HENRY: Tôi mơ thấy mình đang ở Newberry, đang tổ chức Show’N Tell cho các sinh viên cao học của Cao đẳng Columbia. Tôi đang chỉ cho họ xem cổ tịch – các cuốn sách đầu tiên được in, rồi các mẩu tích của Gutenberg, Game and Play of Chess của Caxton, Eusebius của Jensen. Buổi giới thiệu diễn ra rất suôn sẻ, họ hỏi những câu hỏi rất thú vị. Tôi lục lọi trong xe đẩy để tìm cuốn sách đặc biệt tôi vừa tìm được trong thư viện, một cuốn sách mà tôi đã không biết chúng tôi có. Nó được bọc trong một chiếc hộp nặng nề màu đỏ không tiêu đề, chỉ có số hiệu CASE WING fZW 983.D 453, dán tem vàng có đóng dấu của thư viện Newberry. Tôi đặt chiếc hộp lên bàn và trải miếng lót ra. Tôi mở hộp, bên trong là đôi chân của tôi, hồng hào và khoẻ khoắn. Chúng nặng đến bất ngờ. Khi tôi đặt chúng lên miếng lót, những ngón chân ngoe nguẩy như muốn nói những lời chào, để nói với tôi rằng chúng vẫn có thể làm vậy. Tôi bắt đầu thuyết trình về chúng, giải thích sự liên quan giữa đôi chân của tôi với nghệ thuật in ấn Venice thế kỉ XV. Các cô cậu sinh viên chăm chú ghi chép lại. Một người trong số họ, cô gái tóc vàng xinh xắn trong chiếc áo hai dây điểm xuyết những vật trang trí sáng loá, chỉ vào đôi chân của tôi và nói, “Nhìn kìa, chúng trắng ởn!” Đúng vậy, lớp da đã chuyển sang màu trắng chết chóc, đôi chân đã không còn sự sống và đang bắt đầu phân huỷ. Tôi buồn bã nhắc mình rằng việc đầu tiên phải làm vào sáng mai là gửi chúng đến bộ phận bảo tồn.
Trong giấc mơ, tôi đang chạy. Mọi việc đều yên ổn và tốt đẹp. Tôi chạy ven hồ, từ bãi biển đường Cây sồi hướng về phía Bắc. Tôi thấy trái tim mình đập hối hả, thấy phổi mình nâng lên rồi hạ xuống nhịp nhàng. Tôi đang di chuyển đều đặn. Thật nhẹ nhõm làm sao. Tôi đã sợ mình sẽ không bao giờ có thể chạy được nữa, thế mà giờ đây tôi đang phóng như bay. Thật tuyệt.
Nhưng rồi chuyện bắt đầu tệ hại. Từng phần của cơ thể tôi lần lượt rụng rời. Đầu tiên là tay trái. Tôi dừng lại và nhặt nó lên, phủi sạch cát, rồi lại gắn vào người, nhưng nó không thể dính chặt, nó tiếp tục rụng ra chỉ sau nửa dặm. Tôi đành kẹp nó vào nách bằng tay còn lại, tự nhủ có lẽ khi về nhà, tôi có thể gắn nó ch t hơn. Nhưng rồi đến lượt tay còn lại rụng ra, và tôi chẳng còn tay nào để nhặt đôi tay tôi đã mất. Nên tôi tiếp tục chạy. Không quá tệ; nó không hề đau. Liền sau đó tôi nhận thấy của quý của mình đã tuột ra và rơi vào ống quần bên trái. Nó cứ nẩy quanh khó chịu, rồi mắc kẹt ở gấu quần bằng chun. Tôi chẳng thể làm được gì, nên tôi lờ nó đi. Rồi tôi lại cảm thấy hai bàn chân của mình đang rạn nứt trong đôi giày bên dưới, chúng rụng khỏi mắt cá khiến tôi ngã dập mặt xuống đường. Tôi biết rằng nếu tôi cứ nằm ở đây, tôi sẽ bị những người đang chạy khác dẫm đạp lên mình, nên tôi bắt đầu lăn lộn. Tôi lăn và lăn cho đến khi ra tới mặt nước biển, và những con sóng cuốn tôi ra khơi, bên dưới đại dương. Và tôi tỉnh giấc, thở hổn hển.
Tôi mơ thấy mình đang diễn ba-lê. Tôi là vũ công nữ chính. Tôi đứng trong phòng thay đồ và bị Barbara, chuyên viên phục trang của mẹ tôi, quấn lên người bộ váy nỉ bó sát màu hồng. Barbara là một người cứng cỏi, nên ngay cả khi chân tôi đang đau phát điên, tôi cũng không dám mở miệng phàn nàn trong lúc bà ân cần ấn hai gót chân của tôi vào trong đôi giày múa bằng xa-tanh màu hồng dài ngoằng. Xong xuôi, tôi loạng choạng đứng dậy và rên rỉ. “Đừng có ẻo lả như vậy” Barbara nói, nhưng rồi bà dịu lại và tiêm cho tôi một liều moóc-phin. Chú Ish xuất hiện ở ngưỡng cửa phòng thay đồ rồi chúng tôi vội vã đi qua những dãy hành lang bất tận phía sau sân khấu. Tôi biết chân của mình đang đau mặc dù tôi không thể nhìn thấy hay cảm nhận được chúng. Chúng tôi hối hả đi đến sàn diễn, và đột nhiên, khi đã đến bên cánh gà, nhìn vào sân khấu, tôi nhận ra đây là vở kịch Kẹp Hạt dẻ và tôi sắm vai bà tiên. Chẳng hiểu sao nó khiến tôi khó chịu. Đây không phải điều mà tôi trông đợi. Nhưng có ai đó khẽ đẩy tôi, và tôi lảo đảo tiến ra sân khấu. Tôi nhảy. Mắt tôi như đui chột giữa ánh đèn sân khầu, tôi nhảy mà không cần nghĩ ngợi, không cần biết đến vũ điệu, trong cơn đau mãnh liệt. Cuối cùng tôi ngã sõng soài, thút thít khóc, và khán giả đứng dậy, vỗ tay khen ngợi.
Thứ Sáu, 3/9/2006 (Clare 35, Henry 43)
CLARE: Henry giơ củ hành lên và nhìn tôi vẻ nghiêm trọng. “Đây là củ hành.”
Tôi gật đầu. “Phải, em đã được đọc về chúng.”
Anh ấy nhướn một bên chân mày. “Rất tốt. Giờ thì nghe rõ nhé, để lột vỏ hành, em lấy một con dao sắc, cầm nghiêng củ hành đã nhắc đến ở trên thớt, và bắt đầu cắt hai bên đầu, như thế này. Rồi em có thể bóc vỏ, như thế này. Được chứ? Giờ thì bắt đầu thái. Nếu em định làm hành tây tẩm bột chiên thì thái từng lát một, nhưng nếu em muốn nấu súp hay sốt mì Ý, thì em thái khúc, như thế này.”
Henry đã quyết định sẽ dạy tôi nấu ăn. Tất cả bàn nấu và tủ bếp đều quá cao so với chiếc xe lăn của anh ấy, nên chúng tôi ngồi ở bàn ăn, vây quanh bởi chén bát, dao đĩa và hộp đựng sốt cà chua. Henry đẩy thớt và dao về phía tôi. Tôi đứng dậy, lóng ngón thái hành tây. Henry kiên nhẫn theo dõi. “Được rồi, tốt lắm. Giờ đến lượt ớt xanh. Em cắt quanh chỗ này, gọt bỏ cuống.”
Chúng tôi làm sốt cà chua tỏi, pesto và lasagna. Hôm sau lại làm bánh quy, bánh sô-cô-la hạnh nhân. Alba mừng rơn. “Nhiều hơn nữa đi ạ,” con bé nài nỉ. Chúng tôi chần trứng và cá hồi, tự làm pizza. Tôi phải thừa nhận rằng nấu ăn rất thú vị. Nhưng đêm đầu tiên khi phải tự nấu bữa tối một mình, tôi rất sợ. Tôi đứng trong bếp, vây quanh bởi nồi niêu xoong chảo. Món măng tây đã quá lửa, và tôi tự làm bỏng mình khi lấy cá nhám ra khỏi lò. Tôi bày mọi thứ ra đĩa và dọn lên bàn ăn, nơi Henry và Alba đang ngồi đợi sẵn, đĩa trống đặt trước mặt. Henry mỉm cười động viên. Tôi ngồi xuống. Henry nâng li sữa và nói “Chúc mừng đầu bếp mới!” Alba cụng li với anh ấy, và chúng tôi bắt đầu ăn. Tôi nhận ra chúng có vị không tồi. “Ngon lắm mẹ ạ!” Alba nói, và Henry gật đầu. “Ngon tuyệt!” Henry tán thưởng, chúng tôi nhìn nhau không rời, và tôi nghĩ, Đừng bỏ em ở lại.