“Helen đưa hai ngón tay sờ lên trán cha mình, tựa như đang làm dấu thánh ban phước lành. Mẹ đang nén những tiếng nức nở. ‘Làm sao chúng ta có thể đưa ông ấy ra khỏi nơi này? Em muốn chôn cất ông ấy.’
“ ‘Không đủ thời gian đâu em,’ cha chua xót đáp lại. ‘Ông ấy muốn chúng ta sống sót thoát khỏi nơi đây hơn, anh chắc chắn thế.’
“Cha cởi áo khoác, nhẹ nhàng đắp lên người thầy Rossi, che mặt thầy lại. Chúng ta không thể đậy lại nắp quan tài vì quá nặng. Helen rút ra và cẩn thận kiểm tra khẩu súng nhỏ của mình dù vẫn đang rất xúc động. ‘Thư viện,’ mẹ thì thầm. ‘Chúng ta phải tìm ra cái thư viện đó ngay. Mà vừa xong anh có nghe thấy gì không?’
“Cha gật đầu. ‘Anh nghĩ là có, nhưng không thể xác định tiếng động đó xuất phát từ đâu.’ Chúng ta đứng yên, lắng tai nghe. Chỉ có sự yên lặng nặng nề bao trùm chung quanh. Helen một tay cầm súng, một tay lần mò dọc theo các vách tường. Ánh nến mờ đến phát bực. Chúng ta quanh đi quẩn lại, hết ấn rồi gõ lên khắp mọi nơi. Không có hốc tường nào, không có tảng đá nào nhô ra khác thường, không một kẻ hở khả dĩ nào, không có gì trông có vẻ đáng ngờ.
“Ngoài kia chắc đã sắp tối rồi,’ Helen thì thào.
“ ‘Anh biết,’ cha đáp lại. ‘Có lẽ chúng ta chỉ nên tìm kiếm mười phút nữa và sau đó nên rời nơi này, anh chắc là phải vậy.’ Chúng ta lại rà quanh căn phòng nhỏ đó một lần nữa, kiểm tra tất cả mọi ngóc ngách. Không gian lạnh ngắt, và đặc biệt là khi lúc này cha không mặc áo khoác, nhưng mồ hôi vẫn ròng ròng dọc lưng cha. ‘Có thể thư viện nằm dưới nền, hoặc trong một khu khác của nhà thờ.’
“ ‘Chắc hẳn nó đã bị che giấu hoàn toàn dưới mặt đất,’ Helen thì thào. ‘Nếu không, thì phải có ai đó biết đến nó từ lâu rồi chứ. Vả lại, nếu cha em ở trong hầm mộ này…’ Mẹ không nói trọn vẹn nhưng đó cũng là câu hỏi đã hành hạ cha ngay từ những giây phút choáng váng đầu tiên khi nhìn thấy Rossi ở đó: Nếu vậy thì Dracula ở đâu?
“ ‘Ở đây chẳng lẽ không có gì khác thường hay sao?’ Helen nhìn lên và cố vươn đầu ngón tay chạm vào trần nhà hình mái vòm thấp lè tè.
“ ‘Anh chẳng thấy gì cả.’ Bỗng dưng một ý tưởng bất chợt thoáng qua khiến cha chộp lấy một cây nến trên giá và cúi thấp xuống. Helen cũng lập tức cúi xuống theo.
“ ‘Đúng rồi,’ Helen thở phào. Cha sờ vào hình con rồng khắc ở mặt đứng bậc cầu thang dưới cùng. Cha đã miết ngón tay lên đó trong lần đầu xuống viếng thăm khu hầm mộ này; bây giờ thì đè mạnh hơn, dùng cả sức nặng cơ thể. Con rồng vẫn trơ trơ dính chặt vào vách. Nhưng đôi bàn tay nhạy cảm của Helen lần mò các phiến đá chung quanh, và bất ngờ phát hiện một phiến đá lỏng lẻo; từ vị trí nó được gắn vào, kế bên cái hình khắc con rồng, nó rời ra trong tay mẹ một cách dễ dàng, như một chiếc răng rụng. Ở đó giờ là một cái lỗ nhỏ tối đen. Cha thò tay vào, quơ tay, trống rỗng. Helen cũng thò tay vào, tuy nhiên lại mò mẫm về phía sau hình con rồng. ‘Anh Paul!’ mẹ khẽ thốt lên.
“Cha lần theo đến nắm tay mẹ trong bóng tối. Chắc chắn ở đấy là một tay nắm, một tay nắm lớn bằng sắt, lạnh buốt, và khi cha đẩy vào tay nắm đó, phiến đá có hình con rồng bật lên dễ dàng ra khỏi khoảng không gian phía dưới bậc cầu thang cuối cùng, không ảnh hưởng gì đến bất kỳ phiến đá nào chung quanh hoặc bậc cấp phía trên. Đến lúc đó chúng ta mới thấy đó là một công trình được che giấu tinh vi, có tay nắm sắt hình dạng một con thú có sừng được khoan gắn chặt vào phiến đá có hình con rồng, có lẽ để người ta có thể kéo đóng nó lại sau khi bước xuống các bậc cầu thang đá nhỏ hẹp ở phía trước. Helen lấy cây nến thứ hai, cha chụp vội hộp diêm quẹt. Chúng ta bò vào - cha chợt nhớ đến gương mặt bầm tím và trầy xước, bộ quần áo rách te tua của thầy Rossi và tự hỏi phải chăng thầy đã hơn một lần bị kéo lê qua cái lối đi này - nhưng chẳng bao lâu Helen và cha đã có thể đứng thẳng dậy trên các bậc cầu thang.
“Làn không khí ập lên người chúng ta cực kỳ lạnh và nặng nề âm khí, trong lúc bước xuống cha phải cố để không run lên cầm cập và siết chặt Helen, mẹ cũng đang run lẩy bẩy. Ở bậc cuối cùng của lối mười lăm bậc cấp đó là một lối đi, tối kinh khủng, dù ánh nến của chúng ta cho thấy có đế đèn gắn cao trên các bức tường, tuồng như nơi đây từng một thời rực rỡ ánh đèn. Ở cuối hành lang đó - lại là mười lăm bậc thang hướng về phía trước, cha thận trọng đếm từng bậc - tiếp theo là một cánh cửa gỗ nặng nề và rõ ràng rất cổ xưa, tận cùng phía dưới đã có chỗ vỡ vụn và một lần nữa lại là cái tay nắm kỳ dị kia, hình dạng một sinh vật có sừng dài, chế tác bằng sắt. Cha không nhìn thấy nhưng cảm nhận Helen đang nâng súng lên. Cánh cửa bị cài chắc, khi quan sát kỹ cha phát hiện nó được cài chốt một bên, phía chúng ta đang đứng. Cha ấn cả người xuống cái chốt cửa nặng nề và sau đó từ từ mở cánh cửa ra, cùng với nỗi sợ hãi cũng đang từ từ ngấm dần đến tận xương cốt.
“Phía bên trong, ánh nến của chúng ta, vốn đã yếu ớt, như tan biến trong căn phòng rộng lớn. Gần cửa có kê vài cái bàn, bàn kiểu cổ xưa vững chắc, và những kệ sách trống rỗng. Không khí trong phòng khô ráo một cách đáng ngạc nhiên so với cái lạnh buốt ngoài hành lang, tựa như nó có một hệ thống thông gió bí mật nào đó hoặc có đường ngầm bảo vệ ăn thông đâu đó. Chúng ta đứng sát vào nhau, dỏng tai lắng nghe, trong phòng vẫn tịnh không tiếng động. Cha ước gì có thể nhìn xuyên qua cái bóng tối dày đặc kia. Vật tiếp theo mà ánh nến chúng ta chiếu đến là một giá những cây nến đã thắp một nửa, cha thắp tất cả chúng lên. Bây giờ, ánh sáng đã chiếu đến những cái tủ cao lớn, cha thận trọng nhìn vào phía trong một tủ. Trống trơn. ‘Thư viện đây sao?’ cha thốt lên. ‘Chẳng có gì ở đây cả.’
“Chúng ta lại đứng yên, nghe ngóng, cây súng của Helen lấp loáng trong ánh sáng đang dần mạnh lên. Cha nghĩ lẽ ra mình nên đề nghị là người cầm súng, để sử d ng nếu cần thiết, nhưng cha chưa bao giờ đụng đến súng, còn mẹ, cha biết quá rõ, là một tay thiện xạ. ‘Xem kìa, anh Paul.’ Mẹ trỏ cánh tay không cầm súng, cha nhận ra cái thứ đã khiến mẹ nhìn đăm đăm.
“ ‘Helen,’ cha gọi, nhưng mẹ đã tiến lên phía trước. Một thoáng sau, ánh đèn của cha chiếu đến một cái bàn, một bàn đá lớn. Một lát sau cha nhìn lại, không phải là cái bàn mà là một bệ thờ - không, không phải bệ thờ mà là một cỗ quan tài bằng đá. Còn một cái khác ở kế bên - phải chăng đây là phần mở rộng của hầm mộ trong tu viện, nơi các cha tu viện trưởng có thể yên nghỉ, tránh được những ngọn đuốc của người Byzantine và máy bắn đá của người Thổ Nhĩ Kỳ? Rồi chúng ta cũng nhận ra, phía bên kia chúng, cỗ quan tài lớn nhất. Dọc theo cạnh hông là một chữ, khắc vào đá: DRACULA. Helen nâng súng lên, cha nắm chặt gậy. Helen bước tới một bước, cha bước sát theo mẹ.
“Ngay lúc đó, chúng ta nghe có tiếng chấn động phía sau, nghe khá xa, tiếng bước chân rầm rập, tiếng thân người bò trườn, tất cả làm át đi âm thanh yếu ớt trong bóng tối bên kia hầm mộ, tiếng chảy của đất khô. Chúng ta cùng lúc nhảy tới và nhìn vào - cỗ quan tài đá lớn nhất không có nắp và trống rỗng, hai cỗ quan tài kia cũng vậy. Và cái âm thanh kia: ở một nơi nào đó trong bóng tối, chắc hẳn một sinh vật nhỏ bé nào đó đang theo các rễ cây lủi lên trên.
“Helen bắn vào trong khoảng tối, tiếp theo là tiếng đất đá lở xuống; cha cầm nến lao về phía trước. Tận cùng thư viện là một ngõ cụt, một vài cụm rễ cây rủ xuống từ trần nhà hình mái vòm. Trong một hốc bức tường phía sau, có thể đó là nơi người ta từng đặt một pho tượng thánh nào đó, cha nhìn thấy một vũng nhầy màu đen trên nền đá trần trụi - máu chăng? Hoặc nước ẩm rịn ra từ lòng đất?
“Cánh cửa phía sau bật mở tung, chúng ta quay ngoắt lại, tay cha vẫn nắm chặt cánh tay không cầm súng của mẹ. Hiện ra trong ánh sáng ngọn nến của chúng ta là một ngọn đèn lồng sáng quắc, ánh đèn pin, những hình dáng vội vã, một tiếng thét. Đó là Ranov, cùng với gã là một nhân vật cao to mà hình bóng của hắn chảy dài che khuất chúng ta trong bóng tối: Géza József, ngay sau gót Géza là khuôn mặt thất thần vì khiếp sợ của Sư huynh Ivan. Tiếp theo Ivan là một tay quan chức nhỏ con có mái tóc quăn, đội mũ và mặc bộ vest màu sậm, hàng râu mép đen rậm. Còn một người nữa, mà chắc hẳn dáng đi khập khiễng và chậm chạp của ông ta đã cản trở bước chân của đám người này rất nhiều, giờ cha đã nhận ra: Stoichev. Gương mặt ông là một pha trộn kỳ lạ giữa sợ hãi, hối tiếc, hiếu kỳ, và một vết bầm tím trên má. Đôi mắt già nua mệt mỏi của ông bắt gặp đôi mắt chúng ta, một khoảnh khắc u sầu tưởng chừng như dài lê thê, và rồi Stoichev mấp máy đôi môi, tựa như đang thầm cảm ơn Thượng đế vì tìm được chúng ta còn sống.
“Trong chưa tới một giây Géza và Ranov đã ở ngay bên chúng ta. Ranov chĩa mũi súng vào cha còn Géza thì nhắm vào mẹ, trong khi Ivan đứng há hốc miệng, Stoichev thì chờ đợi, yên lặng và lo lắng phía sau Ranov và Géza. Tay quan chức mặc bộ vest màu sậm đứng chìm trong vũng tối. ‘Bỏ súng xuống,’ Ranov gằn giọng với Helen, mẹ ngoan ngoãn thả cây súng xuống nền. Cha quàng tay ôm lấy mẹ, cố giữ vẻ bình tĩnh. Trong ánh nến ảm đạm, gương mặt bọn họ trông càng hung hiểm hơn, chỉ trừ Stoichev, cha có cảm tưởng nếu không quá khiếp đảm hẳn ông ấy đã mỉm miệng cười với chúng ta.
“ ‘Anh đang làm cái quái gì ở đây vậy?’ Helen quát lên với Géza, cha không kịp cản mẹ lại.
“ ‘Thế em đang làm cái quái gì ở đây vậy cưng?’ Câu trả lời của hắn chỉ có vậy. Trông hắn như cao lớn hơn bao giờ hết trong bộ quần áo màu nhạt và đôi giày ống nhà binh nặng nề. Ở hội nghị, cha đã không kịp nhận ra là mình thực sự ghét cay ghét đắng con người này.
“ ‘Hắn ở đâu?’ Ranov gầm lên, lia mắt nhìn từ cha sang Helen.
“ ‘Ông ấy chết rồi,’ cha trả lời. ‘Các người đã đi qua khu hầm mộ. Hẳn các người cũng đã thấy ông ấy.’
“Ranov cau mày. ‘Anh đang nói đến ai vậy?’
“Một điều gì đó, một bản năng nào đó mà nhờ Helen cha mới có được, có lẽ là vậy, đã ngăn không cho cha nói thêm gì khác.
“ ‘Anh muốn nói đến ai?’ Helen hỏi, giọng lạnh tanh.
“Géza chĩa mũi súng chính xác hơn vào Helen. ‘Cô biết quá rõ tôi muốn nói gì đấy, Elena Rossi ạ. Dracula ở đâu?’
“Gì chứ câu này thì dễ trả lời hơn, cha để Helen lên tiếng trước. ‘Sờ sờ ra đấy, hắn đâu có ở đây.’ Mẹ trả lời bằng giọng châm chọc nhất. ‘Các người có thể đến mà xem tận mắt.’ Ngay lúc đó, tay quan chức nhỏ thó bước tới một bước, có vẻ như muốn nói gì đó.
“ ‘Anh ở lại với bọn chúng,’ Ranov nói với Géza rồi thận trọng len lỏi giữa những cái bàn, tiến về phía trước, không quên liếc nhìn mọi thứ chung quanh; cha nhận thấy rõ ràng hắn chưa bao giờ đến đây. Tên quan chức mặc bộ đồ đen bước theo Ranov, không nói một lời. Khi cả hai đến bên cỗ quan tài đá, Ranov đưa cao cây đèn lồng, nâng súng lên, cẩn thận nhìn vào bên trong. ‘Chẳng có gì cả,’ hắn nói với ra sau với Géza rồi quay sang hai cỗ quan tài nhỏ hơn. ‘Cái gì thế này? Đến đây nào, giúp tôi một tay.’ Tay quan chức và thầy tu Ivan ngoan ngoãn bước tới. Stoichev theo sau, chậm chạp hơn, cha nghĩ mình đã nhận ra một ánh mắt lóe lên trên mặt Stoichev khi ông ta đưa mắt nhìn chung quanh, nhìn vào những tủ, bàn trống trơn. Cha có thể đoán ông ấy nghĩ gì về nơi chốn này.
“Ranov thò đầu vào cỗ quan tài. ‘Trống trơn,’ hắn thốt lên nặng nề. ‘Hắn không có ở đây. Lục soát căn phòng đi.’ Géza sải bước giữa những cái bàn, rọi đèn vào từng vách tường, từng chiếc tủ đang mở toang hoác. ‘Anh có nhìn hoặc nghe thấy tiếng hắn không?’
“ ‘Không,’ cha trả lời, ít nhiều thành thật. Cha thầm nhủ, chỉ cần người ta đừng động đến Helen, đừng bắt giữ mẹ thì chuyến đi này kể như là một sự thành công. Cha sẽ không đòi hỏi cuộc đời này bất kỳ điều gì khác. Cha cũng thoáng nghĩ, với chút lòng biết ơn thầy Rossi, người đã thực sự mở ra toàn bộ tình huống này.
“Géza nói gì đó, chắc hẳn là một lời chửi rủa trong tiếng Hungary, bởi Helen gần như mỉm cười dù mũi súng vẫn đang chĩa ngay tim mình. ‘Đúng là hoài công vô ích,’ một lúc sau đó, hắn thốt lên. ‘Cái hòm trong khu hầm mộ trống rỗng, cái này cũng vậy. Bởi chúng ta đã phát hiện ra, hắn sẽ không bao giờ trở lại nơi này nữa.’ Phải mất một lúc cha mới hiểu được câu nói đó. Cái hòm bên khu hầm mộ trống rỗng ư? Vậy thi hài của thầy Rossi mà chúng ta để lại trên đó biến đi đâu?
“Ranov quay sang Stoichev. ‘Hãy cho chúng tôi biết thứ này là gì.’ Cuối cùng thì bọn họ cũng hạ súng xuống, cha kéo mẹ sát vào mình, thấy vậy, Géza liền ném vào cha một ánh mắt cáu kỉnh, dù không nói gì.
“Stoichev giương cao chiếc đèn lồng của mình, tựa như chờ đợi giây phút này đã lâu. Ông bước đến và gõ gõ lên cái bàn gần nhất. ‘Tôi nghĩ, đây là gỗ sồi,’ Stoichev thong thả nói, ‘còn kiểu dáng thì có thể là thời Trung cổ.’ Ông nhìn xuống một chỗ khớp nối dưới chân bàn, gõ gõ vào một cái tủ. ‘Nhưng tôi không biết gì nhiều về mấy thứ đồ mộc này.’ Chúng ta chỉ biết yên lặng và chờ đợi.
“Géza đá vào chân một trong những cái bàn cổ đó. ‘Tôi sẽ phải nói với ngài Bộ trưởng Văn hóa cái gì đây? Là Wallachia thuộc về chúng tôi ư? Hắn là tù nhân của Hungary và vì vậy xứ sở hắn là lãnh thổ thuộc về chúng tôi chứ.’
“ ‘Tại sao chúng ta lại cãi vã về chuyện đó khi chưa tìm thấy hắn nhỉ?’ Ranov gầm lên. Cha chợt nhận ra ngôn ngữ chung của hắn và Géza là tiếng Anh, và cả hai đều thù ghét nhau. Ngay lúc đó, cha nhận ra Ranov gợi cha nhớ đến ai. Với bộ mặt nặng trình trịch và hàm râu mép đen kịt, hắn trông giống những tấm hình Stalin lúc còn trẻ. Những người như Ranov và Géza gây ra những tác hại cỏn con chỉ bởi vì quyền lực bọn chúng còn nhỏ nhoi quá mà thôi.
“ ‘Nói với bà bác của cô là phải cẩn thận hơn với những cuộc điện thoại đấy.’ Géza ném cho Helen một cái nhìn hiểm ác, cha cảm thấy như mẹ dựa sát vào cha hơn. ‘Nào, giờ thì để thằng cha thầy tu khốn kiếp này ở lại đây canh chừng chỗ này,’ hắn nói tiếp với Ranov, và Ranov lại tuôn ra một mệnh lệnh làm cho Sư huynh Ivan khốn khổ run lẩy bẩy. Ngay lúc đó, ánh sáng từ ngọn đèn lồng trong tay Ranov bỗng chiếu qua một hướng khác. Hắn đang vung vẩy ngọn đèn, xem xét mấy cái bàn. Lúc này, ánh sáng ngọn đèn đó chiếu xiên xiên lên mặt tay quan chức nhỏ thó mặc đồ đen và đội mũ sùm sụp kia, hắn đang đứng yên lặng bên cạnh cỗ quan tài đá trống rỗng của Dracula. Có lẽ cha sẽ chẳng để ý gì đến gương mặt hắn nếu nó không biểu lộ vẻ kỳ quái kia - một ánh mắt thương tiếc thầm kín chợt lóe lên dưới ánh sáng ngọn đèn lồng. Cha có thể thấy rõ ràng gương mặt gầy giơ xương, hàng râu mép kỳ quặc, và vẻ cay đắng quen thuộc trong đôi mắt. ‘Helen!’ cha thét lên. ‘Nhìn kìa!’ Mẹ cũng nhìn trừng trừng.
“ ‘Cái gì?’ Géza quay ngoắt qua Helen.
“ ‘Gã kia...’ Giọng Helen kinh hoàng. ‘Người đàn ông kia... hắn là...’
“ ‘Hắn là một con ma cà rồng,’ cha tiếp lời, thẳng thừng. ‘Hắn theo dõi chúng tôi từ trường đại học tại ở Mỹ.’ Tên đầu sai kia phóng người chạy trốn khi cha vừa mới bắt đầu lên tiếng. Hắn phóng thẳng về hướng chúng ta để thoát ra ngoài, Géza cố chụp khi gã buộc phải lao ngay vào chỗ hắn đứng, rồi hắn vụt qua trước Ranov. Ranov nhanh chân hơn; hắn chụp được gã thủ thư, cả hai va mạnh vào nhau, Ranov kêu lên một tiếng rồi ngã vật về phía sau, gã thủ thư cắm đầu chạy tiếp. Ranov quay người, nã súng vào cái hình bóng đang chạy trốn, lúc đó đã ở khá xa. Bóng người đó không hề vấp ngã hay loạng choạng - như thể Ranov đã bắn gió. Rồi gã thủ thư như bỗng dưng biến mất, đột ngột đến độ cha không chắc hoặc gã đã ra đến hành lang hay tan biến ngay trước mắt chúng ta. Ranov phóng theo, qua khỏi lối cửa, nhưng hầu như trở lại ngay tức khắc. Tất cả chúng ta nhìn Ranov chăm chăm, mặt gã trắng bệch, bụm tay lên chỗ chiếc áo khoác bị rách, ở đó máu đang chảy nhỏ giọt giữa các ngón tay. Mãi một lúc sau, Ranov mới thốt lên, ‘Chuyện quái quỷ này là thế nào?’ bằng giọng run run.
“Géza lắc đầu. ‘Lạy Chúa,’ hắn thốt lên. ‘Hắn cắn anh rồi.’ Hắn lùi cách xa Ranov thêm một bước. ‘Vậy mà tôi đã nhiều lần ở một mình với thằng cha nhỏ con đó. Hắn nói hắn có thể giúp tôi tìm ra bọn Mỹ, nhưng hắn chưa bao giờ nói hắn là ai...’
“ ‘Lẽ dĩ nhiên là hắn chẳng bao giờ tỉ tê với anh đâu,’ Helen nói bằng cái giọng khinh khỉnh, mặc dù cha đã cố ngăn không cho mẹ lên tiếng. ‘Gã muốn tìm ông chủ của gã, muốn theo dõi chúng tôi để tìm đến ông chủ kia, chứ đâu có muốn giết anh. Anh có ích cho gã kia mà. Gã đã dâng nộp cho anh những ghi chép của chúng tôi rồi chứ?’
“ ‘Câm miệng.’ Géza có vẻ như sẵn sàng tặng cho Helen một trận, nhưng cha nhận ra trong giọng nói của hắn nỗi kinh sợ và khiếp đảm, cha yên lặng kéo mẹ lùi ra xa.
“ ‘Đi nào.’ Ranov lại dùng khẩu súng xua xua chúng ta, tay kia vẫn đặt trên vết thương ở vai. ‘Các người chẳng còn giúp ích được gì nữa. Tôi muốn các người trở về Sofia ngay, càng sớm càng tốt, bằng máy bay. Các người may mắn đấy, chúng tôi không được phép xóa sổ hai người - quá phiền phức.’ Cha nghĩ chắc hẳn gã sắp đá chúng ta như Géza đã đá vào cái chân bàn, nhưng thay vì vậy, gã quay người thô bạo lùa chúng ta ra khỏi thư viện. Gã để Stoichev đi trước; cha đau xót thầm nghĩ tới những gì ông lão hẳn đã phải trải qua trong quá trình bị bắt buộc tham gia cuộc săn đuổi này. Rõ ràng, Stoichev không muốn chúng ta bị theo dõi; cha tin như vậy ngay từ lúc đầu, lúc thoáng thấy nét khổ đau trên mặt ông. Liệu ông đã về đến Sofia chưa, trước khi bị buộc phải quay trở lại và theo dõi chúng ta? Cha hy vọng danh tiếng của Stoichev trên thế giới sẽ giúp ông không bị đối xử tồi tệ hơn, như đã xảy ra trong quá khứ. Nhưng Ranov, dù đã bị nhiễm thì chắc vẫn sẽ quay trở lại với nhiệm vụ cảnh sát mật của gã. Cha băn khoăn tự hỏi liệu Géza có cố làm gì về việc này không, nhưng cha không dám hỏi vì khuôn mặt gã Hungary trông quá gớm guốc.
“Từ lối cửa, cha ngoái nhìn một lần nữa cỗ quan tài đá của Dracula, nó đã nằm ở đó gần năm trăm năm. Hiện giờ, kẻ đã từng nằm bên trong nó giờ đang ở đâu đó, hoặc đang trên đường đến bất cứ đâu. Tại bậc cầu thang trên cùng, lần lượt từng người chúng ta lại trườn người qua lỗ hổng đó - cha thầm khấn cầu đừng có khẩu súng nào trong các khẩu súng đó phải vang lên - và rồi cha nhận ra ở đó một cái gì đó rất kỳ lạ. Hòm đựng di hài của Thánh Petko để mở trên bệ. Chắc hẳn bọn họ có một vài dụng cụ nào đó để mở trong khi chúng ta không mở được. Nắp hòm cẩm thạch bên dưới đã được đặt lại chỗ cũ và phủ lại bằng tấm vải thêu của nó, chẳng có gì xáo trộn. Helen ném cho cha một ánh mắt trống rỗng. Liếc nhìn vào hòm khi đi ngang qua, cha chỉ nhìn thấy một vài mẩu xương, một hộp sọ bóng láng - tất cả những gì còn lại của một vị thánh tử vì đạo của địa phương này.
“Bên ngoài nhà thờ, trong bóng đêm đậm đặc hiện ra lố nhố vừa người vừa xe - có vẻ như Géza đã đến đây với một đoàn tùy tùng, hai trong số bọn chúng đang canh gác các cửa nhà thờ. Cha nghĩ, chắc chắn Dracula không thoát ra bằng lối đó. Đồi núi sừng sững vây quanh, đen hơn cả bầu trời tối mịt. Một số dân làng nghe phong thanh về người lạ và đã kéo đến, trong tay là những ngọn đuốc, họ dạt lui khi Ranov đến, nhìn chăm chăm chiếc áo khoác rách và đẫm máu của gã, mặt căng ra dưới ánh lửa lập lòe. Stoichev khoác tay, ghé sát mặt vào tai cha. ‘Chúng ta đã tiếp cận gần nó rồi,’ ông thì thào.
“ ‘Cái gì?’ Cha cúi xuống để lắng nghe ông ấy rõ hơn.
“ ‘Ông thầy tu và tôi xuống khu vực hầm mộ trước tiên, trong khi các gã kia - mấy tên côn đồ đó lùng sục trên nhà thờ và khu rừng để tìm anh. Chúng tôi nhìn thấy người đàn ông đó trong mộ - không phải Dracula - nên tôi biết anh đã ở đấy. Vì vậy chúng tôi đã đậy nắp hòm lại và khi bọn chúng xuống, chúng chỉ mở cái hòm thánh tích. Chúng giận dữ đến độ tôi tưởng chúng đã quẳng nắm xương tàn của vị thánh khốn khổ kia ra ngoài.’ Sư huynh Ivan trông có vẻ khá vững vàng, nhưng cái vẻ yếu đuối của giáo sư Stoichev này mới thực sự tiềm ẩn một sức mạnh hiếm có, cha nghĩ. Stoichev nhìn cha, ánh mắt sắc sảo. ‘Nhưng ai ở trong hầm mộ bên dưới đó, nếu nó không phải là...?’
“ ‘Đó là giáo sư Rossi,’ cha thì thầm. Ranov đã mở cửa xe, ra lệnh cho chúng ta vào.
“Stoichev khẽ liếc nhìn cha, một cái nhìn đầy ý nghĩa. ‘Tôi rất tiếc.’ ”
“Chúng ta đã để lại người bạn thân yêu nhất của mình ở lại Bungari như vậy, cầu mong ông được mãi mãi yên nghỉ ở nơi chốn đó.”
Hết chương 74. Mời các bạn đón đọc chương 75!