CLARE: Chúng tôi đang say sưa ngủ trong bình minh của một ngày mùa đông khi điện thoại đổ chuông. Tôi bị dựng dậy và nhận ra Henry vẫn đang nằm bên cạnh. Anh ấy với tay qua người tôi và nhấc điện thoại lên. Tôi nhìn đồng hồ, đang là 4 giờ 32 phút sáng. “Xin chào”, Henry nói. Anh ấy lắng nghe trong khoảng một phút. Giờ thì tôi đã hoàn toàn tỉnh giấc. Mặt Henry chẳng để lộ cảm xúc. “Được rồi. Ở nguyên đấy. Chúng tôi sẽ tới ngay.” Anh ấy nhoài người, cúp máy.
“Ai vậy?”
“Là anh. Anh đang ở bãi đỗ xe đường Monroe, không quần áo, trong nhiệt độ âm mười lăm độ. Chúa ơi, hi vọng xe vẫn có thể khởi động.”
Chúng tôi nhảy xuống giường, mặc vội quần áo của ngày hôm qua. Henry đã đi giày ống và khoác áo choàng trước cả khi tôi kịp xỏ quần jeans vào. Anh ấy chạy ra ngoài khởi động xe. Tôi nhét áo sơ mi của Henry, quần lót, quần jeans, tất, ủng, áo khoác và găng tay, kèm một chiếc chăn vào trong túi, đánh thức Alba dậy, mặc quần áo cho nó rồi chạy ra ngoài cửa. Tôi lái xe ra khỏi gara trước khi nó kịp nóng lên, và nó chết máy. Tôi khởi động lại, chúng tôi ngồi đợi chừng một phút rồi tôi thử lần nữa. Hôm qua tuyết rơi dày hơn mười phân, đường Ainslie lụt trong băng tuyết. Alba đang khóc nhè, Henry phải quay sang dỗ con bé. Khi đến Lawrence, tôi tăng tốc và mười phút sau tôi đã đến Drive, không có ai ra ngoài vào lúc này, lò sưởi của chiếc Honda kêu rù rì. Bên kia mặt hồ, trời đang dần hửng sáng. Mọi thứ độc màu xanh và cam, giòn tan trong cái lạnh tê tái. Trong lúc rong ruổi trên Lake Shore Drive, một kí ức mãnh liệt hiện lên trong tôi: cái lạnh, mặt nước tĩnh lặng mơ hồ, những ngọn đèn đường rực sáng: tôi đã từng trải qua khoảnh khắc này trước đó. Tôi vướng sâu vào khoảnh khắc này và nó lan toả, mặc dù chúng tôi đang phóng vút đi trong đô thị mùa đông, nhưng thời gian như đang dừng lại. Chúng tôi đi qua Irving, Belmont, Fullerton, LaSalle: tôi rẽ ở Michiga. Chúng tôi lướt qua con lộ của những cửa hiệu sang trọng vắng vẻ, đường Oak, Chicago, Randolph, Monroe, và giờ đang đi xuống thế giới ngầm bằng bê tông của các bãi đỗ xe. “Hãy lái tới cuối hướng Tây Bắc”, Henry nói. “Ở box điện thoại cạnh trạm bảo v ệ.” Tôi đi theo chỉ dẫn của anh ấy. Kí ức đã biến mất. Tôi cảm thấy như vừa bị thiên thần hộ mệnh bỏ rơi. Bãi đỗ xe hầu như trống trơn. Tôi phóng xe qua những đường kẻ màu vàng để tới chiếc điện thoại thẻ: ống nghe đang đung đưa lơ lửng. Không thấy bóng dáng Henry đâu cả.
“Có thể anh đã quay trở về.”
“Cũng có thể không...” Henry bối rối, tôi cũng vậy. Chúng tôi bước ra khỏi xe. Dưới này rất lạnh. Hơi thở của tôi ngưng tụ lại rồi biến mất. Tôi không nghĩ mình nên về, nhưng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Tôi đi lại trạm bảo vệ và nhìn vào bên trong. Không có ai cả. Những chiếc màn hình theo dõi hiện ra các dải bê tông trống trải. “Chết tiệt. Anh đã đi đâu rồi? Hãy đi vòng quanh thử xem.” Chúng tôi quay trở vào xe và chậm rãi lái qua những gian hầm trống rỗng, đi qua các tấm biển chỉ dẫn: Lái Chậm, Các Bãi Đỗ Khác, Hãy Nhớ Vị Trí Xe Của Bạn. Không thấy bóng dáng Henry ở đâu cả. Chúng tôi nhìn nhau bất lực.
“Anh từ đâu đến?”
“Cậu ấy không nói.”
Chúng tôi lái xe về nhà trong im lặng. Alba đang ngủ. Henry nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. Bầu trời không một gợn mây và ửng hồng ở phía đông. Đã có nhiều xe hơn trên đường, những người đi làm sớm. Trong lúc đợi đèn đỏ ở đường Ohio, tôi nghe có tiếng những con hải âu đang kêu quang quác. Mặt đường tối om với muối và tuyết. Cả thành phố mềm mại, trắng muốt và mờ mịt trong tuyết. Mọi thứ thật tuyệt đẹp. Chúng tôi có vẻ như vô sự vào lúc này, nhưng sớm hay muộn, sẽ có chuyện khủng khiếp xảy đến.
Sinh nhật
Thứ Năm, 15/6/2006 (Clare 35 tuổi)
CLARE: Mai là sinh nhật Henry. Tôi đang ở Vintage Vinyle tìm đĩa hát mà anh ấy thích nhưng chưa có. Tôi đã hy vọng có thể nhờ sự giúp đỡ của Vaughn, chủ cửa tiệm, vì Henry thường ghé cửa hàng này trong nhiều năm nay. Nhưng thay vì Vaughn, một cậu học sinh phổ thông đang đứng sau quầy bán hàng. Cậu ấy mặc áo phông Seven Dead Arson và chắc hẳn còn chưa ra đời khi hầu hết các đĩa trong cửa tiệm được phát hành. Tôi lục trong các thùng đĩa. Sex Pistols, Patti Smith, Supertramp, Matthew Sweet, Phish, Pixies, Pogues, Pretenders, B-52’s, Kate Bush, Buzzcocks, Echo và Bunnymen, The Art of Noise, The Nails, The Clash, The Cramps, The Cure, Television. Tôi dừng lại trước một đĩa nhạc đã mờ sỉn của Velvet Underground và gắng nhớ xem đã từng thấy nó ở nhà hay chưa, nhưng khi nhìn kĩ, nó chỉ là một tập hợp các bài mà Henry đã có từ những album khác. Dazzling Killmen, Dead Kennedys. Vaughn bước vào cửa tiệm, tay bưng một thùng bự chảng, thả nó xuống mặt quầy thanh toán rồi lại ra ngoài. Anh ấy làm vậy thêm vài lần nữa, rồi cùng cậu học sinh kia bắt đầu gỡ đồ trong thùng, xếp các đĩa nhạc lên quầy, háo hức trước các đĩa mà tôi chưa từng nghe đến bao giờ. Tôi lại chỗ Vaughn và đặt ba đĩa nhạc xuống trước mặt anh ấy. “Chào, Clare”, anh ấy cười hớn hở. “Em khoẻ chứ?”
“Chào Vaughn. Mai là sinh nhật Henry. Giúp em đi.”
Anh ấy đưa mắt nhìn ba chiếc đĩa tôi đã chọn. “Cậu ấy đã có hai đĩa này rồi”, anh ấy hất đầu về phía đĩa của Lillipur và Breeders, “còn cái này tệ khủng khiếp”, chỉ tay về đĩa Plasmatics. “Nhưng bìa đĩa rất đẹp, nhỉ?”
“Phải. Anh có thứ gì đó trong thùng mà Henry sẽ thích không?”
“Không. Đống này chỉ toàn của thập niên 50. Một bà lão vừa qua đời. Có thể em sẽ thích thứ này, anh chỉ vừa có nó ngày hôm qua.” Anh ấy lôi một tập hợp Golden Palominos ra khỏi thùng Hàng Mới Nhập. Có một số bài mới, nên tôi đã mua nó. Đột nhiên Vaughn mỉm cười với tôi. “Anh có món đặc biệt cho em đây. Anh đã để dành nó cho Henry.” Vaughn đi vòng ra phía sau quầy thanh toán và lục lọi một hồi. “Đây.” Vaughn đưa cho tôi chiếc đĩa đựng trong bìa trắng. Tôi lôi đĩa ra và đọc nhãn đĩa: Annette Lyn Robinson, nhà hát Paris, 13 tháng Năm, 1968, Lulu. Tôi nhìn Vaughn với vẻ dò hỏi. “Không phải gu thông thường của cậu ấy, nhỉ? Nó là đĩa lậu của một buổi hoà nhạc; nó không được chính thức phát hành. Một thời gian trước cậu ấy đã nhờ anh để ý tìm đĩa nhạc của bà ấy, nhưng nó cũng không phải gu của anh nên sau khi tìm thấy anh cứ quên không nói cho cậu ấy biết. Anh đã nghe thử, nó rất hay. Chất lượng âm thanh rất tốt.”
“Cám ơn anh.” Tôi thì thào.
“Không có gì. Mà này, có chuyện gì mà quan trọng hoá vậy?”
“Annette là mẹ của Henry.”
Vaughn nhướn chân mày, trán của anh ấy nhăn lại một cách khôi hài. “Không giỡn? Ừ, phải, cậu ấy có nét giống bà ấy. Thú vị nhỉ. Tại sao cậu ấy không bao giờ nhắc đến bà nhỉ?”
“Anh ấy không mấy khi nói về bà. Bà đã qua đời khi anh ấy còn nhỏ, trong một tai nạn xe hơi.”
“Ồ. Đúng vậy. Anh nhớ mang máng có chuyện đó. Mà em có cần thêm gì nữa không?”
“Không, chỉ vậy thôi.” Tôi thanh toán và ra về, ôm chặt giọng hát của mẹ Henry vào lòng trong lúc bước qua đường Davis trong niềm hân hoan.
Thứ Sáu, 16/6/2006 (Henry 43, Clare 35)
HENRY: Hôm nay là sinh nhật 43 của tôi. Tôi mở mắt thức dậy lúc 6 giờ 46 phút sáng, mặc dù hôm nay tôi được nghỉ làm. Tôi không thể ngủ tiếp. Tôi nhìn sang Clare; cô ấy đang hoàn toàn thả mình vào giấc ngủ, tay dang rộng, tóc xoã quanh gối. Cô ấy trông rạng rỡ, kể cả khi những nếp hằn từ gối đang hiện trên má. Tôi cẩn thận ra khỏi giường, vào trong bếp pha cà phê. Tôi xả nước trong phòng tắm một hồi, chờ cho nước nóng. Đáng lẽ chúng tôi phải gọi thợ sửa ống đến, nhưng chúng tôi luôn luôn quên bẵng. Tôi trở vào nhà bếp, rót một cốc cà phê và mang theo vào phòng tắm, đặt lên bồn rửa mặt. Tôi ngó nghiêng khuôn mặt của mình rồi bắt đầu cạo râu mà chẳng cần nhìn, nhưng hôm nay, để vinh danh ngày sinh của mình, tôi cẩn trọng hơn.
Tóc tôi đã gần bạc hết, chỉ còn một chút đen ở hai bên thái dương, và đường chân mày vẫn còn đen nhánh. Tôi đã để tóc dài hơn một chút, không dài như tôi vẫn thường để trước khi gặp Clare, nhưng cũng không ngắn. Da tôi thô ráp, các nếp nhăn đã xuất hiện ở khoé mắt, trên trán và từ cánh mũi tới kho é miệng. Mặt tôi quá gầy guộc. Cả người tôi quá gầy guộc. Không gầy như tù nhân trại Auschwitz, nhưng cũng không như những người bình thường khác. Có lẽ gầy như các bệnh nhân ung thư thời kỳ đầu, hay như người nghiện. Tôi không muốn nghĩ đến chuyện đó nên tiếp tục cạo. Tôi rửa bọt, bôi nước xoa mặt, lùi lại và ngắm thành quả.
Hôm qua ở thư viện có người nhớ đến sinh nhật tôi nên Roberto, Isabelle, Matt, Catherine và Amelie đã tập trung lại rủ tôi đi ăn trưa ở Beau Thai. Tôi biết, tại nơi làm việc, có những lời xì xầm về sức khoẻ của tôi, về việc tại sao tôi đột nhiên sút cân rất nhiều và già đi nhanh chóng. Mọi người rất tử tế, quá tử tế, như cách người ta vẫn đối xử với bệnh nhân AIDS và bệnh nhân đang trải qua hoá chất trị liệu. Tôi gần như ước có người hỏi thẳng tôi, để tôi có thể nói dối họ cho xong. Nhưng thay vì làm vậy, chúng tôi chỉ đùa quanh quẩn và ăn Pad Thai., Prik King, Gà Cashew và Pad Seeuw. Amelia đã tặng cho tôi một pound hạt cà phê ngon tuyệt. Catherine, Ma, Roberto và Isabelle đã vung tay tặng tôi một bản sao chép cuốn Nghệ Thuật Thư Pháp trong bộ sưu tập của bảo tàng J. Paul Gery mà tôi đã thèm thuồng ngắm nghía trong hiệu sách của thư viện Newberry suốt nhiều năm nay. Tôi ngẩng lên nhìn họ, xúc động, và nhận ra các đồng nghiệp của tôi tưởng tôi sắp chết. “Mọi người...” tôi mở miệng, nhưng rồi không biết phải nói gì, nên tôi bỏ lửng. Chẳng mấy khi ngôn ngữ bỏ rơi tôi.
Clare thức dậy, Alba tỉnh giấc. Tất cả chúng tôi mặc quần áo và sắp xếp đồ đạc. Chúng tôi sẽ đi đến sở thú Brookfield với Gomez, Charisse và lũ trẻ của họ. Chúng tôi dành cả ngày thong thả ngắm những con khỉ, chim hồng hạc, gấu bắc cực và rái cá. Alba thích nhất là những con mèo lớn. Rosa nắm tay Alba và kể cho con bé nghe về khủng long. Gomez giả làm một con tinh tinh giống hệt, Max và Joe chạy điên cuồng khắp nơi, giả làm những con voi to lớn và chơi điện tử cầm tay. Charisse, Clare và tôi đi tản bộ bâng quơ, nói chuyện phiếm, và tắm trong ánh nắng. Đến bốn giờ chiều, tất cả lũ trẻ đã mệt nhoài và cáu kỉnh, nên chúng tôi nhét chúng lên xe, hứa sẽ lại dẫn chúng đến đây vào một ngày gần nhất, rồi lên đường về nhà.
Cô trông trẻ đến chính xác bảy giờ. Clare hối lộ và doạ dẫm Alba phải ngoan, rồi chúng tôi lẩn đi mất. Chúng tôi diện những bộ quần áo đẹp nhất theo lời nài nỉ của Clare. Trong lúc lướt về phía nam của cao tốc Lake Shore Drive, tôi nhận ra tôi không biết mình đang đi đâu. “Rồi anh sẽ thấy”, Clare nói. “Không phải là một bữa tiệc bất ngờ đấy chứ?” tôi hỏi ngần ngại. “Không”, Clare cam đoan. Cô ấy ra khỏi cao lộ ở Roosevelt và lách qua Pilsen, khu vực của người Mỹ gốc Tây Ban Nha, chỉ ngay phía nam khu trung tâm thành phố. Từng nhóm trẻ con đang chơi trên đường, và chúng tôi len lỏi qua chúng, rối cuối cùng đỗ gần đường 20 và Racine. Clare dẫn tôi đến một căn nhà hai tầng xiêu vẹo rồi nhấn chuông cửa. Chúng tôi được mở cho vào. Chúng tôi đi qua khu vườn đầy rác rồi đi lên những bậc thang ọp ẹp. Clare gõ cửa và Lourdes, một người bạn từ trường mỹ thuật của Clare, mở cửa. Lourdes cười và vẫy tay mời chúng tôi vào nhà. Khi bước vào trong, tôi nhận ra căn hộ này đã được biến thành một nhà hàng chỉ với một bàn ăn duy nhất. Mùi thơm phức đang lan toả khắp căn hộ. Bàn ăn được trải khăn trắng muốt, đồ sứ và nến. Một cái máy hát đĩa nằm trên nóc chiếc tủ bát được chạm trổ nặng nề. Trong phòng khách treo đầy lồng chim: những con vẹt, những con hoàng yến, và những con vẹt xanh bé tí teo. Lourdes hôn lên má tôi và nói, “Chúc mừng sinh nhật, Henry”, và một giọng quen thuộc cất lên sau đó, “Phải rồi, chúc mừng sinh nhật!” Tôi thò đầu vào bếp và thấy Nell đang ở đó. Bà đang khuấy thứ gì đó trong chảo và vẫn không ngừng lại ngay cả khi tôi quàng tay quang người và khẽ nhấc bổng bà lên một chút khỏi mặt đất. “Ồ!” bà nói. “Dạo này cậu chăm ăn Wheatles[1] phỏng?” Clare ôm Nell và họ mỉm cười với nhau. “Nó có vẻ bất ngờ”, Nell nói, và Clare chỉ mỉm cười càng rạng rỡ hơn. “Thôi nào, ngồi xuống đi”, Nell ra lệnh. “Bữa tối đã sẵn sàng.”
[1]Một loại ngũ cốc.
Chúng tôi ngồi đối diện nhau. Lourdes dọn ra các món khai vị truyền thống của Ý được bày biện tinh tế trên các đĩa nhỏ: thịt giăm bông Prosciutto trong vắt với dưa vàng, những con trai mềm đang bốc khói, những lát cà rốt mỏng và củ cải đường có vị thì là và dầu olive. Dưới ánh nến, làn da của Clare trông ấm áp và đôi mắt ẩn trong bóng tối. Chuỗi ngọc trai cô ấy đang đeo vẽ ra đường nét của những chiếc xương cổ và khoảng trống mịn màng trắng trẻo phía trên ngực; chúng nâng lên rồi hạ xuống theo mỗi nhịp thở của cô ấy. Clare bắt gặp ánh mắt tôi đang nhìn cô ấy đăm đăm, mỉm cười rồi quay đi chỗ khác. Tôi nhìn xuống đĩa, nhận ra tôi đã ăn hết món trai của mình và đang ngồi đó cầm chiếc dĩa nhỏ trên tay như một thằng ngốc. Tôi đặt nó xuống; Lourdes dọn đĩa của chúng tôi đi và mang ra món tiếp theo.
Chúng tôi ăn món cá ngừ sống chan sốt cà chua, táo và húng quế ngon tuyệt của Nell. Rồi ăn salad gồm rau diếp đắng và ớt ngọt, tiếp đến là những quả ôliu màu nâu khiến tôi nhớ đến bữa tối tôi đã ăn cùng mẹ tại khách sạn ở Athens khi tôi còn rất nhỏ. Chúng tôi uống Sauvigon Blanc, cụng li không ngừng (“Vì những quả ôliu!” “Vì những cô trông trẻ!” “Vì Nell!”) Nell xuất hiện từ trong bếp mang theo một chiếc bánh sinh nhật nhỏ màu trắng được cắm đầy nến. Clare, Nell và Lourdes hát “Chúc mừng sinh nhật”. Tôi ước rồi thổi tắt nến chỉ trong một hơi. “Điều đó có nghĩa rằng cậu sẽ có được ước muốn của mình”, Nell nói, nhưng điều ước của tôi không phải điều có thể ban tặng. Những con chim nói chuyện với nhau bằng giọng lạ lẫm trong lúc chúng tôi ăn bánh, rồi Lourdes và Nell rủ nhau biến mất vào trong bếp. Clare nói, “Em có quà cho anh đây. Hãy nhắm mắt lại đi.” Tôi nhắm mắt lại. Tôi nghe tiếng Clare đẩy ghế lùi ra khỏi bàn. Cô ấy đi ngang qua căn phòng. Rồi có tiếng kim chạm vào đĩa nhựa, tiếng rít, tiếng vĩ cầm, giọng nữ cao cất lên như cơn mưa bất chợt xuyên qua tiếng ầm ĩ trong nhà hát. Giọng của mẹ tôi đang hát Lulu. Tôi mở mắt. Clare đang ngồi phía bên kia bàn, mỉm cười. Tôi đứng dậy và kéo cô ấy ra khỏi ghế, ôm ghì cô ấy. “Thật tuyệt vời”, tôi nói, rồi nghẹn ngào, không th tiếp tục, nên tôi hôn cô ấy.
Một hồi lâu sau đó, khi đã nói lời tạm biệt với Nell và Lourdes trong quyến luyến, ướt át, khi chúng tôi đã về đến nhà và trả tiền cho cô giữ trẻ, khi đã quan hệ cùng nhau trong mê mẩn, mệt mỏi và thích thú, chúng tôi nằm trên giường trong giấc ngủ gần kề, và Clare nói, “Anh đã có một sinh nhật vui vẻ chứ?”
“Hoàn hảo”, tôi nói. “Một sinh nhật vui vẻ nhất,”
“Có bao giờ anh ước mình có thể khiến thời gian ngưng lại?” Clare hỏi. “Em không phiền nếu phải ở đây trong giây phút này mãi mãi.”
“Ừ”, tôi nói, rồi nằm nghiêng người lại. Trong lúc tôi đang trôi vào giấc ngủ, Clare nói tiếp, “Em cảm thấy như chúng ta đang trên đỉnh của tàu trượt”, nhưng rồi tôi chìm vào giấc ngủ và quên không hỏi cô ấy, vào sáng hôm sau, ý cô ấy là gì.