Utopia Địa Đàng Trần Gian Chương 12

Chương 12
Tất cả tu sỹ của họ đều cực kỳ ngoan đạo, có nghĩa là họ có rất ít tu sỹ.

Khi chiến tranh đã kết thúc, họ gửi hóa đơn đòi thanh toán, không phải cho các nước bạn mà họ đã tham chiến để bảo vệ, mà cho chính kẻ địch đã bị thua trận. Họ đòi được trả một phần bằng tiền mặt sẽ được dành để chi tiêu cho các cuộc chiến có thể có trong tương lai, một phần bằng quyền sở hữu các điền sản có giá trị trên lãnh thổ thù địch kia. Cứ như thế, họ đã có được tài sản ở nhiều nước khác nhau, và lợi tức của chúng, tích lũy dần từ các nguồn khác nhau, đến nay đã lên đến mức tương đương khoảng 327.000 bảng mỗi năm. Họ cử công dân Utopia đến các nước ấy, trên danh nghĩa là để thu lợi tức cho quốc gia, nhưng trên thực tế là để sống ở đó như đế vương và đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống sở tại. Như vậy mà vẫn còn rất nhiều tiền để họ đưa vào công khố quốc gia, hoặc nếu thích thì họ cho chính nước ấy vay cho đến khi nào cần mới đòi, mà cũng rất ít khi đòi hết. Một số điền sản này được chuyển cho những cá nhân đã dám liều thân đánh thuê cho họ như tôi đã nói ở đoạn trước.

Nếu có nhà vua nào tuyên chiến với họ và chuẩn bị tiến quân xâm lược lãnh thổ của họ, người Utopia sẽ huy động một lực lượng lớn đi đánh chặn quân địch ở bên ngoài biên ải - vì họ không bao giờ để quê hương mình biến thành chiến địa, và cũng không bao giờ cho phép quân đồng minh đặt chân lên đất của mình.

Cuối cùng, để tôi kể cho các bạn nghe về những ý tưởng và quan niệm tôn giáo của người Utopia. Có nhiều tôn giáo khác nhau trên đảo quốc ấy, và ngay cả ở từng thành phố ở đó. Có đạo thờ mặt trời, có đạo thờ mặt trăng, và thờ những hành tinh khác nữa. Có những người coi một nhân vật vĩ đại hoặc chí thiện trong quá khứ không những như một vị thánh, mà còn như một vị chí thánh tối cao nữa. Tuy nhiên, đại đa số dân chúng có quan niệm hợp lý hơn nhiều rằng chỉ có một đấng quyền năng thiêng liêng duy nhất, không thể nhận biết, vĩnh hằng, vô định, không thể giải thích, và hoàn toàn vượt ra ngoài tầm trí lực của con người, phát tán trong khắp vũ trụ của chúng ta, không phải như một thứ vật chất, mà như một hoạt lực. Họ gọi đấng quyền năng ấy là "Đức Cha". Họ tin rằng Ngài đã làm ra mọi chuyện và mọi thứ, mọi khởi đầu và kết thúc, mọi sinh trưởng và đổi thay. Và họ không công nhận bất kì một ngôi thánh thần nào khác.

Quả thật là ở điểm này, tất cả mọi giáo phái đều đồng ý rằng có một Đấng Tối Cao đã tạo nên và điều hành toàn bộ vũ trụ, và họ đều dùng một từ trong ngôn ngữ Utopia để gọi Ngài, đó là từ Mythras28. Điều mà họ còn bất đồng là vấn đề Mythras là ai. Người nói thế này, người nói thế kia, nhưng ai cũng nhận rằng bản thể tối thượng của Ngài chính là Thiên nhiên, cái sức mạnh ghê gớm mà ai ai cũng phải công nhận là duyên cớ duy nhất của muôn sự muôn vật trên đời này. Tuy nhiên, người ta đang có khuynh hướng từ bỏ dần các tín ngưỡng thô thiển đa thần để quy tụ về cái có vẻ là chính đạo và hợp lý nhất. Chắc hẳn là những thứ tín ngưỡng kia đã phải mai một từ lâu rồi nếu không có những đầu óc dị đoan vốn không dám cải đạo vì sợ bị thánh thần của họ trừng phạt, cứ như thể là các thánh thần ấy sẽ nổi đóa vì bị bỏ rơi vậy.

Nhưng khi chúng tôi kể cho họ nghe về đấng Christ, những lời dạy của Ngài, con người Ngài, phép lạ của Ngài, và cả những cống hiến không kém phần kì lạ của các bậc tử vì đạo đã tình nguyện xả thân để đem đức tin Cơ đốc đến cho biết bao nhiêu dân tộc, thì hóa ra cải đạo cho họ là một công việc dễ không thể tưởng tượng được. Có thể họ đã có một ý nguyện thần thánh nào đó mà chính họ cũng không biết, mà cũng có thể là vì Cơ đốc giáo hình như rất giống với tôn giáo chủ đạo của họ - mặc dù bản thân tôi vẫn muốn nghĩ rằng họ đã bị tác động rất mạnh bởi những giáo huấn của đấng Christ cho các đệ tử của mình về một lối sống theo cộng sản chủ nghĩa mà cho đến ngày nay vẫn được tất cả những cộng đồng Cơ đốc chân chính nhất thực hành. Nhưng giải thích cách gì đi nữa thì thực tế là đã có rất nhiều người Utopia gia nhập tín ngưỡng của chúng ta, và đều đã được thụ lễ mang tên thánh cả rồi.

Chẳng may là không ai trong số bốn chúng tôi ở đó là mục sư cả - vâng, chỉ còn có bốn chúng tôi, vì hai người khác đã qua đời. Cho nên mặc dù họ đã được thụ mọi nghi thức của Giáo hội Cơ đốc, các tân đạo hữu của chúng tôi vẫn chưa nhận được các bí pháp và phước lành mà chỉ có các mục sư mới có quyền ban phát cho họ. Nhưng họ đều hiểu về những phước lành ấy và mong mỏi chúng hơn mọi thứ trên đời. Sự thực là ngay lúc này đây, họ đang bận rộn bàn thảo xem liệu có phải phép hay không nếu họ tự phong cho một người của mình làm mục sư mà không cần có một giám mục Cơ đốc đến cử hành nghi lễ đó cho họ. Và có vẻ là họ đã sắp chọn được một ứng cử viên cho chức vị ấy rồi, mặc dù lúc tôi r a đi thì vẫn chưa chính thức.

Đương nhiên là cũng có nhiều người Utopia không chịu chấp nhận Cơ đốc giáo, nhưng họ cũng không ngăn cản ai và cũng không tấn công ai định gia nhập tín ngưỡng của chúng ta. Nhưng có một thành viên trong giáo đoàn của chúng tôi cũng gặp phải chuyện rắc rối ngay lúc tôi còn ở đó. Ngay sau khi thụ lễ đặt tên thánh, mặc dù chúng tôi đã nhắc nhở, ông này vẫn lập tức công khai rao giảng về đức tin Cơ đốc. Đáng nhẽ phải kín đáo, thì ông ta lại ồn ào lớn tiếng, và hăng hái đến mức thấy chỉ lớn tiếng về những ưu việt trong tín ngưỡng của chúng ta là chưa đủ, ông ta bắt đầu mạt sát lên án các tín ngưỡng khác. Ông ta gào đến vỡ giọng rằng mọi tín ngưỡng khác đều là mê tín dị đoan hết, và tất cả những ai tin theo chúng đều là bọn quỷ vô đạo sẽ bị lửa địa ngục thiêu đốt mãi mãi. Cứ thế một thời gian, ông ta liền bị bắt và buộc tội, không phải tội báng bổ thần thánh mà là tội làm rối trật tự công cộng. Ông ta bị kết án phải lưu vong - vì một trong những nguyên lý lâu đời nhất trong hiến pháp của họ là khoan dung tín ngưỡng29.

Nguyên lý này có từ thời lập quốc. Trước đó, các tín ngưỡng khác nhau và đang đánh lẫn nhau nhất định không chịu hợp tác chỉ vì tranh cãi không ngừng về tôn giáo của nhau. Khi Utopos biết được chuyện đó, ông hiểu ngay rằng đấy chính là nguyên nhân giúp ông chinh phục được tất cả bọn họ. Và lập tức sau khi giành chiến thắng, ông ra một đạo luật theo đó ai cũng được tự do thực hành tín ngưỡng mà mình thích và có quyền thuyết phục người khác theo đạo của mình, với điều kiện phải làm việc đó một cách im lặng và lễ phép, với những lập luận hợp lí. Nhưng nếu không thuyết phục được người ta thì cũng không được phép mạt sát các tôn giáo khác, hoặc dùng bạo lực hoặc xâm phạm cá nhân. Hình phạt bình thường của việc quá khích trong các tranh cãi về tín ngưỡng là bị đày đi lưu vong hoặc giáng xuống làm nô lệ.

Utopos đặt ra luật ấy không phải chỉ nhằm duy trì hòa bình, vẫn thường bị những xung đột tư tưởng và quyền lợi phá hoại, và còn vì ông tin rằng làm vậy là có ích lợi nhất cho tôn giáo. Ông không định nói rằng tín ngưỡng nào là đúng. Có vẻ như ông tin rằng Thượng đế đã tạo ra những con người khác nhau có lòng tin vào những sự khác nhau, bởi vì Ngài muốn được thờ phượng qua nhiều nẻo khác nhau vậy. Và rõ ràng là ông hoàn toàn tin rằng đe dọa ép buộc ai phải tin theo một tín ngưỡng nào đó là một sự ngu xuẩn và ngạo mạn phải bị trừng trị. Có vẻ như ông thấy rất rõ là cho dù chỉ có một tín ngưỡng đích thực còn mọi thứ khác chỉ là vô nghĩa, chân lý ấy cũng sẽ chỉ tự nó hiển lộ nếu người ta biết tranh cãi về nó một cách ôn hòa và hợp lý. Nhưng nếu người ta cưỡng chế nó bằng vũ lực thì ngay cả thứ tín ngưỡng tốt đẹp nhất và tâm linh nhất cũng phải đầu hàng những hình thức dị đoan ngu xuẩn, hệt như ngô bị cỏ gai lấn át - vì người xấu xa nhất bao giờ cũng là người ngoan cố nhất.

Cho nên ông để ngỏ vấn đề lựa chọn tín ngưỡng cho mỗi cá nhân tự quyết định theo ý riêng của mình. Nhưng bên cạnh đó, ông nghiêm cấm dân chúng không được tin vào bất kì cái gì xa lạ với nhân phẩm, ví dụ như cho rằng linh hồn sẽ mất đi cùng thể xác, hoặc vũ trụ là bộ máy vô mục đích không có ai điều khiển. Chính vì vậy mà người Utopia ai cũng tin rằng sẽ có thưởng có phạt sau khi chết; và nếu có ai không tin như vậy thì người đó đã tự vứt bỏ quyền làm người và hạ linh hồn bất tử của chính mình xuống ngang hàng với nhục thể của loài cầm thú. Những người ấy bị coi là không xứng đáng làm một công dân Utopia. Họ nói một người như vậy đã thực lòng không coi lối sống Utopia là cái gì, và chỉ vì sợ nên mới không dám nói ra miệng mà thôi. Và họ nghĩ thế là phải, bởi nếu sống mà không biết sợ cái gì khác ngoài việc có thể bị buộc tội, và cũng không có hy vọng gì ở một kiếp khác sau khi chết, thì con người sẽ chỉ còn biết tìm cách tránh né và phá vỡ luật pháp của đất nước để mưu lợi cho riêng mình mà thôi. Cho nên hễ ai có tư tưởng ấy sẽ không bao giờ được xã hội trọng thị, không được đề cử vào bất kì một chức vụ gì, không được làm việc trong các công sở nhà nước. Những người như vậy thực sự bị xã hội khinh rẻ.

Nhưng họ không bị trừng phạt dưới một hình thức nào cả, vì không ai phải chịu tội vì những tin tưởng của mình. Họ cũng không bị khủng bố đến nỗi phải che giấu quan điểm riêng, vì người Utopia không chấp nhận thái độ giả dối vốn được coi là tương đương với hành động lừa đảo. Nếu những người này lớn tiếng biện hộ cho xác tín của mình trước công chúng, việc đó sẽ bị coi là bất hợp pháp. Nhưng trong những cuộc đàm luận riêng tư với các mục sư hoặc những người đứng đắn khác, họ hoàn toàn được phép, và còn được khuyến khích làm như vậy, vì mọi người đều tin rằng những tư tưởng lệch lạc kia sẽ có cơ hội được chân lý khuất phục nhờ những buổi đàm luận như vậy.

Quả thực, còn có một số người Utopia - mà có nhiều là đằng khác - thì lại theo những thuyết cực đoan trái ngược hoàn toàn với tư tưởng duy vật vừa nhắc đến ở trên. Tất nhiên là không có luật lệ gì ngăn cấm họ, bởi họ cũng có chút lý lẽ hẳn hoi và đều là những người tử tế. Những người này tin rằng cầm thú cũng có linh hồn bất tử, mặc dù là hạ cấp hơn chúng ta, và cũng được tạo ra để có hạnh phúc ở cấp thấp hơn. Còn với con người thì họ tin rằng sau khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc vô biên, cho nên không bao giờ khóc than vì tử biệt sinh ly, mà chỉ khóc thương vì bệnh tật đau ốm mà thôi. Họ coi thái độ dùng dằng bám víu cuộc sống một cách bệnh hoạn là dấu hiệu rất gở, vì chỉ có những linh hồn tội lỗi biết mình sẽ bị trừng phạt ở thế giới bên kia mới sợ hãi cái chết như vậy. Ngoài ra, họ còn nghĩ rằng Thượng đế sẽ chẳng hài lòng chút nào khi gọi ai mà người ấy lại không vui mừng chạy về với Ngài ngay, lại còn phải lôi kéo dẫn độ như thế. Cho nên một cái chết kiểu ấy sẽ làm họ rùng mình, và tang lễ sẽ lặng lẽ buồn thảm. Mọi người sẽ chỉ nói "Xin Thượng đế rủ lòng thương xót linh hồn này, và tha thứ cho sự yếu lòng của nó." Rồi vùi lấp thi hài ấy.

Nhưng khi một người chết v i tâm trạng lạc quan vui vẻ thì sẽ không ai than khóc. Họ vui mừng ca hát trong tang lễ, và thân ái dâng tụng linh hồn của người ấy lên Thượng đế. Cuối cùng, vì tôn kính hơn là vì thương tiếc, họ hỏa táng thi hài, rồi đánh dấu nơi ấy bằng một cột trụ có khắc văn bia. Sau đó họ về nhà và trò chuyện về tính cách và sự nghiệp của người quá cố, và không có gì trong cuộc đời của người ấy khiến họ bàn tán và sung sướng nhiều hơn là tâm trạng hạnh phúc lúc giã biệt cuộc sống của ông ta. Họ tin rằng gợi nhớ lại những phẩm chất tốt đẹp của người chết như thế là cách tốt nhất để khích lệ người sống noi theo, và cũng là để làm vui lòng người chết, vốn được tin là luôn luôn có mặt trong những câu chuyện như vậy, mặc dầu người trần mắt thịt không thể nào nhìn thấy. Nói cho cùng, hạnh phúc hoàn hảo bao hàm cả khả năng vi hành tuyệt đối tự do, và người còn sống ai cũng muốn tin rằng thân bằng gia quyến đã quá cố vẫn cứ về được với mình mỗi khi mong nhớ. Người Utopia cũng cho rằng lòng nhân hậu cũng như những đức tính tốt khác của một người chí thiện sẽ còn mênh mông hơn sau khi chết; và họ tin là người chết vẫn ở cùng với người sống và thấy hết mọi lời ăn tiếng nói và việc làm của người sống. Quả thực, họ coi người đã chết như những vị thần bảo hộ độ trì cho họ, và vì vậy mà vững tin hơn ở những việc phải làm mỗi khi gặp khó khăn trắc trở ở đời. Và ý thức về sự có mặt của tổ tiên cũng giúp họ tránh được những hành vi xấu ngay khi chỉ có mình với mình.

Họ không để tâm gì đến điềm báo, bói toán, hoặc những thói dị đoan mà dân chúng các nước khác rất sùng tín. Họ coi đấy chỉ là những trò đùa. Nhưng họ rất tôn sùng các phép lạ không thể giải thích được bằng thiên nhiên, vì họ coi đó là bằng chứng của sự hiện diện và quyền năng của Thượng đế. Họ nói những phép lạ như thế vẫn thường có ở Utopia. Và quả thực là những lúc gay go khủng hoảng, con dân cả nước đều cầu xin phép lạ, và niềm tin của họ lớn đến độ đôi khi những lời nguyện ấy của họ đã được đáp ứng màu nhiệm.

Hầu hết người Utopia cảm thấy họ có thể làm hài lòng Thượng đế chỉ bằng cách nghiên cứu thấu đáo thế giới tự nhiên và ngợi ca đấng sáng tạo. Nhưng cũng có nhiều người lại mải mê theo đuổi tôn giáo chứ không phải tri thức. Họ không quan tâm đến khoa học - đơn giản là họ không có thời gian cho một việc như thế, vì họ tin rằng con đường duy nhất để có hạnh phúc sau khi chết là dành trọn cả cuộc đời để làm việc thiện mà thôi. Có người chăm sóc kẻ tàn tật. Có người đi làm đường, nạo vét sông ngòi, sửa chữa cầu cống, đào đất, xúc cát, đập đá, chặt cây, cưa gỗ, chuyên chở gỗ hoặc ngô vào thành phố. Tóm lại, họ sống như nô bộc, và làm việc chăm chỉ hơn cả nô lệ, phục vụ cả cộng đồng lẫn tư nhân. Họ vui vẻ nhận làm tất cả những việc khó khăn, bẩn thỉu và nặng nhọc mà một người bình thường sẽ rất ngại phải làm, hoặc vì phải nhọc thân, hoặc chỉ vì không thích, hoặc sợ sẽ không bao giờ làm nổi. Cứ như thế, họ tạo điều kiện cho người khác được nhàn rỗi bằng cách tự mình làm việc không ngừ ng - và cũng không bao giờ kể công đòi thưởng. Họ không bao giờ bới lông tìm vết nói xấu các lối sống của người khác, mà cũng không tự phụ khoe khoang gì về lối sống của mình. Cho nên họ càng sống như nô lệ bao nhiêu thì mọi người lại càng quý trọng họ bấy nhiêu.

Những người này nhóm thành hai giáo phái, và một trong số đó tin theo lối sống độc thân. Thành viên của giáo phái này hoàn toàn không tình dục, không ăn thịt hoặc bất kỳ một động vật nào. Họ chối bỏ mọi khoái lạc của đời này mà họ coi đều là tội lỗi, và chỉ mong mỏi ở đời sau. Họ cố vun đắp cho kiếp sau bằng cách đổ mồ hôi ở kiếp này, và không ngủ để tỉnh thức - chỉ có niềm hy vọng rằng kiếp sau có thể sẽ đến vào bất kì lúc nào mới có thể giữ cho họ hăng hái vui vẻ như vậy. Còn giáo phái kia, mặc dù cũng cần lao không kém, vẫn cho phép hôn nhân, với lý lẽ rằng niềm vui gia đình không có gì đáng phải ghét bỏ, và sinh con đẻ cái còn là nghĩa vụ của mỗi người đối với thiên nhiên cũng như tổ quốc. Họ không phản đối khoái lạc chừng nào chúng còn chưa can thiệp vào việc làm. Và theo nguyên lý ấy họ ăn rất nhiều thịt, vì họ nghĩ thức ăn này sẽ khiến họ làm việc được khỏe hơn. Họ thường được coi là có lý hơn so với giáo phái kia, mặc dù phái kia được coi là nhiệt thành hơn. Tất nhiên, nếu những người theo giáo phái độc thân định biện hộ cho mình bằng những lý lẽ theo logic, họ sẽ bị thiên hạ chê cười ngay. Nhưng vì họ công nhận rằng động cơ của họ là hoàn toàn tín ngưỡng chứ không phải duy lý, nên mọi người đều rất kính trọng họ - vì người Utopia luôn thận trọng tránh những phán xét thô bạo trong vấn đề tín ngưỡng. Những người thuộc giáo phái này được gọi bằng tiếng địa phương là Buthrescae, có nghĩa là cực đoan trong tín ngưỡng.

Tất cả tu sỹ của họ đều cực kỳ ngoan đạo, có nghĩa là họ có rất ít tu sỹ. Mỗi thành phố có độ mười ba tu sĩ, hoặc tính cách khác là mỗi nhà thờ chỉ có một tu sỹ. Trong thời chiến thì bảy tu sỹ này sẽ theo quân đội ra mặt trận, thay thế bằng bảy tu sỹ tạm thời. Khi hết chiến tranh, các cha tuyên úy trở về chức vụ cũ của mình, còn bảy tu sỹ tạm thời kia thì về nhà thờ của đức Giám mục - cũng là một trong mười ba tu sỹ của thành phố ấy - và sẽ dần dần lần lượt được đưa về những nhà thờ mà vị tu sỹ ở đó vừa qua đời.

Tu sỹ là do toàn thể cộng đồng bầu ra bằng cách bỏ phiếu kín, hệt như bầu các chức sắc trong chính quyền, cốt để tránh hình thành những nhóm thế lực, và người trúng cử sẽ được các đồng nghiệp làm lễ đăng nhiệm. Tu sỹ có trách nhiệm cử hành các buổi lễ, tổ chức các tôn giáo, và giám sát đạo đức. Sẽ là chuyện rất xấu hổ nếu có ai vì bậy bạ mà bị giáo hội đưa ra tòa, hoặc bị tu sỹ khiển trách. Tất nhiên là trấn áp và trừng phạt tội ác là việc của ông Thị trưởng và các quan chức khác trong chính quyền. Các tu sỹ chỉ khuyên nhủ và cảnh báo mà thôi - mặc dù họ cũng có thể rút phép thông công của những người không chịu cảnh tỉnh, và đó là một hình phạt mà mọi người đều rất sợ. Bạn phải biết là một người bị rút phép thông công thì không những sẽ bị ô nhục và ngay ngáy hãi hùng trước sự giáng phạt của Thượng đế, mà ngay cả an toàn thân thể của người ấy cũng bị đe dọa, vì nếu không nhanh chóng chứng minh được với các tu sỹ rằng mình đã hối cải, anh ta sẽ bị Hội đồng thành phố bắt giam và trừng trị vì tội vô đạo.

Hết chương 12. Mời các bạn đón đọc chương 13 !

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/t34704-utopia-dia-dang-tran-gian-chuong-12.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận