh nghe có tiếng “cách” - và một con chuột kêu chít chít trong bẫy.

- Thả tôi ra, thả tôi ra! Tôi là hoàng tử chuột. Nếu anh thả tôi, cha tôi sẽ thưởng anh hậu hĩnh.

- Đồng ý, nhưng trước tiên hãy gọi cha anh đến đây. Tôi muốn nói chuyện với ông ấy.

Hoàng tử chuột rít lên, nghe có tiếng sột soạt, và vua chuột xuất hiện trước mặt anh chăn cừu.

- Xin hãy trả tự do cho con trai ta, ta sẽ làm những gì anh muốn.

- Tôi sẽ trả tự do với một điều kiện duy nhất: Trong ba ngày ông phải đào xong một đường hầm thông từ đây đến chùa.

- Chỉ là trò trẻ ranh, vua chuột khẳng định. Người ta nghe có tiếng cào đất và vua chuột biến mất. Ông lập tức triệu tập cả bầy của mình và những bầy bạn hữu, khắp nơi tiến hành cào bới, gặm, vồ, nhấm, chẳng mấy chốc mà cuối ngày thứ ba họ nhà chuột đã đào được một đường hầm nối liền nhà anh chăn cừu với chùa.

Hàng ngày vào lúc gà gáy, bà chủ trại có thói quen đi chùa lễ Phật. Bà ta quỳ mọp, rạp mình trán gần chạm đất, lầm rầm cầu khấn đức Phật phù hộ độ trì cho bà và gia đình.

Ngày hôm đó, bà ta đến chùa với một giỏ đầy đồ lễ. Bà ta bước vào, ngay từ ngưỡng cửa đã quỳ xuống rập trán sát đất ngước mắt dòm đức Phật xem ngài có nhìn bà như mọi bận, nụ cười thần tiên trên môi, bà ta rập đầu trước tượng Phật ba lần và lặp lại lời cầu khấn thường ngày:

- Nam mô a di đà phật, nam mô a di đà phật, xin Phật che trở cho con và gia đình con, phù hộ cho chúng con một ngày kia qua được cửa thiên đàng.

Một tiếng động lớn vang lên trong chùa. Tượng Phật chao đảo trên chân đế, một tiếng nói ồ ồ như từ đáy hang vọng lên phá tan im lặng:

- Các ngươi sẽ không qua được cửa thiên đàng nếu không gả cô con gái duy nhất cho anh chăn cừu đang làm trong nhà các ngươi!

Máu như đông cứng trong huyết quản bà chủ trại. Bà ta hết sức ngạc nhiên! Như bị thôi miên, bà ta nhìn khuôn mặt không dò thấu của tượng Phật với nụ cười bí ẩn, và bà ta lại nghe vẫn giọng nói nghiêm trang ấy:

- Các ngươi sẽ không qua được cửa thiên đàng nếu không gả cô con gái duy nhất cho anh chăn cừu đang làm trong nhà các ngươi!

“Vậy là không phải tai ta nghe nhầm”, bà chủ trại nghĩ thầm, “nhưng từ bao giờ tượng Phật biết nói?” Tuy nhiên vì rất kính sợ Phật, bà ta ù té chạy ra khỏi chùa, vội vã về nhà bằng con đường ngắn nhất. Ngoài sân, anh chăn cừu đã kịp trở về theo đường hầm đang bình thản quét tước.

Thở hồng hộc, bà chủ trại vào trong nhà lắp bắp:

- Mình ơi, ta phải gả con gái cho gã chăn cừu, nếu không chẳng bao giờ ta lên được thiên đàng!

- Bà hóa điên rồi sao? Chủ trại vặc lại. Gả con gái cho một đứa nghèo rớt mồng tơi như nó sao?

- Này ông, bà chủ trại sẵng giọng không để chồng bẻ lại, chính Phật đã dạy như vậy.

- Sao, Phật hả? Chủ trại không tin. Chuyện điên rồ này là gì vậy, mà Phật nói với bà từ bao giờ?

- Nếu ông không tin tôi thì ông cứ đến chùa mà tự tai nghe lấy. Thế rồi bà chủ trại bị xúc phạm bỏ mặc chồng đấy, đi ra.

Lão chủ trại nhún vai. Lão chẳng bao giờ đến chùa, cũng chẳng quan tâm đến Phật, nhưng lão nghĩ chẳng nên báng bổ thần phật nhà trời. Nhỡ ra chuyện là thật thì sao? Và bởi tất cả chuyện này khiến lão lo lắng, lão định bụng sáng hôm sau sẽ đến chùa để tự mình tìm hiểu xem sao.

Hôm sau, từ tinh mơ lão ta đã ra đi mang theo một giỏ đầy đồ ăn ngon lành. Vào trong chùa, lão nhìn tượng Phật, nhưng chẳng thấy có gì khác thường. Tượng Phật vẫn ở đó, như thường lệ, với nụ cười mơ hồ và cặp mắt khép hờ.

“Bà vợ mình hẳn đã nằm mơ”, chủ trại nghĩ bụng. Nhưng đúng lúc đó, một tiếng động lớn vang lên trong chùa, tượng Phật rung lên và trong yên lặng một giọng nghiêm trang âm vang:

- Các ngươi sẽ không qua được cửa thiên đàng nếu không gả cô con gái duy nhất cho anh chăn cừu đang làm trong nhà các ngươi!

- Nam mô a di đà phật, xin rủ lòng thương, tôi sẽ làm tất những gì ngài dạy, chủ trại rụng rời hứa, mồ hôi lạnh lấm tấm trên trán. Không cần nghe gì thêm, lão chuồn thẳng về nhà.

- Bà nó, lão gọi từ cửa, ta phải nhanh nhanh gả con gái cho gã chăn cừu. Bà nói đúng, đúng là Phật đã nói!

Cha mẹ cô gái làm đúng như lời Phật dạy. Đám cưới diễn ra ngay sau đó. Có rất nhiều khách được mời và lễ cưới kéo dài suốt ba ngày, ba đêm.

Sau đám cưới, cô vợ trẻ nói với chồng:

- Không có Đức Phật nhân từ trong chùa thì không bao giờ cha mẹ em chịu gả em cho anh. Chúng ta phải biết ơn ngài, không bao giờ được quên ơn. Rồi nàng kể với chồng câu chuyện ngôi chùa và tượng Phật biết nói, không quên nhấn mạnh rằng chồng phải dâng đồ lễ tạ ơn.

Anh chăn cừu không biết phải xử sự thế nào. Sau một hồi suy nghĩ, anh nói:

- Anh tin đó là Đức Phật hiện thân, và trong thâm tâm, anh vô cùng khoái trá với cái cách mà nhờ đó anh, một gã chăn cừu nghèo khổ, có thể lấy được con gái một chủ trại giàu có. Bởi thế anh đã không hề hé môi nói lộ một lời với ai!

 

Con trâu một sừng

Xưa kia có một chàng trai sống giữa những quả núi cao nứt nẻ, dẫn đến nơi ấy chỉ có một con đường mòn mảnh như một sợi chỉ. Anh chẳng còn ai thân thích trên đời nên sống thui thủi một mình trong một túp lều nhỏ lợp bằng tre và chẳng có gì ngoài đôi bàn tay cần cù cày bừa kiếm kế sinh nhai trên một mảnh ruộng bé tí, bạc màu.

Một hôm, sau mùa gặt, có một phiên chợ ngoài tỉnh, anh quảy hai lượm lúa và xuống thung lũng qua con đường mòn.

Sau khi đã bán lúa, anh lang thang quanh các quán hàng của các nhà buôn và bị thu hút bởi một cửa hàng nhỏ, xinh xắn bày bán bút nho, nghiên mực nhỏ, màu vẽ, chì than, mực tầu và giấy bản mịn.

Chàng trai trẻ rất muốn tự mình thử vẽ một cái gì đó. Nhưng trong tay chỉ có mấy đồng tiền. Không đủ để mua những món đắt tiền thế kia! Sau cùng anh nghĩ bụng mình có thể mua ít ra là một mẩu chì than. Do dự một hồi lâu rồi anh cũng mua chì than bằng tiền bán thóc. Rất nôn nóng anh vội vã quay về nhà với vật báu. Ngắt một tầu lá chuối lớn, anh ngồi trên một phiến đá và vẽ. Điều anh mơ ước bấy lâu nay đã thành sự thật.

Cảm thấy buồn vì lúc nào cũng thui thủi có một mình, anh vẽ một con trâu lông xám loăn xoăn với đôi mắt tinh khôn và một cái sừng trên trán.

- Ngươi, bạn của ta, chàng trai trẻ thì thầm, giá mà ngươi cũng ở đây với ta, giúp ta cày bừa, như thế sẽ vui hơn biết mấy! Có hai người! Anh ghim bức vẽ lên vách lều. Rồi anh đi ra và, đứng lặng người sửng sốt. Trước cửa túp lều sừng sững một con trâu lông xám loăn xoăn, với đôi mắt tinh khôn, và một cái sừng trên trán. Chàng trai giụi mắt, cấu tay xem mình mơ hay tỉnh, nhưng con trâu vẫn đứng đó, thân thiện nghểnh cái đầu về phía chàng trai. Không tin vào mắt mình chàng trai chạy vội vào phòng nhìn lại con trâu chàng vừa vẽ. Chiếc lá sạch trơn không một nét vẽ nào. Chàng trai hiểu rằng con trâu một sừng có bộ lông xám loăn xoăn đang đứng trước cửa chính là con trâu anh vừa vẽ.

Từ ngày đó chàng trai sống sung sướng với anh bạn trâu một sừng. Ban ngày họ cùng làm việc ngoài cánh đồng, đến đêm họ ngủ cùng nhau, người nọ tựa vào lưng kẻ kia.

Nhưng một hôm, lính nhà vua hành quân qua con đường mòn dẫn đến nhà chàng trai.

- Trông kìa, con trâu ngộ không, chỉ có một sừng! Một tên lính kêu lên. Thịt nó chắc ngon lắm. Đức vua của chúng ta hẳn sẽ vui lòng thưởng thức!

Chàng trai van xin nhưng vô ích. Bọn lính không lay chuyển. Chúng mang đi niềm vui duy nhất của chàng trai tội nghiệp, lúc này đang khóc sướt mướt.

- Trả bạn tôi đây, anh vừa kêu khóc vừa đuổi theo bọn lính đến tận cánh cổng sơn song thếp vàng của cung vua. Nhưng cánh cổng đã đóng sập trước mặt chàng, ngay sau khi bọn lính đi vào cùng với con mồi của chúng. Chàng trai tội nghiệp bị bỏ lại bên ngoài.

- Lính canh! Tôi xin các anh! Mở cửa cho tôi vào, trả bạn tôi đây! Anh van nài. Đó là người bạn duy nhất của tôi! Niềm vui duy nhất của tôi trên đời này, tôi không còn ai khác! Nhưng những lời van xin của anh chẳng ích gì.

Anh ngồi đó, trước cổng cung điện uy nghi, tay ôm đầu, khóc như mưa. Một lúc sau cánh cổng mở ra và lũ lính ném trả anh cái sừng cùng bộ xương trâu. Chúng giễu cợt.

- Đây, bạn ngươi đây. Hoàng đế có lời khen ngươi và truyền chỉ cho ngươi biết ngài đã được thưởng thức ngon lành.

Chàng trai nhặt nhạnh xương và sừng trâu bọc cả vào một mảnh vải, đem về nhà. Vừa đi anh vừa khóc nhưng không thể trả lại sự sống cho bạn mình. Về đến nhà, anh treo sừng trâu trên vách lều. Rồi anh đào một cái hố cạnh nhà, đặt xương xuống đấy, phủ đất lên.

Chẳng bao lâu nơi anh chôn xương trâu trổ lên một măng tre xanh. Măng tre lớn lên, lớn lên mãi và chẳng bao lâu đã thành một cây tre bánh tẻ cao lớn. Chàng trai ngày nào cũng ra xem cây tre đã lớn đến đâu, chàng vuốt ve những ngọn lá và lắng nghe tiếng rì rào êm êm của nó. Cây tre khỏe mạnh và lớn nhanh như thổi, đến một ngày nọ ngọn nó mất dạng trong mây trắng. “Chắc chắn đây không phải là một cây tre bình thường”, chàng trai nhủ thầm, “ta phải trèo lên thử xem nó vươn cao đến đâu.” Anh bắt đầu trèo lên thân tre dài, mảnh mai. Anh trèo lên cao, cao mãi. Đầu óc quay cuồng, nhưng anh vẫn trèo. Đến một đám mây trắng to lớn, bờm xờm, anh gạt mây dày đặc và trước mặt anh mở ra một cánh cửa lớn màu xanh. Không ngần ngại một giây, anh tự tin bước một bước qua cánh cửa, thẳng đến trời. Đẹp làm sao! Khắp nơi là hoa, và hương thơm nồng nàn! Trên nền trời xanh, trong những chiếc thuyền mây nhỏ, các nàng tiên bơi thuyền. Bỗng nhiên, một trong các nàng trông thấy chàng trai và kêu lên một tiếng, thế các nàng tiên trốn hết. Vòm trời biến đâu mất, lộ ra một đỉnh núi khuất trong mây trắng. Bỗng nhiên cây tre rung lên, run rẩy và bé lại, mỗi lúc một bé hơn, cuối cùng là biến mất hẳn, bỏ lại chàng trai trơ khắc trên mặt đất trần trụi. Sự thể diễn ra thật chóng váng khiến anh không biết là thật hay là mơ.

Nhưng anh vẫn nhớ như in trong tâm khảm gương mặt đẹp của các nàng tiên, đẹp đến nỗi anh sinh lòng mơ ước lấy được một nàng làm vợ. Nhưng bây giờ trời cao, cao quá! Ngày ngày chàng trai chỉ quanh quẩn với một ý nghĩ trong đầu: Làm sao tìm được cách trở lên trời.

Một đêm anh nằm mơ gặp lại người bạn cũ, con trâu một sừng. Nó cười với anh bằng đôi mắt tinh khôn và nói chuyện với anh bằng tiếng người:

- Tại sao anh cứ trăn trở mãi? Anh đã quên bức vẽ của anh rồi sao? Nếu anh muốn lấy một nàng tiên làm vợ thì hãy thử vẽ nàng! Bao giờ vẽ xong thì lấy cái sừng của tôi trên tường xuống thổi.

Tỉnh dậy, chàng trai chạy ra ngoài cắt một tàu lá chuối to. Đoạn anh quay vào nhà lấy một mẩu chì than và bắt đầu vẽ. Đến đêm ngày thứ mười, anh vẽ xong khuôn mặt tuyệt đẹp của nàng tiên trẻ, khuôn mặt khiến anh rung động. Nhớ lời con trâu một sừng, anh tháo cái sừng treo trên vách, áp môi thổi. Tức thì mọi vật rung lên, một làn hương thần tiên quấn lấy anh, ánh sáng hồng tràn ngập túp lều. Nàng tiên ra khỏi bức tranh, mỉm cười âu yếm với anh và bước xuống đất.

- Anh thân yêu, em sẽ là vợ anh. Anh sẽ làm việc ngoài cánh đồng còn em ở nhà nội trợ, và chúng mình sẽ mãi yêu nhau. Nói rồi nàng chìa cho chàng trai bàn tay xinh xắn của mình.

Từ đó, hạnh phúc tràn ngập căn lều tre bé nhỏ. Chàng trai cùng vợ sống trong niềm hạnh phúc trọn vẹn. Cho đến một ngày...

... Cho đến một ngày, bọn lính nhà vua lại hành quân qua núi.

- Nhìn cô gái đẹp chưa kìa! Một tên lính nhìn thấy nàng tiên liền kêu toáng lên. Hẳn cô ta sẽ làm đức vua của chúng ta đẹp ý! Vậy là bọn lính không thèm để tâm đến những lời than khóc của hai vợ chồng cứ dùng sức mạnh lôi nàng tiên đi.

Qua núi, qua đồi, qua vực thẳm, vượt dốc đứng, chàng trai chạy theo bọn lính đến cổng cung vua. Anh khóc lóc, lạy van, rằng anh không thể sống nổi nếu không có người vợ thân yêu. Nhưng mọi lời van xin của anh đều vô nghĩa. Anh nhận chỉ nhận được những lời chửi bới và đòn roi.

Tuyệt vọng, chàng trai tội nghiệp lủi thủi quay về nhà. Anh cứ ngồi lặng yên, nước mắt đầm đìa khuôn mặt. Chợt nét mặt anh giãn ra. “Ta đã có một ý!” anh tươi tỉnh lẩm bẩm. Nhanh chóng, anh vớ lấy mẩu chì than vẽ lên tàu lá chuối. Phút chốc trên tàu lá hiện ra một con hổ có cánh với hàm răng khủng khiếp, dáng điệu chực nhảy lên vồ mồi. Chàng trai lấy từ bức vách xuống cái sừng trâu, thổi rung chuyển núi rừng. Con hổ nhảy ra khỏi bức tranh. Chàng trai leo lên lưng hổ và cả hai phi về phía hoàng cung. Thấy con thú dữ xổng chuồng, bọn lính gác hoảng hốt chạy trốn, bỏ ngỏ cổng thành. Bằng hai cú nhảy, con hổ có cánh sừng sững trong phòng tiệc nơi bọn nịnh thần đang giải nàng tiên bị trói chặt, khóc lóc như mưa đến bên nhà vua. Con hổ gầm lên một tiếng khủng khiếp, há cái miệng khổng lồ nuốt chửng nhà vua cùng bọn tùy tòng.

Chàng trai chạy như bay về phía người vợ tiên yêu dấu, ôm ngang mình nàng, nâng bổng lên lưng hổ. Vài bước nhảy qua đầu bọn lính gác, vài bước nhảy băng qua những vực sâu, con hổ có cánh hạ xuống bên túp lều tre nhỏ bé, sau khi đã đặt cặp uyên ương xuống, con hổ giương cánh bay mất vào trong mây.

Sau bao cuộc phiêu lưu, cuối cùng chàng trai trẻ được sống yên bình, hạnh phúc với người vợ tiên. Nếu còn đến giờ, hẳn họ vẫn đang sống vui vầy trong cảnh núi non.

THE END

Truyen8.mobi chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/27363


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận