Truy tìm Dracula Chương 79-80

Chương 79-80
Bao giờ cũng vậy, thưa ngài. Ngôi nhà của Chúa này cũng là nh của ngài

Khách sạn ở Les Bains rất tự hào về căn phòng khách có trần cao vút, được trang bị lò sưởi của mình, và tay quản lý khách sạn đã cho đốt lửa lò sưởi và nhất quyết đóng cửa phòng khách không cho những vị khách khác vào. “Chuyến đi đến tu viện đã làm các bạn mệt mỏi,” ông ta chỉ nói vậy khi đặt chai rượu cô nhắc gần bên cha, kèm ly - năm chiếc, tôi chú ý, tựa như người bạn vắng mặt của chúng tôi vẫn hiện diện ở đấy để cùng uống vậy - nhưng tôi nhận ra từ ánh mắt mà cha trao đổi với ông ấy rằng họ trao đổi nhiều hơn thế.

Suốt buổi chiều viên quản lý khách sạn đã gọi điện liên tục và bằng cách nào đó đã dàn xếp ổn thỏa với cảnh sát, bọn họ chỉ thẩm vấn chúng tôi tại khách sạn rồi để chúng tôi tự do ngay trước ánh mắt hiền từ của ông ấy. Tôi nghĩ ông ấy cũng đã lo liệu việc gọi một nhà xác hoặc một nhà đòn, bất kỳ nơi nào người ta hay gọi đến ở một làng quê Pháp. Bây giờ, khi mọi viên chức đều đã ra về, tôi ngồi với Helen trên chiếc trường kỹ thô kệch bọc lụa Đa-mát, cứ vài phút là mẹ lại đưa tay vuốt tóc tôi, còn tôi chỉ cố không hình dung ra hình hài cứng ngắc và gương mặt nhân từ của thầy James đang nằm im lìm dưới tấm vải phủ. Cha ngồi trên một ghế bành gần bên lò sưởi và đăm đăm nhìn mẹ, nhìn chúng tôi. Barley gác đôi chân dài ngoẵng lên chiếc ghế dài bọc đệm và đang cố gắng, tôi nghĩ, đừng nhìn chăm chăm vào chai rượu cô nhắc cho đến khi cha như chợt tỉnh lại và rót cho chúng tôi mỗi người một ly. Đôi mắt Barley đỏ lên vì khóc thầm, nhưng có vẻ anh muốn được yên tĩnh một mình. Khi ngắm nhìn anh, bất giác mắt tôi cũng ứa đầy nước mắt.

Cha nhìn sang Barley, và trong một thoáng tôi đã nghĩ chắc hẳn cha cũng sắp khóc. “Ông ấy rất can đảm,” cha nói, giọng từ tốn. “Anh nên biết chính sự tấn công của ông ấy đã tạo cơ hội cho Helen có thể bắn được như vậy. Cô ấy không thể bắn chính xác vào tim hắn nếu như tên quái vật đó không bị làm cho mất tập trung. Tôi nghĩ thầy James, trong những khoảnh khắc sau cùng kia cũng nhận ra sự khác biệt do mình tạo ra. Và ông ấy đã trả được thù cho người ông thương yêu nhất - cũng như cho nhiều người khác.” Barley gật đầu nhưng vẫn chưa thể nói gì, một khoảng lặng ngắn ngủi giữa chúng tôi.

“Em đã hứa sẽ nói hết mọi chuyện khi chúng ta có thể ngồi yên ổn với nhau,” cuối cùng Helen cũng đặt ly rượu của mình xuống và lên tiếng.

“Cô chú chắc là không muốn cháu để gia đình cô chú ở lại với nhau chứ?” Barley hỏi, vẻ miễn cưỡng.

Helen bật cười, tôi ngạc nhiên vì âm điệu tiếng cười của mẹ, khác hẳn với giọng nói của bà. Ngay trong gian phòng này, nơi gần như đong đầy khổ đau, tiếng cười ấy dường như vẫn không hề lạc điệu. “Hẳn rồi, cháu yêu ạ,” mẹ nói với Barley. “Chúng ta không thể nói chuyện mà không có cháu.” Tôi thích giọng nói tiếng Anh của mẹ, nghe hơi lơ lớ nhưng ngọt ngào, một giọng nói tôi nghĩ mình đã quen thuộc từ lâu đến nỗi không nhớ nổi từ lúc nào. Mẹ cao ráo, thanh mảnh, trong chiếc đầm màu đen lỗi mốt, một vòng tóc đã ngả bạc vấn gọn quanh đầu. Gương mặt bà thật ấn tượng - mệt mỏi, hằn vết năm tháng, chỉ còn đôi mắt vẫn trẻ trung. Lần nào quay lại thấy mẹ tôi cũng xúc động vô bờ - không chỉ vì mẹ đang ở đó, bằng xương bằng thịt, mà còn vì tôi chỉ luôn mường tượng hình ảnh một Helen tươi trẻ. Trong tưởng tượng của mình, tôi chưa bao giờ tính đến những năm tháng mẹ xa cách chúng tôi.

“Kể lại sẽ lâu, rất lâu đấy,” mẹ nhẹ nhàng nói, “nhưng bây giờ, ít nhất tôi có thể nói một vài điều. Trước tiên, anh Paul, em muốn nói lời xin lỗi, vì em đã gây ra nỗi đau khổ nhường vậy cho anh, em biết.” Qua ánh lửa, ánh mắt mẹ nhìn cha tha thiết. Barley cựa quậy, vẻ lúng túng, nhưng mẹ đã trấn an anh bằng một cử chỉ cương quyết. “Em cũng gây ra cho chính mình một nỗi khổ đau không kém. Thứ hai, em nên nói với anh từ lâu rồi, nhưng bây giờ, có con gái của chúng ta” - nụ cười của mẹ ngọt ngào cùng những giọt nước mắt long lanh trong mắt - “con gái chúng ta và những người bạn của chúng ta làm chứng, em mới nói: Em vẫn còn sống, không phải là ma cà rồng. Hắn chưa bao giờ chạm được vào em lần thứ ba.”

Tôi muốn nhìn cha, nhưng thậm chí không thể xoay nổi cái đầu. Đó là khoảnh khắc riêng tư của cha. Dù vậy, tôi vẫn nghe tiếng cha khẽ nức nở.

Mẹ dừng lại, có vẻ như để lấy hơi. “Anh Paul, khi chúng ta thăm tu viện Thánh Matthieu và em biết được về tục lệ của họ - chuyện cha tu viện trưởng sống dậy sau khi chết và Sư huynh Kiril phải canh chừng ông ta - em đã tràn đầy tuyệt vọng, nhưng cũng nổi cơn hiếu kỳ kinh khủng. Em cảm thấy việc mình muốn đến thăm nơi này, khát khao được tới đó, không chỉ là sự trùng hợp. Trước khi chúng ta đi Pháp, em đã nghiên cứu thêm ở New York - mà không cho anh biết, anh Paul ạ - với hy vọng tìm thấy địa điểm bí mật thứ hai của Dracula và trả thù cho cái chết của cha em. Nhưng em đã không tìm thấy bất cứ chi tiết nào về tu viện Thánh Matthieu. Nỗi khao khát muốn đến đó của em chỉ bắt đầu sau khi đọc về nó trong cuốn cẩm nang hướng dẫn của anh. Chỉ là sự khao khát, không dựa trên cơ sở khoa học nào.”

Mẹ nhìn quanh chúng tôi một lượt, gương mặt xinh đẹp nhìn nghiêng trông ủ rũ. “Em lại tiếp tục nghiên cứu ở New York vì cảm thấy mình là nguyên nhân gây nên cái chết của cha em - chỉ vì cái ước vọng muốn vượt trội hơn ông ấy, muốn lật tẩy sự phản bội của ông ấy với mẹ em - và em đã không thể chịu đựng nổi ý nghĩ đó. Rồi sau đó em bắt đầu cảm thấy đó là do dòng máu ác độc của em - dòng dõi Dracula - đã khiến em hành động như vậy, và em nhận ra rằng mình đã truyền dòng máu đó cho con mình, ngay cả khi có vẻ như em đã hồi phục sau khi bị ma cà rồng cắn.”

Mẹ dừng lại vuốt lên má tôi, ấp tay tôi trong tay mẹ. Tôi run lên khi mẹ chạm vào mình, run lên bởi sự gần gũi với người phụ nữ kỳ lạ nhưng thân thiết đang tựa vai vào tôi trên chiếc trường kỷ này. “Càng lúc em càng cảm thấy mình không xứng đáng, và đến khi nghe lời giải thích của Sư huynh Kiril về truyền thuyết tại tu viện Thánh Matthieu, em cảm th y mình không thể bình yên cho đến khi biết được nhiều hơn nữa. Em tin là nếu tìm được Dracula và hủy diệt được hắn, em có thể lành mạnh hoàn toàn, trở thành một người mẹ tốt, một con người với một cuộc sống mới.

“Anh Paul, sau khi anh ngủ say, em đã ra ngoài khu hành lang. Em nghĩ đến việc trở xuống khu hầm mộ kia với khẩu súng của mình, cố mở cỗ quan tài đó ra, nhưng em nghĩ mình không thể làm việc đó một mình. Trong khi phân vân không biết có nên đánh thức anh dậy xin anh giúp một tay hay không, em ngồi trên chiếc ghế băng dài nhìn qua vách đá. Em biết mình không nên ở đó một mình, nhưng em cứ bị lôi kéo đến chỗ đó. Ánh trăng rất đẹp và sương mù đã trườn lên dọc theo vách núi.”

Đôi mắt Helen bỗng mở to một cách kỳ lạ. “Khi ngồi đó, em cảm thấy gai ốc nổi trên lưng mình, tựa như có một cái gì đó đứng ngay sau lưng. Em quay phắt lại, và bên kia dãy hành lang, nơi ánh trăng không chiếu đến, em dường như thấy một bóng người đen kịt. Mặt hắn chìm trong bóng tối, nhưng em có thể cảm thấy, hơn là nhìn thấy, ánh mắt dữ dội như đang chụp lên người em. Đó chỉ là việc xảy ra chỉ một khoảnh khắc trước khi hắn xòe cánh ra và bay đến bên em, mà em thì hoàn toàn đơn độc bên cái lan can đó. Đột nhiên, dường như em nghe có giọng nói, những lời thống khổ trong chính đầu óc em bảo rằng em không bao giờ có thể đánh bại được Dracula, rằng đây là thế giới của hắn, không phải của em. Chúng bảo em rằng hãy nhảy xuống trong khi vẫn còn được là chính mình, vậy là em đứng dậy như một người đang mơ và nhảy xuống.”

Lúc này mẹ đã ngồi rất thẳng, nhìn vào ngọn lửa, cha đưa tay che mặt. “Em muốn để mình rơi tự do xuống, như Lucifer, như một thiên thần, nhưng em không ngờ đến những tảng đá kia. Em đã rơi vào chúng, đầu và tay chân bị trầy xước, nhưng ở đó cũng có một thảm cỏ nên cú rơi đã không làm em mất mạng hoặc gãy mất cái xương nào. Một vài giờ sau, em nghĩ vậy, em đã tỉnh dậy giữa trời đêm lạnh giá, và cảm thấy máu đang rỉ ra khắp mặt khắp cổ, thấy trên đầu mình mảnh trăng đang lặng lờ đứng yên còn bên dưới là vách đá dựng đứng. Lạy Chúa, nếu em mà lăn xuống thay vì ngất đi thì...” Mẹ bỏ dở câu nói. “Em biết em không thể giải thích với anh những gì em cố thực hiện, và nỗi xấu hổ vì việc mình làm đã choán lấy em gần như một cơn điên. Sau sự việc đó, em cảm thấy mình không bao giờ có thể xứng đáng với anh, với con gái chúng ta. Khi có thể gượng dậy, em đứng lên và nhận thấy mình đã không chảy máu quá nhiều. Dù vậy, em thấy rất đau nhức, em không bị gãy vỡ bất kỳ bộ phận nào và có thể thấy hắn đã không nhào xuống vồ lấy em - chắc hẳn khi em nhảy xuống hắn đã từ bỏ em vì mất dấu. Em thấy mình yếu kinh khủng và đi lại rất khó khăn, nhưng trong bóng tối em đã lần mò quanh những bức tường tu viện rồi xuống được con đường.”

Tôi nghĩ có thể cha sẽ lại rơi nước mắt, nhưng cha vẫn trầm lặng, ánh mắt chưa bao giờ rời khỏi đôi mắt mẹ.

“Em đã trở về với thế giới. Đó không phải là một việc khó khăn. Em đã mang theo cái xách tay của mình - một thói quen, em nghĩ vậy, chỉ bởi vì trong đó có khẩu súng và những viên đạn bạc. Em nhớ mình đã suýt bật cười khi nhận ra chiếc xách tay vẫn còn trên tay, trên vách đá cheo leo đó. Em cũng cất tiền trong đó, rất nhiều tiền trong lớp vải lót, và em đã sử dụng số tiền đó rất thận trọng. Mẹ em bao giờ cũng mang theo bên mình tất cả tiền bạc của bà. Em nghĩ đó là thói quen của những người nông dân trong làng bà ở. Bà chẳng bao giờ tin tưởng ngân hàng. Mãi sau này, khi cần nhiều hơn, em mới rút một số từ tài khoản của chúng ta và chuyển sang một ngân hàng Thụy Sĩ. Sau đó, em đã rời Thụy Sĩ ngay để phòng anh sẽ cố lần ra dấu vết của em, anh Paul, hãy tha thứ cho em.” Mẹ bất chợt khóc òa, siết chặt các ngón tay tôi, và tôi biết mẹ có ý muốn nói đến sự trốn chạy của mình chứ không phải là số tiền kia.

Cha đan hai bàn tay vào nhau. “Lần rút tiền đó đã khiến anh hy vọng vài tháng, hay ít nhất cũng đặt một dấu hỏi trong đầu, nhưng ngân hàng đã không thể lần ra dấu vết. Anh đã được nhận lại đúng số tiền ấy.” Nhưng vẫn không thể tìm ra em, cha đã không nói dù hẳn cha có thể nói thêm như vậy. Mặt cha bừng lên, vừa mệt mỏi vừa hạnh phúc.

Mẹ nhắm mắt. “Dù thế nào chăng nữa, em đã tìm được một chỗ để trú ngụ vài ngày, cách xa Les Bains, cho đến khi những vết thương lành lại. Em đã giấu mình cho đến lúc có thể trở lại với thế giới.”

Những ngón tay mẹ vô tình đưa lên cổ và tôi nhận ra vết sẹo nhỏ màu trắng mình đã nhiều lần để ý. “Từ trong thâm tâm em biết Dracula vẫn chưa quên em, và có thể hắn lại đang lùng sục. Em bỏ tỏi đầy túi và cố giữ vững tinh thần. Em mang kè kè theo người súng, dao găm, thánh giá. Đi đâu em cũng dừng chân ở nhà thờ để xin được ban phước lành, mặc dù đôi khi bước vào cửa nhà thờ thôi cũng đã khiến vết thương cũ ở cổ em giần giật. Bao giờ em cũng thận trọng che kín cổ lại. Sau cùng, em đã cắt ngắn và nhuộm tóc, thay đổi trang phục, đeo kính râm. Một thời gian dài, em đã trú tại những nơi cách xa thành phố, và dần dần bắt đầu đến những trung tâm lưu trữ tư liệu, em vẫn luôn muốn nghiên cứu ở những nơi đó.

“Em rất tỉ mỉ. Em đã phát hiện hắn ở khắp nơi mình đến - ở Rome vào thập niên 1620, ở Florence dưới thời Medici_(1), ở Madrid, ở Paris suốt thời kỳ Cách mạng. Đôi khi là bản báo cáo về một bệnh dịch quái lạ, thỉnh thoảng là một cuộc bùng phát hiện tượng ma cà rồng hút máu trong một nghĩa trang lớn - như tại nghĩa trang Cha Lachaise chẳng hạn. Có vẻ như bao giờ hắn cũng ưa chuộng các học giả chuyên về tôn giáo, các chuyên viên lưu trữ văn thư, quản thủ thư viện, các nhà sử học - bất kỳ ai nghiên cứu, đụng chạm đến quá khứ qua sách vở. Em đã cố suy luận địa điểm hầm mộ mới của hắn từ những hoạt động của hắn, nơi hắn đã giấu mình sau khi chúng ta khui mở hầm mộ của hắn ở Sveti Georgi, nhưng em đã không phát hiện được bất kỳ quy luật nào. Em nghĩ khi đã tiêu diệt được hắn, em sẽ quay về mà nói với anh là thế giới đã trở nên an toàn biết bao. Em sẽ giành lại anh. Em đã sống trong nỗi sợ hãi là hắn sẽ tìm thấy em trước khi em có thể phát hiện ra hắn. Và đi đến bất kỳ nơi đâu em cũng nhớ đến anh - ôi, em đã cô đơn biết bao.”

Mẹ lại cầm lấy và vuốt ve tay tôi như một người xem bói, và tôi chợt cảm thấy, dù không muốn, trào dâng một cơn giận dỗi - về tất cả những tháng năm thiếu vắng mẹ. “Cuối cùng, em nghĩ cho dù em không xứng đáng, em vẫn muốn được trông thấy anh một chốc lát. Cả anh và con. Paul ạ, em đã đọc trên báo về quỹ tài trợ của anh và biết anh ở Amsterdam. Cũng chẳng khó khăn gì để tìm thấy anh, hoặc ngồi trong một quán cà phê gần văn phòng anh, hoặc dõi theo anh trong một hai chuyến đi - rất cẩn thận - rất, rất thận trọng. Em không bao giờ để mình phải mặt đối mặt hoặc với anh hoặc với con, vì sợ anh và con sẽ nhận ra em. Em chỉ đến rồi đi. Nếu việc nghiên cứu êm trôi, em lại cho phép mình về thăm Amsterdam và từ đó dõi theo anh. Rồi một ngày kia - ở Ý, tại Monteperduto - em nhìn thấy hắn trên quảng trường. Hắn cũng đang theo dõi, dòm chừng anh. Đó là lúc em nhận ra hắn đã đủ mạnh để thỉnh thoảng xuất hiện giữa ánh sáng ban ngày. Em biết anh đang gặp nguy hiểm, nhưng em nghĩ nếu em đến gặp và cảnh báo với anh, có thể em sẽ mang mối nguy hiểm kia đến gần hơn. Xét cho cùng, có thể hắn đang lùng sục em chứ không phải anh, hoặc có thể hắn đang cố gắng lần ra em qua anh. Thực là một sự khổ tâm. Em biết chắc hẳn anh lại đang tiến hành nghiên cứu một cái gì đó - chắc hẳn anh lại đang quan tâm đến hắn, Paul ạ - để lôi kéo sự chú ý của hắn. Em không biết phải quyết định thế nào.”

“Đó là do con - lỗi của con,” tôi thì thầm, siết chặt bàn tay bình dị và hằn vết nhăn của mẹ. “Con tìm thấy cuốn sách đó.”

Mẹ nhìn xuống tôi giây lát, đầu nghiêng sang bên. “Con là nhà sử học,” một lát sau mẹ thốt lên. Đó không phải là một câu hỏi. Rồi mẹ thở dài. “Trong vài năm, mẹ viết bưu thiếp cho con, con gái ạ - mà không gửi, tất nhiên là vậy. Một ngày nọ, mẹ bỗng nghĩ mẹ có thể liên lạc với cha và con từ xa, để con và cha biết mẹ còn sống mà không để bất kỳ ai khác nhìn thấy mẹ. Mẹ đã gửi các tấm bưu thiếp về Amsterdam, đến nhà của cha và con, trong một bưu kiện đề tên cha.”

Lần này tôi quay sang cha với vẻ ngạc nhiên pha lẫn giận dỗi. Cha nói với tôi, giọng buồn rầu. “Cha cảm thấy chưa thể đưa chúng cho con, không thể làm con xáo động mà lại không thể tìm ra mẹ cho con. Con có thể hình dung đối với cha thời kỳ ấy tồi tệ thế nào.” Tôi chợt nhớ lại vẻ mệt mỏi khủng khiếp của cha ở Athens, buổi tối mà tôi nhìn thấy cha vật vờ gần như đã chết trong phòng làm việc. Nhưng giờ cha đang cười với chúng tôi, tôi nhận ra giờ đây có lẽ cha sẽ mỉm cười hàng này.

“Ra vậy,” mẹ cũng mỉm cười. Tôi nhìn thấy có những nếp nhăn hằn sâu quanh miệng mẹ, những vết chân chim đầy ở khóe mắt.

“Và anh bắt đầu tìm kiếm em - cả hắn nữa.” Nụ cười của cha bỗng trở nên nghiêm trang.

Mẹ nhìn cha đăm đăm. “Và rồi em nhận ra là em phải dừng việc nghiên cứu lại để chỉ chuyên tâm theo dõi hắn trong khi hắn đang theo dõi anh. Em đã thấy anh vài lần, đã thấy anh lại lao vào nghiên cứu - đã thấy anh vào rồi ra các thư viện, em ước gì có thể nói hết với anh những gì chính em đã biết. Rồi sau đó anh đến Oxford. Trong quá trình nghiên cứu của mình em chưa từng đến Oxford, dù đã đọc và biết là ở đấy đã có một đợt bùng phát nạn ma cà rồng hút máu vào thời Trung cổ. Và ở Oxford anh đã để mở một cuốn sách...”

“Cha đã gấp sách lại khi nhìn thấy con kia mà,” tôi ngắt lời mẹ.

“Và cháu nữa,” Barley lên tiếng với nụ cười tươi rói. Đến lúc đó anh mới chịu góp lời, tôi cảm thấy nhẹ người khi trông anh vẫn còn có thể vui vẻ.

“Chà, lần đầu tiên xem cuốn sách kia, cha đã quên gấp nó lại.” Mẹ gần như nháy mắt với chúng tôi.

“Em nói đúng,” cha tiếp lời. “Ừ, nghĩ lại thì đúng là anh đã quên thật.”

Mẹ quay sang cha cùng với nụ cười thật dễ thương. “Anh có biết trước đó em chưa bao giờ nhìn thấy cuốn sách đó không? Cuốn Ma cà rồng thời Trung cổ phải không?”

“Một tác phẩm kinh điển,” cha trả lời. “Nhưng lại là một cuốn sách rất hiếm.”

“Cháu nghĩ thầy James hẳn cũng đã xem cuốn đó,” Barley chậm rãi xen vào. “Cô chú biết đấy, cháu thấy thầy ấy ở đó sau khi bất ngờ nhìn thấy chú đang đọc cuốn sách.” Cha có vẻ như vẫn chưa hiểu. “Vâng,” Barley tiếp tục. “Cháu đã bỏ quên áo mưa ở sảnh chính thư viện và khoảng gần một tiếng sau mới trở lại lấy. Và cháu đã nhìn thấy thầy James bước ra khỏi hốc tường trên ban công đó, nhưng thầy ấy không nhìn thấy cháu. Cháu nghĩ thầy trông có vẻ cực kỳ lo lắng, giống như đang phải chịu một nỗi thống khổ và quẫn trí nào đó. Cháu nhớ đến điều đó và đã quyết định gọi cho thầy ấy.”

“Anh gọi cho thầy James?” Tôi ngạc nhiên, nhưng ngay lập tức cảm thấy tức giận. “Lúc nào? Tại sao anh làm vậy?”

“Anh đã gọi cho thầy ấy tại Paris bởi chợt nhớ lại một chuyện,” Barley trả lời gọn bâng, duỗi thẳng cặp giò. Tôi chợt muốn nhào qua ôm choàng quanh cổ anh, nhưng đó là lúc không có cha mẹ kia. Barley cũng nhìn tôi. “Trên tàu hỏa, anh đã nói với em là anh đang cố nhớ lại một chuyện, một chuyện liên quan đến thầy James, và khi đến Paris thì anh nhớ ra. Có lần, anh đã nhìn thấy trên bàn làm việc của thầy James một lá thư, trong lúc ông ấy loại bỏ bớt một số giấy tờ - thực ra là một bì thư, anh thích con tem trên bì thư đó nên đã nhìn kỹ hơn một chút.

“Lá thư gửi từ Thổ Nhĩ Kỳ, trông rất cũ kỹ - chi tiết đó khiến anh nhìn đến con tem - chậc, dấu bưu điện cả hai mươi năm trước, người gửi là một ông giáo sư Bora nào đó, và anh thầm nghĩ một ngày nào đó mình cũng sẽ có một cái bàn làm việc bự như vậy và nhận thư từ khắp nơi trên thế giới. Cái tên Bora cứ ám ảnh anh, thậm chí đến bây giờ - nó nghe có vẻ kỳ cục làm sao ấy. Dĩ nhiên, anh đâu có mở và đọc lá thư đó,” Barley vội nói thêm. “Anh chẳng bao giờ làm vậy.”

“Dĩ nhiên là không rồi.” Cha hừ mũi, nhưng tôi nghĩ mắt cha ang ngời lên vẻ trìu mến.

“Vâng. Khi xuống tàu ở Paris, anh đã nhìn thấy một ông lão trên sân ga, một người Hồi giáo, anh đoán vậy, đội một chiếc mũ màu đỏ sậm có một quả núm tua dài, mặc áo thụng dài, giống như một ông tổng trấn Ottoman, và anh chợt nhớ đến lá thư đó. Rồi anh lại chợt nhớ đến câu chuyện của cha em - em biết đấy, cái tên của ông giáo sư Thổ Nhĩ Kỳ” - anh nhìn tôi với ánh mắt ảm đạm - “và đã đến buồng điện thoại. Anh nhận ra là theo một cách nào đó, thầy James vẫn còn đang theo đuổi cuộc săn lùng này.”

“Thế lúc đó em ở đâu?” tôi hỏi, không giấu nổi sự ganh tị.

“Trong phòng tắm, chắc thế. Các cô gái bao giờ chẳng ở trong phòng tắm.” Có thể lúc đó anh cũng muốn gửi cho tôi một nụ hôn gió, nhưng phải không có mặt người khác kia. “Qua điện thoại, thầy James có vẻ rất sôi nổi với anh, nhưng lúc anh kể những chuyện đang xảy ra thì thầy ấy bảo thầy sẽ nhớ ơn anh mãi mãi.” Đôi môi đỏ thắm của Barley khẽ run run. “Anh đã không dám hỏi thầy có ý muốn nói gì, nhưng giờ thì anh đã biết vì sao.”

“Phải, chúng ta đã biết,” cha buồn rầu lặp lại. “Chắc hẳn ông ấy cũng tính toán từ cuốn sách cổ kia, và luận ra được đã mười sáu năm kể từ tuần lễ Dracula thăm viếng tu viện Thánh Matthieu lần sau cùng. Sau đó, chắc hẳn ông ấy nhận ra ta đang đi đâu. Thực ra có thể khi lên cái hốc tường chứa sách quý hiếm đó, ông ấy chỉ có ý xem ta có ổn không - ở Oxford đã nhiều lần ông ấy theo bên ta, yêu cầu ta cho ông biết ta có gặp rắc rối gì không, tỏ ra lo lắng cho sức khỏe và tinh thần của ta. Ta không muốn lôi kéo ông ấy vào chuyện này, vì đã biết nguy hiểm như thế nào.”

Mẹ gật đầu. “Phải đấy. Em nghĩ chắc hẳn em đã có mặt ở đó ngay trước khi ông ấy đến. Em tìm thấy cuốn sách để mở và tự tính toán lấy, rồi nghe thấy có ai đó trên cầu thang nên đã lẻn ra theo hướng khác. Paul ạ, như người bạn của chúng ta, em hiểu ra rằng anh sẽ đến tu viện Thánh Matthieu để cố tìm em và con quỷ kia, nên đã lập tức đi theo càng nhanh càng tốt. Nhưng em không biết anh đi chuyến tàu nào, và đương nhiên em cũng không ngờ rằng con gái của chúng ta cũng cố đi theo anh.”

“Con đã nhìn thấy mẹ,” tôi sững sờ thốt lên. Mẹ nhìn tôi chằm chằm, và chúng tôi để mặc giây phút đó trôi qua trong im lặng. Sẽ có nhiều thời gian hơn để trò chuyện. Tôi có thể nhận thấy mẹ đã mệt, tất cả chúng tôi đều đã mệt nhừ tận xương cốt, thậm chí trong buổi tối này chúng tôi còn chưa thể nói được với nhau chiến thắng này có ý nghĩa ra sao. Liệu thế giới đã bình yên hơn bởi chúng tôi đã đoàn tụ bên nhau, hay bởi vì cuối cùng hắn đã biến khỏi trái đất này? Tôi nhìn vào một tương lai mà trước đây mình chưa bao giờ biết tới. Mẹ Helen sẽ sống với chúng tôi, sẽ là người thổi tắt nến trong phòng ăn. Mẹ sẽ đến dự lễ tốt nghiệp trung học và ngày đầu tiên học đại học của tôi, sẽ giúp tôi mặc áo cưới trong ngày hôn lễ, nếu tôi lấy chồng. Sau bữa cơm tối, mẹ sẽ đọc truyện cho chúng tôi nghe trong căn phòng tiền sảnh, sẽ hòa nhập lại với thế giới và sẽ đi dạy học lại, mẹ sẽ dẫn tôi mua sắm giày và quần áo, sẽ quàng lấy hông tôi và cùng bước đi.

Khi ấy tôi đã không thể nào biết được rồi đây đôi lúc mẹ sẽ phiêu du khỏi chúng tôi, không nói gì hàng tiếng đồng hồ, mân mê ngón tay lên cổ, và một cơn bạo bệnh sẽ mang mẹ ra đi mãi mãi chín năm sau đó - quá sớm, khi chúng tôi còn chưa kịp quen với sự trở lại của mẹ, dù có thể chúng tôi sẽ chẳng bao giờ quen thuộc sự trở lại ấy, chẳng bao giờ thấy chán sự có mặt muộn màng của mẹ. Tôi đã không thể thấy trước rằng món quà cuối cùng dành cho chúng tôi là biết chắc được mẹ đã an nghỉ, trong khi chuyện có thể xảy ra theo hướng khác, và rằng sự chắc chắn ấy sẽ khiến tâm can chúng tôi vừa tan nát vừa nguôi ngoai. Nếu như tôi đoán trước được chút nào trong tất cả những điều này, có thể tôi đã biết rằng cha sẽ biến mất nguyên cả ngày hôm sau tang lễ của mẹ, cùng với lưỡi dao găm nhỏ vẫn để trong chiếc tủ ở phòng khách, và rằng tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ hỏi cha về việc đó.

Nhưng bên cạnh cái lò sưởi ở thị trấn Les Bains kia, những năm tháng mà chúng tôi sẽ sống với mẹ vẫn đang trải dài phía trước trong niềm hạnh phúc vô tận. Những năm tháng đó chỉ bắt đầu vài phút sau đó khi cha đứng dậy hôn từ giã tôi, nồng nhiệt bắt tay Barley tuy chỉ là cái bắt tay ngắn ngủi, và đỡ mẹ đứng lên khỏi trường kỷ. “Đi nào,” cha nói, mẹ dựa vào cha, câu chuyện của mẹ giờ đã qua, gương mặt mẹ vừa mệt mỏi vừa tươi vui. Cha nắm lấy tay mẹ. “Đi ngủ thôi.”

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương kết

Một vài năm trước đây, một cơ hội kỳ lạ đã tự bày ra trước mắt tôi lúc tôi đang ở Philadelphia tham dự một hội nghị quốc tế quy tụ các nhà sử học chuyên về thời Trung cổ. Trước đó, tôi chưa bao giờ đến Philadelphia nên đã rất ngạc nhiên về sự tương phản giữa những cuộc họp của chúng tôi - chỉ chuyên nghiên cứu đào sâu vào tận cái quá khứ phong kiến và đầy những tu viện - và cái đô thị sinh động xung quanh chúng tôi, với một lịch sử mới toanh về chủ nghĩa cộng hòa Khai sáng và Cách mạng. Quang cảnh nhìn xuống từ tầng mười bốn của khách sạn nơi tôi lưu lại cho thấy một hình ảnh pha tạp kỳ dị giữa những tòa nhà chọc trời và những khối nhà thế kỷ mười bảy và mười tám trông như ngôi nhà thu nhỏ bên cạnh những ngôi nhà chọc trời kia.

Suốt một vài giờ rảnh rỗi, tôi chuồn khỏi cuộc thảo luận lê thê về những món đồ tạo tác thời Byzantine để đi xem những hiện vật có thật trong viện bảo tàng nghệ thuật tráng lệ của thành phố. Ở đó, tôi đã cầm lên một tập sách mỏng quảng cáo về một viện bảo tàng văn học nhỏ và cũng là một thư viện ở dưới phố, tôi đã nghe cha nhắc đến tên nơi đó, còn bộ sưu tập của nó thì tôi có lý do để biết. Đó là một địa điểm cũng quan trọng như nhiều trung tâm lưu trữ tư liệu khác ở Âu châu đối với các học giả chuyên nghiên cứu về Dracula - dĩ nhiên số lượng các học giả này đã tăng lên đáng kể từ những cuộc điều tra đầu tiên của cha tôi. Ở đó, tôi nhớ lại, một nhà nhiên cứu có thể xem đọc những ghi chép của Bram Stoker về Dacula, được chọn lọc từ Thư viện Bảo tàng Anh quốc, cũng như một tập sách mỏng quan trọng từ thời Trung cổ. Cơ hội này thật hấp dẫn khôn cưỡng. Cha luôn mong muốn được xem bộ sưu tập này; tôi sẽ bỏ ra một tiếng đồng hồ vì ước muốn đó của cha. Cha đã mất ở Sarajevo vì một quả mìn chôn dưới đất trong khi làm nhiệm vụ trung gian hòa giải một cuộc xung đột tồi tệ nhất trong nhiều thập niên qua ở châu Âu. Gần một tuần sau tôi vẫn không hay biết gì; tin ấy, khi đến với tôi, đã làm tôi bơ vơ trong câm lặng cả năm trời. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ cha từng ngày, đôi khi từng giờ khôn nguôi.

 

Đó là nguyên nhân vì sao tôi nhận thấy mình đang ở trong một phòng nhỏ có gắn máy điều hòa không khí của một tòa nhà xây dựng bằng đá cát kết nâu, đang chứa giữ những tài liệu mang hơi thở không chỉ của một quá khứ xa xăm mà còn cả của sự cấp bách trong các công trình nghiên cứu của cha mình. Những cánh cửa sổ trông ra một vài cành cây lơ thơ dọc đường phố và một vài tòa nhà đá nâu khác bên đường, mặt tiền thanh lịch của chúng vẫn chưa bị hoen ố bởi bất kỳ một thứ hiện đại nào gắn thêm lên. Sáng hôm đó, chỉ có một độc giả duy nhất trong cái thư viện nhỏ bé đó, một phụ nữ Ý đang thì thào vào máy điện thoại di động của mình vài phút trước khi mở những cuốn nhật ký viết tay của ai đó ra và bắt đầu đọc - tôi phải cố không nghển cổ nhòm trộm chúng. Khi đã yên vị với một cuốn sổ tay và áo len mỏng dài tay để bớt lạnh, tôi được người thủ thư mang ra trước tiên là những trang ghi chép của Stoker và sau đó là một hộp nhỏ làm bằng giấy bìa cứng được cột lại bằng dây ruy băng.

Những ghi chú của Stoker quả là kiểu mẫu thú vị của sự lạc đề, một nghiên cứu dưới dạng những ghi chép hỗn độn. Một số được viết tay rất khó đọc, một số được đánh máy trên loại giấy vỏ hành cổ lỗ sĩ. Giữa các trang giấy đó là những bài cắt ra từ báo viết về những sự kiện bí ẩn và những trang từ cuốn lịch cá nhân của Stoker. Tôi nghĩ hẳn cha sẽ thích thú món này lắm đây, cha sẽ mỉm cười về hiểu biết nông cạn và ngây thơ của Stoker về sự huyền bí. Sau nửa tiếng tôi dẹp mớ giấy má đó qua một bên và quay sang chiếc hộp kia. Tôi cầm lên một cuốn sách mỏng, bọc trong cái bìa trang nhã, chắc hẳn là thế kỷ mười chín - bốn mươi trang in trên loại giấy da thế kỷ mười lăm hầu như không một vết ố, một kho báu thời Trung cổ, một phép lạ của kỹ thuật in sắp chữ. Trang đầu là một bức tranh khắc gỗ, một khuôn mặt mà tôi đã quen thuộc sau những trải nghiệm khó khăn dài dặc của chính bản thân, đôi mắt to, mở rộng tuy nhiên không hiểu vì sao vẫn toát lên vẻ ranh mãnh quỷ quyệt, nhìn như xoáy vào tôi, một bộ râu mép rậm rịt quặp xuống một quai hàm bạnh, mũi dài đẹp nhưng đầy vẻ dữ dằn, cặp môi dày hiện rõ vẻ nhục dục.

Đó là một tập sách mỏng xuất xứ từ thành phố Nuremberg, in năm 1491, nói về những tội ác của Dracole Waida, tính tàn bạo và những bữa tiệc khát máu của hắn. Tôi có thể hiểu được, vì tôi đã biết khá rõ những điều đó, những dòng đầu tiên của thứ tiếng Đức thời Trung cổ: “Năm Dương lịch 1456, Drakula đã làm nhiều việc khủng khiếp và kỳ dị.” Thực ra, thư viện cũng cung cấp một bản dịch, và tôi đã rùng mình đọc lại trong đó những tội ác chống lại nhân loại của Dracula. Hắn đã cho nướng sống nhân dân của mình, lột da và tùng xẻo từng miếng thịt, chôn người trong đất đến tận cổ, đã cho xiên cọc những đứa bé ngay trên vú mẹ chúng. Dĩ nhiên, cha đã xem những tập sách mỏng khác như thế này, nhưng hẳn cha sẽ đánh giá cao tập sách này vì hình thức mới mẻ đáng ngạc nhiên, sự tinh tươm trên các trang giấy da, tình trạng gần như hoàn hảo của nó. Sau năm thế kỷ, trông nó vẫn như vừa mới được in. Vẻ thuần khiết của tập sách làm tôi cảm thấy khó chịu, một lát sau tôi thầm cảm thấy vui khi cất nó lại vào hộp và buộc dây cột lại, hơi ngạc nhiên tự hỏi hà cớ gì mà mình cứ muốn đích thân xem thứ đó. Cái ánh mắt nhìn chòng chọc ngạo mạn kia như cứ dán vào tôi cho đến lúc tôi gấp sách lại.

Sau đó, tôi thu xếp đồ đạc và với cảm giác vừa hoàn thành một chuyến hành hương, tôi cảm ơn bà thủ thư hiền hậu. Bà có vẻ vui với cuộc viếng thăm của tôi; cuốn sách mỏng đó là một trong mấy món ưa thích của bà trong số những thứ mà họ sở hữu; chính bà đã viết một bài báo về nó. Chúng tôi chia tay nhau sau những lời thân mật và cái bắt tay, tôi đi xuống gian hàng bán quà lưu niệm và từ đó bước ra ngoài con phố ấm áp, cùng với mùi khói xe và đi ăn trưa đâu đó gần đấy. Sự tương phản quá xa giữa bầu không khí thanh khiết trong viện bảo tàng và sự hối hả ồn ào của thành phố bên ngoài khiến cánh cửa gỗ sồi đằng sau tôi có vẻ như đã bị niêm kín lại đầy ngăn cách, đến mức tôi đã giật bắn mình khi nhìn thấy bà thủ thư hấp tấp chạy ra khỏi cánh cửa đó. “Tôi nghĩ cô đã bỏ quên những thứ này,” bà nói. “May mà tôi bắt kịp cô.” Bà nở với tôi nụ cười ngượng ngập như của một người vừa trao lại cho bạn một kho báu mà chính bà cũng không muốn đánh mất - một chiếc ví, chùm chìa khóa, một chiếc vòng tay xinh đẹp.

Tôi cám ơn bà, cầm lại cuốn sách và sổ ghi chép bà trao, không chút thắc mắc, lại giật mình khi bà lại biến mất vào tòa nhà cũ kỹ, chóng vánh chẳng khác gì lúc chạy xuống tìm tôi. Cuốn sổ ghi chép đúng là của tôi, mặc dù tôi nhớ mình đã cẩn thận bọc nó lại bỏ vào túi xách trước khi rời khỏi đó. Cuốn sách là - hiện tại tôi không thể nói ngay khoảnh khắc đầu tiên ấy mình thực sự nghĩ nó là gì, chỉ biết bìa sách bằng nhung cũ kỹ đã xơ rách, rất, rất c ff8 ũ, và cuốn sách vừa quen thuộc vừa xa lạ trên tay tôi. Những tờ giấy da bên trong, không còn tờ nào có vẻ tươi mới như cuốn sách mỏng mà tôi vừa xem trong thư viện - mặc dù nó rất mỏng nhưng vẫn bốc lên cái mùi khó chịu của hàng thế kỷ từ tay người này đến tay người khác. Hình ảnh dữ tợn duy nhất ở giữa cuốn sách bật mở trên tay tôi trước khi tôi kịp ngăn mình lại, và đóng ập lại trước khi tôi kịp nhìn lâu vào nó.

Tôi đứng hoàn toàn bất động trên con phố đó, trong khi một cảm giác mơ hồ siêu thực bùng nổ tràn ngập trong tôi; những chiếc xe, vẫn chạy qua chạy lại, liên tục như trước, một tiếng còi xe vang lên đâu đó, một người đàn ông đang cố dắt một chú chó đến gần chỗ tôi, giữa tôi và cây bạch quả. Nghĩ đến bà thủ thư, tôi vội liếc nhìn lên các cánh cửa sổ viện bảo tàng, chỉ có hình ảnh phản chiếu của những tòa nhà đối diện. Ở đấy, chẳng có tấm rèm cửa nào lay động, cũng chẳng có cánh cửa nào lặng lẽ khép lại khi tôi nhìn xung quanh. Chẳng có gì khả nghi trên con phố đó.

Trong phòng khách sạn, tôi đi rửa ráy sau khi để cuốn sách của mình lên chiếc bàn mặt kính. Rồi đến bên cửa sổ, tôi đứng nhìn xuống quang cảnh toàn thành phố. Ngay dưới khối nhà này, tôi có thể nhìn thấy vẻ quý phái xấu xí của Tòa Thị chính Philadelphia, với bức tượng của con người yêu chuộng hòa bình William Penn_(1) uy nghi trên mái. Từ nơi đây, công viên là những ô vuông xanh đầy những ngọn cây. Ánh nắng phản chiếu hắt tới từ những tòa tháp ngân hàng. Xa xa phía bên trái, tôi có thể nhận ra tòa nhà liên bang vừa mới bị đánh bom tháng trước, những cần cẩu hai màu vàng đỏ đang vật lộn với đống đổ nát ở trung tâm, và tôi có thể nghe được tiếng huyên náo của sự tái thiết.

Nhưng đó không phải là quang cảnh chiếm trọn cái nhìn đăm đăm của tôi. Tôi còn đang hình dung, dù không muốn, đến một khung cảnh khác, một khung cảnh dường như tôi đã chứng kiến rồi. Dựa vào cửa sổ, tôi cảm nhận ánh mặt trời mùa hè, cảm thấy an toàn kỳ lạ bất chấp khoảng cách cao vời vợi từ mặt đất lên đến chỗ tôi, tựa như sự nguy hiểm chỉ đang nằm chờ đợi tôi trong một vương quốc hoàn toàn khác hẳn.

 

Tôi đang hình dung về một buổi sáng mùa thu trong trẻo năm 1476, một buổi sáng chỉ vừa đủ lạnh để cho sương mù lan tỏa là là trên mặt hồ. Một chiếc thuyền cập mép đảo, bên dưới những bức tường thành và mái vòm có những cây thánh giá sắt. Có tiếng gõ nhẹ nhàng của mái chèo gỗ lên đá, hai tu sĩ vội vàng ra khỏi vị trí dưới chòm cây để kéo thuyền lên bờ. Chỉ có một người đàn ông ra khỏi thuyền, đôi chân hắn đặt trên kè đá nằm gọn trong đôi ủng da màu đỏ tinh xảo, mỗi chiếc ủng gắn một đinh thúc ngựa nhọn hoắt. Hắn thấp hơn cả hai tu sĩ trẻ nhưng dường như lấn át hẳn họ. Hắn mặc áo lụa Đa-mát hai màu tím và đỏ bên dưới một áo choàng nhung không tay màu đen, một móc cài kiểu dáng phức tạp ghim chiếc áo choàng vào phía trước bộ ngực nở rộng. Mũ hắn kiểu chóp nón có gắn lông chim màu đỏ phía trước. Bàn tay hắn, đầy sẹo trên mu, đặt hờ hững trên th anh đoản kiếm mang ở thắt lưng. Mắt màu xanh lá, to và mở thao láo một cách kỳ dị, cả miệng lẫn mũi đều toát lên vẻ ác hiểm, mái tóc đen và bộ râu mép trông có vẻ thô lỗ với những chỗ lốm đốm bạc.

Cha tu viện trưởng được báo trước nên đã vội vã ra gặp hắn dưới những tàn cây. “Rất vinh hạnh được đón tiếp, thưa chủ soái,” ông thốt lên, dang rộng đôi tay. Dracula hôn lên chiếc nhẫn của ông và cha tu viện trưởng làm dấu ban phước lành cho hắn. “Cầu Chúa ban phước cho con, con trai của ta.” Cha tu viện trưởng nói thêm, tựa như để đồng thời tỏ lòng biết ơn. Ông biết sự xuất hiện của ông hoàng chẳng có gì thần kỳ; có lẽ hắn đã vượt qua những vùng bị quân Thổ chiếm đóng để đến đây. Đây không phải là lần đầu tiên vị khách quen thuộc của cha tu viện trưởng xuất hiện tựa như bằng một phương tiện đi lại thần thánh nào đó. Cha tu viện trưởng đã nghe nói chẳng bao lâu nữa đức tổng giám mục tại Curtea de Argeş sẽ tấn phong Dracula lên ngôi lãnh chúa xứ Wallachia, và khi ấy, không nghi ngờ gì nữa, Giáo đoàn Rồng sẽ giành lại toàn bộ Wallachia từ tay quân Thổ. Ông cha cố chạm các ngón tay vào vầng trán rộng của ông hoàng để ban phước. “Chúng ta đã nghĩ đến điều tệ hại nhất khi con không đến được vào mùa xuân. Vinh danh Chúa.”

Dracula mỉm cười nhưng không nói gì, chỉ nhìn ông cha cố một lúc lâu. Trước đây, cả hai đã từng tranh luận về cái chết, cha tu viện trưởng nhớ lại; trong lúc xưng tội Dracula đã nhiều lần hỏi ông, một người của Chúa, liệu có đúng chăng khi hắn nghĩ mọi kẻ tội lỗi sẽ được chấp nhận lên thiên đường nếu thực sự ăn năn. Cha tu viện trưởng chỉ quan tâm đến việc làm lễ rửa tội cuối cùng cho hắn khi đến lúc, dù vậy ông vẫn ngại ngần không dám nói ra với Dracula. Tuy nhiên, trước sự khăng khăng nhẹ nhàng của cha tu viện trưởng, Dracula đã để họ rửa tội lại cho mình với một đức tin chân thành để bày tỏ sự ăn năn vì đã một thời cải đạo theo một giáo hội dị giáo ở phương Tây. Cha tu viện trưởng đã xá tất cả tội lỗi cho Dracula, một cách bí mật - tất cả. Chẳng phải Dracula đã cống hiến cả đời mình để chống lại những kẻ vô đạo, chống lại tên Quốc vương Hồi giáo gớm ghiếc vẫn đang hạ bệ các thành trì của thế giới Cơ Đốc giáo hay sao? Nhưng ông cũng băn khoăn thầm hỏi riêng mình liệu Thượng đế sẽ ban phát được gì cho con người kỳ lạ này. Ông hy vọng Dracula sẽ không khơi lên cái chủ đề thiên đường và cảm thấy nhẹ cả lòng khi hắn yêu cầu được xem những gì họ làm được trong thời gian hắn vắng mặt. Họ cùng đi với nhau quanh rìa sân tu viện, lũ gà đang bươi đất phía trước. Dracula ngắm nghía những công trình mới hoàn thành, những vườn rau đang đâm chồi nảy lộc với vẻ mặt hài lòng, cha tu viện trưởng vội vàng chỉ cho hắn xem lối đi mà họ đã làm xong từ lần thăm viếng gần đây nhất của hắn.

Họ uống trà trong phòng riêng của cha tu viện trưởng, rồi Dracula đặt một chiếc túi vải nhung trước mặt ông cha cố. “Cha mở nó ra đi,” hắn vừa nói vừa vuốt bộ râu mép, đôi chân vạm vỡ đầy cơ bắp chàng hảng trên ghế; thanh kiếm bất ly thân lủng lẳng bên hông. Cha viện trưởng ước gì Dracula sẽ trao quà một cách khiêm tốn hơn nhưng ông vẫn im lặng mở cái túi. “Đồ châu báu của bọn Thổ,” Dracula nói, toét miệng cười. Hàm dưới gã thiếu một chiếc răng, nhưng những cái còn lại trông rất chắc và trắng bóng. Cha tu viện trưởng nhìn thấy bên trong chiếc túi những món trang sức đẹp vô ngần, hàng mớ hồng ngọc và lục bảo, những chiếc nhẫn và trâm cài bằng vàng nặng trịch kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, và trong số của cải đó còn có nhiều thứ khác, bao gồm cả một cây thánh giá bằng vàng được chạm trổ và nạm sapphire đen. Cha tu viện trưởng không muốn biết những món đồ này từ đâu đến. “Chúng ta sẽ trang bị cho phòng để đồ thờ và thêm một bình đựng nước thánh,” Dracula nói. “Ta muốn cha thuê được nghệ nhân ở bất kỳ nơi nào Cha muốn. Khoản này sẽ thanh toán dễ dàng cho mấy việc đó, số dư còn lại là dành cho phần hầm mộ của ta.”

“Mộ của ngài?” Cha tu viện trưởng nhìn xuống nền nhà, vẻ kính cẩn.

“Đúng vậy, Đức Cha ạ.” Bàn tay hắn lại nắm vào chuôi kiếm. “Ta nghĩ đến điều đó đã lâu và ta muốn được đặt trước bệ thờ, cùng với một phiến đá cẩm thạch làm nắp. Dĩ nhiên, Cha sẽ tổ chức cho ta những buổi lễ trang trọng nhất, vang ắp những bài Thánh ca. Hãy mời thêm một dàn đồng ca cho buổi lễ đó.” Cha tu viện trưởng cúi đầu, nhưng cảm thấy khó chịu vì gương mặt người đàn ông kia, vẻ tính toán trong đôi mắt xanh của hắn. “Ngoài ra, ta còn có một vài yêu cầu nữa, xin Cha ghi nhớ cẩn thận. Ta muốn vẽ chân dung của mình trên bia mộ, chứ không phải thánh giá.”

Cha viện trưởng ngẩng lên, sửng sốt. “Không có thánh giá sao, thưa ngài?”

“Không thánh giá,” ông hoàng đáp lại, giọng kiên quyết. Hắn nhìn thẳng vào mặt ông cha cố, và mãi một lúc lâu ông vẫn không dám hỏi gì thêm. Nhưng ông vốn là cố vấn tinh thần cho con người kia, nên một lúc sau ông lại lên tiếng. “Mọi ngôi mộ đều được đánh dấu bằng sự thống khổ của Đấng Cứu thế, và ngôi mộ của ngài cũng phải có niềm vinh dự đó.”

Mặt Dracula sầm lại. “Ta không định để bản thân chịu khuất phục lâu dài trước cái chết,” hắn trầm giọng.

“Chỉ có một con đường duy nhất tránh thoát được cái chết,” cha tu viện trưởng mạnh bạo đáp lại, “và đó là con đường thông qua Đấng Cứu chuộc, Chúa Jesus, nếu Người ban ân sủng cho chúng ta.”

Dracula nhìn chằm chằm ông ta một lúc lâu, còn ông cha cố thì cố đừng ngoảnh mặt đi. “Có lẽ,” cuối cùng hắn đành lên tiếng. “Nhưng mới đây ta có gặp một người, một thương nhân đã từng đến một tu viện ở phương Tây. Hắn nói, tại Gaul(1)_, tại một nhà thờ cổ xưa nhất trong khu vực thế giới đó, đám thầy tu Latin đã đánh lừa được Thần Chết bằng những phương pháp bí truyền. Hắn đề nghị bán cho ta những bí mật mà hắn đã ghi lại trong một cuốn sách.”

Ông tu viện trưởng nhún vai. “Chúa bảo vệ chúng ta tránh xa những điều tà mị như vậy,” ông vội nói. “Ta chắc chắn, ngài nên từ bỏ tham vọng đó.”

Dracula mỉm cười. “Cha biết ta vốn rất mê sách mà.”

“Chỉ có duy nhất một cuốn Sách đích thực, và đó là cuốn sách mà chúng ta phải yêu mến bằng tất cả trái tim và tâm hồn mình,” cha tu viện trưởng đáp lại, nhưng lúc đó ông cũng không thể rời mắt khỏi bàn tay sứt sẹo của ông hoàng đang ngọ nguậy trên cái chuôi kiếm chạm khảm. Dracula mang một chiếc nhẫn trên ngón tay út; không cần nhìn gần hơn cha viện trưởng cũng biết rất rõ cái biểu tượng dữ tợn đang cuộn mình trên chiếc nhẫn đó.

“Thôi được.” Cha tu viện trưởng cảm thấy khuây khỏa khi Dracula dường như cũng đã mệt mỏi vì cuộc tranh luận, đột ngột đứng lên, đầy sinh lực. “Ta muốn gặp những người chuyên sao chép của Cha. Ta sắp có một công việc đặc biệt cho họ.”

Cả hai cùng bước vào căn phòng viết nho nhỏ, ở đó ba tu sĩ đang ngồi chép các bản thảo, theo đúng phương pháp cổ xưa, một tu sĩ khác đang khắc những con chữ để in một trang về cuộc đời của Thánh Anthony. Cỗ máy in đứng chơ vơ trong góc phòng. Đó là chiếc máy in đầu tiên ở Wallachia, Dracula đặt bàn tay hãnh diện lên chiếc máy, một bàn tay vuông bè, nặng nề. Vị tu sĩ lớn tuổi nhất trong phòng viết đứng cạnh cái bàn gần máy in, đang đục chạm một khối gỗ. Dracula chồm tới. “Và nó sẽ thành cái gì vậy Cha?”

“Thánh Mikhail đang giết một con rồng, thưa ngài,” ông thầy tu già thì thào. Ông nhướng đôi mắt mờ đục lên, đôi hàng lông mày bạc trắng rủ xuống gần như che mất mắt.

“Lẽ ra nên để con rồng tiêu diệt bọn vô đạo chứ,” Dracula nói, cười tủm tỉm.

Ông thầy tu gật đầu nhưng cha tu viện trưởng lại nhún vai thầm ngao ngán.

“Ta có một nhiệm vụ đặc biệt cho Cha,” Dracula nói với ông thầy tu già. “Ta sẽ để bản phác thảo lại cho Cha tu viện trưởng.”

Hắn dừng lại trong khoảnh sân đầy ánh nắng. “Ta sẽ ở lại dự lễ, rồi sẽ trao đổi với Cha. Hắn nở một nụ cười với cha tu viện trưởng. “Tối nay Cha dành cho ta chiếc giường trong một ô nào đó chứ?”

“Bao giờ cũng vậy, thưa ngài. Ngôi nhà của Chúa này cũng là nhà của ngài.”

“Còn bây giờ chúng ta lên tháp chứ.” Cha tu viện trưởng quá rành thói quen này của hắn. Bao giờ Dracula cũng muốn quan sát mặt hồ và khu vực bờ hồ xung quanh từ điểm cao nhất của nhà thờ, tựa như để ngăn chặn kẻ thù. Hắn có lý do chính đáng, cha tu viện trưởng nghĩ. Quân Thổ Nhĩ Kỳ săn lùng cái đầu của hắn từ năm này qua năm khác, vua Hungary cũng không kém phần ác tâm với hắn, các chủ điền và tầng lớp quý tộc địa phương cũng căm hận và sợ hãi hắn. Còn ai không phải là kẻ thù của hắn ngoài những cư dân trên hòn đảo này? Cha tu viện trưởng chậm rãi theo sau hắn đi lên chiếc cầu thang xoắn, sẵn sàng tinh thần nghe những hồi chuông chẳng mấy chốc nữa sẽ bắt đầu vang lên rất to từ chính nơi này.

Mái vòm bao quanh ngọn tháp có những lỗ trống mở ra tứ phía. Khi cha tu viện trưởng lên đến đỉnh, Dracula đã đứng ở vị trí ưa thích của hắn, chăm chăm nhì n qua mặt hồ, tay chắp sau lưng ra dáng như đang suy tư, đang hoạch định. Cha tu viện trưởng đã từng nhìn thấy hắn đứng như vậy trước những chiến binh của hắn, chỉ dẫn chiến lược cho cuộc đột kích ngày hôm sau. Trông hắn chẳng có vẻ như một con người sống thường trực trong hiểm nguy - một thủ lĩnh mà cái chết có thể đến bất cứ giờ nào, một kẻ mà từng giây từng phút không ngơi băn khoăn suy nghĩ về sự cứu rỗi của chính mình. Thay vì vậy, cha tu viện trưởng thầm nghĩ, dường như cả thế giới hãy còn đang ở phía trước hắn. 

---- HẾT ----

Truyen8.mobi chúc các bạn đọc truyện vui vẻ! 

 

Nguồn: truyen8.mobi/t35359-truy-tim-dracula-chuong-79-80.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận