Vợ Người Du Hành Thời Gian Chương 26

Chương 26
Biệt ly Thứ Sáu, 2/2/2007 (Clare 35)

CLARE: Tôi ngủ suốt ngày. Tiếng động vang lên quanh nhà: tiếng xe rác chạy trong hẻm, tiếng mưa, tiếng những ngọn cây gõ cửa phòng ngủ của tôi. Tôi ngủ. Tôi sống trong giấc ngủ triền miên, muốn có nó, tận dụng nó, và xua đuổi những giấc mơ, khước từ, cự tuyệt. Giấc ngủ đã trở thành người bạn tình, sự chối bỏ, liều thuốc mê và sự lãng quên của tôi. Điện thoại đổ chuông rồi lại đổ chuông. Tôi đã tắt hộp thư thoại có tiếng trả lời của Henry. Đang là buổi trưa, đang là đêm tối, và đang là bình minh. Mọi thứ chỉ còn xoay quanh chiếc giường này, giấc ngủ bất tận biến mọi ngày vào một ngày, khiến thời gian ngừng lại, kéo giãn và co rút thời gian cho đến khi nó trở nên vô nghĩa.

Có đôi lúc giấc ngủ bỏ rơi tôi, và tôi phải giả vờ như đang ở trong nó, giống như những lần Etta vẫn đến đánh thức tôi dậy đi học. Tôi thở chậm và sâu. Tôi khiến đôi mắt mình bất động bên dưới hai mi, tôi khiến tâm trí tôi bất động, và không lâu sau giấc ngủ sẽ nhìn thấy bản sao hoàn hảo của chính nó và đến hoà làm một.

Có đôi lúc tôi thức dậy và với tay sang Henry. Giấc ngủ xoá hết mọi sự khác biệt: xưa và nay; sự sống và cái chết. Tôi không còn đói khát, không còn những sự phù du hão huyền rỗng tuếch, không còn bận tâm. Sáng nay tôi liếc thấy khuôn mặt mình trong gương khi vào nhà vệ sinh. Tôi gầy hốc hác, làn da nhợt nhạt tựa giấy, mắt thâm quầng và tóc rối bù. Tôi trông như đã chết. Tôi chẳng còn tha thiết điều gì.

Kimy ngồi cuối chân giường. Bà nói, “Clare? Alba đã đi học về... Cháu có muốn để nó vào một lát không?” Tôi giả vờ như đang ngủ. Bàn tay nhỏ nhắn của Alba vuốt má tôi. Nước mắt lọt qua khoé mắt tôi. Alba đặt thứ gì đó, ba-lô của con bé? Hay hộp đàn violon? xuống sàn nhà và Kim nói, “Cởi giày ra đã, Alba”, rồi Alba trèo lên giường với tôi. Con bé quàng tay tôi qua người nó, gối đầu bên dưới cằm tôi. tôi thở dài và mở mắt. Alba vờ như đang ngủ. Tôi nhìn đăm đăm vào đôi lông mi đen dài, vào chiếc miệng rộng và làn da trắng của con bé; con bé đang thở từ tốn, cẩn thận, nó bám lấy hông tôi bằng bàn tay mạnh mẽ, con bé có mùi bút chì mới gọt, mùi nhựa bôi dây đàn và mùi xà phòng. Tôi hôn lên đầu nó. Alba mở mắt và bóng dáng Henry trong con bé khiến tôi gần như không thể ương đầu. Kimy đứng dậy đi ra khỏi phòng.

Hãy mở ra sau khi anh mất

Ngày 10/12/2006

Clare thân yêu,

Trong lúc viết những dòng chữ này, anh đang ngồi ở chiếc bàn trong căn phòng ngủ cuối nhà và nhìn ra xưởng vẽ của em bên kia khu vườn đầy tuyết xanh của trời đêm, mọi vật trơn bóng và giòn giã trong băng tuyết, thật tĩnh lặng. Đó là một trong những buổi tối khi cái lạnh của vạn vật dường như khiến thời gian chậm lại, như điểm giữa của chiếc đồng hồ cát nơi thời gian chảy qua từ tốn. Anh có cảm giác, rất giống với những khi anh sắp hết thời gian nhưng hầu như không bao giờ ngược lại, rằng anh đang trôi bồng bềnh trong dòng thời gian, lênh đênh thư thái trên bề mặt của nó như một phụ nữ phì nhiêu đang bơi lội. Có gì đó thúc giục anh, trong buổi tối ở nhà một mình này (em đang đi dự buổi tiệc độc tấu của Alicia ở nhà thờ thánh Lucy) phải viết cho em một lá thư. Bỗng nhiên anh muốn để lại thứ gì đó, sau khi anh mất. Anh nghĩ rằng thời gian còn lại của mình đang dần cạn kiệt. Anh cảm thấy như thể năng lượng, niềm vui thú, sự duy trì dự trữ của mình đang rất mong manh và nhỏ bé. Anh không nghĩ mình có thể tiếp tục được lâu nữa. Anh biết rằng em hiểu.

Nếu em đang đọc những dòng chữ này, thì chắc hẳn anh đã chết. (Anh nói chắc hẳn, vì chúng ta chẳng bao giờ biết được chuyện gì sẽ xảy ra; sẽ là ngớ ngẩn và tự coi trọng bản thân thái quá nếu vạch định cái chết của ai đó như một sự việc tuyệt đối.) về phần mình, anh hi vọng nó sẽ đơn giản, nhanh chóng và rõ ràng. Anh hi vọng rằng mình sẽ không khiến mọi chuyện trở nên om xòm. Anh xin lỗi. (Những lời này nghe như một bức thư tuyệt mệnh. Thật lạ.) nhưng em biết rằng nếu có thể ở lại, nếu anh có thể lựa chọn tiếp tục sống, anh sẽ bấu víu vào từng giây phút. Cái chết này, bất kể nó là gì, em biết nó đã tự tìm đến anh và mang anh đi như một đứa trẻ bị bắt bởi những con yêu tinh.

Clare, anh muốn nói với em một lần nữa, rằng anh yêu em. Tình yêu của chúng ta đã như một sợi chỉ dẫn lối qua mê hồn trận, như tấm lưới chắn bên dưới người đu dây, là điều duy nhất có thực trong cuộc sống kì lạ này của anh để anh tin tưởng. Đêm nay anh cảm thấy tình yêu của anh dành cho em hiện hữu trong thế giới này nhiều hơn cả bản thân mình, như thể nó sẽ nán lại và vây quanh em, giữ lấy em và ôm em vào lòng sau khi anh đi mất.

Anh ghét phải nghĩ đến việc để em phải chờ đợi. Anh biết em đã đợi anh cả cuộc đời này, luôn tự hỏi con đường của sự chờ đợi này còn kéo dài đến bao lâu. Mười phút, mười ngày. Một tháng. Anh thật là một ông chồng vô dụng, chẳng thể cậy nhờ, còn em, Clare, như một người thuỷ thủ, như Odysseus đơn độc và bị vùi dập bởi những con sóng lớn, bởi những trái ngang và đôi khi chỉ như một món đồ chơi của Thượng đế. Hãy vì anh, Clare. Sau khi anh chết, hãy thôi chờ đợi, hãy tự do, hãy giải phóng mình khỏi anh. Hãy đặt anh vào sâu thẳm trong em và tiến vào thế giới ngoài kia mà sống. Hãy yêu thế giới ngoài kia và yêu chính em trong nó, hãy đi qua nó như thể nó chẳng mang lại trở ngại gì cho em, như thể thế giới là một phần tự nhiên của em. Anh đã mang đến cho em một cuộc sống vội vã bất định. Anh không có ý nói rằng em đã không sống. Em đã tạo ra những điều tuyệt diệu và ý nghĩa, trong các tác phẩm của em, trong Alba, con bé thật không lời nào tả xiết; và đối với anh, đối với anh, em là tất cả.

Sau khi mẹ anh mất, bố anh đã không còn nhựa sống. Chắc hẳn bà sẽ rất buồn nếu biết được. Mọi phút trong cuộc sống của bố anh kể từ đó đã nhuốm màu u tối vì sự ra đi của mẹ, mọi hành động của ông đã thiếu chiều kích vì bà không còn ở đó để làm chuẩn mực. Khi còn trẻ, anh đã không hiểu, nhưng giờ, giờ thì anh đã hiểu, sự biệt li có thể theo ta như một tổn thương vĩnh cửu, như một con chim đen.

Nếu anh phải sống mà không có em, anh biết rằng mình sẽ không thể chịu nổi. Anh có một giấc mơ, anh nhìn thấy em bước đi vững vàng, mái tóc em long lanh dưới ánh nắng. Tuy chỉ là một giấc mộng, nhưng nó đã gắn chặt vào tâm trí anh, anh luôn muốn khắc hoạ hình ảnh đó, và anh hi vọng rằng nó sẽ trở thành sự thật.

Clare, còn một điều cuối cùng mà anh đã không dám nói với em, vì anh sợ rằng nếu anh nói ra nó sẽ không thể trở thành sự thật (anh biết, thật ngớ ngẩn phải không?) và bởi vì anh vừa không ngừng khuyên em hãy thôi chờ đợi và điều này có thể sẽ là nguyên nhân khiến em phải chờ đợi dài hơn tất cả những lần chờ đợi trước đây. Nhưng anh sẽ nói, phòng khi em cần điều gì đó giúp em bước tiếp, sau khi anh chết.

Mùa hè trước, khi anh đang ngồi trong phòng đợi của Kendrick thì đột nhiên anh thấy mình đứng giữa hành lang của một ngôi nhà xa lạ. Anh mắc kẹt giữa một núi ủng đi mưa, chúng có mùi như những cơn mưa rào. Cuối hành lang, ánh sáng mờ ảo đang bao quanh cánh cửa, nên anh đã tiến lại gần cửa rồi nhìn vào trong, rất chậm rãi và rất khẽ khàng. Căn phòng có màu trắng, và ngập tràn trong ánh bình minh. Bên cửa sổ, một phụ nữ đang ngồi quay lưng lại phía anh, và mặc chiếc áo len màu đỏ san hô, mái tóc dài bạc trắng xoã xuống lưng. Một cốc trà đặt trên chiếc bàn bên cạnh. Chắc hẳn anh đã gây ra tiếng động, hoặc cũng có thể bà ấy cảm nhận được anh đang đứng phía sau nên đã quay lại và nhìn thấy anh. Người phụ nữ đó là em, Clare, đó là em trong hình hài của một bà lão, ở tương lai. Anh đã thật hạnh phúc, Clare, thật hạnh phúc không lời nào tả xiết khi được gặp em, như trở về từ cái chết và ôm em vào lòng, được nhìn những năm tháng hiển hiện trên khuôn mặt em. Anh sẽ không kể cho em thêm nữa, để em có thể tự hình dung, để em có thể bất ngờ đón nhận nó khi thời gian đến, vì nó sẽ, và nó đã. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, Clare ạ. Cho đến khi đó, hãy sống thật trọn vẹn và sống cho hiện tại trong thế giới tuyệt đẹp này.

Trời đã tối và anh đang dần kiệt sức. Anh yêu em, mãi mãi. Thời gian chẳng có nghĩa lí gì với tình yêu đó.

Henry.

Tồn tại

Thứ Bảy, 12/7/2008 (Clare 37 tuổi)

CLARE: Charisse đã đưa Alba, Rosa, Max và Joe đi trượt pa-tanh ở Rainbo. Tôi lái xe đến nhà cậu ấy để đón Alba, nhưng tôi đến sớm còn Charisse về muộn. Gomez cuốn khăn tắm ra mở cửa.

“Em vào đi”, anh ấy nói, rồi mở rộng cửa ra. “Cà phê nhé?”

“Được thôi.” Tôi đi theo anh ấy qua phòng khách bừa bộn của họ vào nhà bếp. Tôi ngồi xuống chiếc bàn vẫn đang ngổn ngang bát đĩa từ bữa sáng, dọn một chỗ đủ rộng để đặt khuỷu tay lên mặt bàn, Gomez sục sạo quanh nhà bếp để pha cà phê.

“Lâu lắm không thấy mặt em.”

“Em khá bận. Alba đang đi học đủ thứ, em phải đưa con bé đi khắp nơi.”

“Em vẫn sáng tác chứ?” Gomez đặt tách và đĩa xuống trước mặt tôi rồi rót cà phê vào. Sữa và đường đã có sẵn ở bàn nên tôi tự lấy.

“Không.”

“Ồ.” Gomez đứng tựa vào bàn nấu ăn, tay ôm cốc cà phê của mình. Tóc anh ấy đen bóng vì nước và được chải phẳng lì. Tôi đã không để ý đường chân tóc của Gomez đang lùi dần về phía sau. “Ngoài việc đưa đón công chúa của em đi khắp nơi, em còn làm gì nữa?”

Tôi làm gì? Tôi đợi. Tôi nghĩ. Tôi ngồi trên giường và ôm chiếc áo vẫn còn vương mùi Henry, hít vào căng phổi mùi hương của anh ấy. Tôi đi lang thang lúc hai giờ sáng, khi Alba đã ngủ an toàn trên giường của con bé; đi những đoạn đường dài cho đến khi mệt lả để có thể chìm vào giấc ngủ. Tôi trò chuyện với Henry như thể vẫn còn ở đây bên tôi, như anh ấy có thể nhìn thấy qua đôi mắt tôi, và suy nghĩ bằng trí não tôi.

“Không có gì nhiều.”

“Hừm.”

“Anh thì sao?”

“Em biết rồi đấy. Công việc. Đóng vai trưởng giả nghiêm khắc trong nhà. Những việc bình thường.”

“Ồ.” Tôi nhấp một ngụm cà phê. Tôi nhìn đồng hồ phía trên bồn rửa bát. Nó có hình dáng một con mèo đen: đuôi nó lắc lư qua lại như một quả lắc và cặp mắt to chuyển động theo mỗi nhịp, kêu tíc tắc ầm ĩ. Đang là 11 giờ 45 phút.

“Em có muốn ăn gì không?”

Tôi lắc đầu. “Không, cảm ơn anh.” Dựa trên đống bát đĩa trên bàn, tôi biết Charisse và Gomez đã ăn dưa mật, trứng bác và bánh mì cho bữa sáng. Lũ trẻ đã ăn Lucky Charms, Cheerios và thứ gì đó có lẫn bơ đậu phộng. Bàn ăn chính thị là hiện trường tái diễn bữa ăn sáng của một gia đình thế kỉ hai mươi mốt.

“Em có đang hẹn hò với ai không?” Tôi nhìn lên và Gomez vẫn tựa người vào chiếc bàn nấu ăn, vẫn giữ cốc cà phê ngang cằm.

“Không.”

“Tại sao không?”

Không phải việc của anh, Gomez ạ. “Em chỉ đơn giản không nghĩ đến nó.”

“Em nên nghĩ đến nó.” Anh ấy đặt cốc vào bồn.

“Tại sao?”

“Em cần điều gì đó mới mẻ. Cần ai đó mới mẻ. Em không thể cứ ngồi một chỗ và đợi Henry x uất hiện cả đời được.”

“Dĩ nhiên em có thể. Cứ chờ mà xem.”

Gomez tiến tới hai bước và đứng sát cạnh tôi. Anh ấy nhoài người và ghé miệng sát tai tôi. “Em không bao giờ nhớ điều này sao?” Anh ấy liếm tai tôi. Có, tôi có nhớ. “Cút đi, Gomez”, tôi rít lên với anh ấy, nhưng tôi không tránh đi chỗ khác. Tôi bị dính chặt vào ghế của mình bởi ý nghĩ đó. Gomez vén tóc tôi lên và hôn vào sau cổ của tôi.

Hãy đến với em! Ôi! Hãy đến với em!

Tôi nhắm mắt lại. Đôi bàn tay léo tôi ra khỏi ghế, cởi cúc áo tôi. Một chiếc lưỡi đặt lên cổ tôi, lên vai tôi và lên ngực tôi. Tôi với tay ra mò mẫm, chiếc khăn tắm rơi xuống sàn. Henry. Đôi bàn tay cởi cúc quần jeans của tôi, kéo chúng xuống, ngả người tôi xuống bàn ăn. Có thứ gì đó bằng kim loại rơi xuống. Thức ăn và dao đĩa, một chiếc đĩa bán nguyệt, vỏ nhựa dính dưới lưng tôi. chân tôi dạng ra. Lưỡi đặt lên vùng kín. “Ôi!” Chúng tôi đang ở trong đồng cỏ. Đang là mùa hè. Một cái chăn màu xanh. Chúng tôi vừa ăn, vị của dưa vẫn còn ở trong miệng. Lưỡi rời ra bỏ lại một khoảng trống, ướt và rộng mở. Tôi mở mắt ra; tôi đang nhìn chằm chằm vào cái cốc nước cam chỉ còn một nửa. Tôi nhắm mắt lại. Dương vật của Henry đều đặn đi vào trong tôi mạnh mẽ. Phải. Em đã rất kiên nhẫn chờ đợi. Henry. Em biết sớm hay muộn anh cũng sẽ trở lại thăm em. Phải. Da chạm da, tay chạm ngực, đôi thân thể bám vào nhau đẩy theo nhịp.

“Ôi, Henry...”

Tất cả dừng lại. Chỉ còn tiếng đồng hồ đang kêu tích tắc. Tôi mở mắt ra. Gomez đang nhìn chằm chằm xuống tôi bằng vẻ tổn thương hay giận dữ? Trong khoảnh khắc, mặt anh ấy vô cảm. Tiếng cửa xe đóng lại. Tôi ngồi dậy, nhảy xuống khỏi bàn và chạy vào phòng tắm, Gomez ném quần áo của tôi vào theo.

Trong lúc mặc quần áo, tôi nghe tiếng Charisse và lũ trẻ đi vào cửa trước, cười đua. Alba gọi, “Mẹ ơi!” và tôi thét lên đáp lại, “Mẹ sẽ ra ngay!” Tôi đứng trong ánh sáng mờ ảo của căn phòng tắm bằng gạch đen và hồng, nhìn chăm chăm vào chính mình trong gương. Tóc tôi dính Cheerios. Hình ảnh của tôi trong gương xanh xao và lạc lối. Tôi rửa tay, cố chải lại tóc bằng những đầu ngón tay. Mình đang làm gì thế này? Mình đã chấp nhận để cho chính mình trở thành loại người gì thế này?

Rồi câu trả lời vụt đến: Giờ mày đã là một kẻ lãng du.

Thứ Bảy, 26/7/2008 (Clare 37 tuổi)

CLARE: Phần thưởng cho Alba vì đã ngoan ngoãn đợi ở các phòng tranh trong lúc tôi và Charisse ngắm các tác phẩm là được đi đến Ed Debevic, một nhà hàng có các hoạt động đặc biệt dành cho thực khách. Ngay khi chúng tôi bước qua cửa, không khí của những năm 1964 tràn ngập. The Kinks đang chơi hết cỡ và các khẩu hiệu được treo khắp nơi:

“Nếu bạn là khách hàng tốt, bạn sẽ gọi thêm món!!!”

“Vui lòng nói rõ ràng khi gọi món.”

“Cà phê của chúng tôi rất ngon, bản thân chúng tôi cũng uống nó!”

Hôm nay là ngày bong bóng động vật; một quý ông trong bộ com-lê màu tía bóng lộn lôi ra một con chó Dachshund cho Alba rồi biến nó thành một cái mũ và đặt nó lên đầu con bé. Con bé vui mừng quấn quít. Chúng tôi xếp hàng suốt nửa tiếng mà Alba không hề phàn nàn một tiếng; con bé ngắm những cô cậu bồi bán tán tỉnh nhau và âm thầm định lượng những con vật bằng bong bóng của những đứa trẻ khác. Cuối cùng chúng tôi được dẫn tới bàn của mình bởi một cậu bồi bàn đeo cặp kính gọng sừng dầy cộm, bảng tên của cậu ta ghi SPAZ. Charisse và tôi mở thực đơn, cố tìm món gì đó ở giữa phô mai Cheddar rán và thịt viên chiên. Alba nói sữa đánh đá liên hồi. Khi Spaz xuất hiện trở lại, Alba bỗng nhiên trở nên ngượng nghịu và phải được dỗ mãi mới nói cho cậu ta biết con bé muốn gọi một li sữa đánh đá vị bơ đậu phộng (và một phần khoai tây chiên nhỏ, vì tôi bảo nó rằng chỉ uống sữa đánh đá vào bữa trưa là không tốt). Charisse gọi mì ống trộn pho mát, còn tôi gọi bánh mì tròn kẹp thịt xông khói, cà chua và xà lách. Khi Spaz vừa đi khuất, Charisse ngân nga, “Alba và Spaz, ngồi trên cây, H-Ô-N...” Alba nhắm mắt lại và đưa tay bịt tai, vừa lắc đầu vừa mỉm cười. Cậu bồi bàn có bảng tên BUZZ oai vệ đi về phía máy karaoke và bật I Love That Old Time Rock and Roll của Bob Seger.

“Tớ ghét Bob Seger”, Charisse nói. “Cậu nghĩ ông ta có mất 30 giây để viết bài hát đó không?”

Sữa đánh đá được mang đến trong chiếc cốc cao với cái ống hút xoắn tít và một ống lắc bằng kim loại đựng số sữa đánh đá không thể chứa thêm trong cốc. Alba đứng dậy để uống, con bé đứng bằng đầu ngón chân để có được góc đứng tốt nhất nhắm cúi xuống hút món sữa đánh đá và bơ đậu phộng. Con chó Dachshund bằng bong bóng cứ không ngừng trượt xuống trán con bé, làm gián đoạn sự tập trung. Con bé ngẩng đầu lên nhìn tôi sau cặp lông mi đen dày của nó và đẩy cái mũ bong bóng lên cao đến nỗi nó chỉ còn bám được vào đầu con bé nhờ tĩnh điện.

“Khi nào bố về ạ?” con bé hói. Charisse phát ra một tiếng động mà người ta vẫn phát ra khi không may để Pepsi chạy lên mũi, rồi bắt đầu ho sặc sụa. Tôi vỗ vào lưng cậu ấy cho đến khi cậu ấy giơ tay ra hiệu bảo tôi dừng lại.

“29 tháng Tám”, tôi nói với Alba. Con bé quay trở lại hút xì xụp cặn của cốc sữa đá trong lúc Charisse nhìn tôi trách móc.

Một lát sau, chúng tôi ngồi trên xe trên cao lộ Lake Shore Drive; tôi cầm lái còn Charisse nghịch đài radio, Alba ngủ trên ghế sau. Tôi rẽ ra khỏi xa lộ ở công viên Irving và Charisse nói, “Alba không biết rằng Henry đã chết sao?”

“Dĩ nhiên con bé biết. Nó đã nhìn thấy Henry lúc anh ấy qua đời”, tôi nhắc cho Charisse nhớ.

“Vậy thì tại sao cậu nói với con bé rằng anh ấy sẽ về vào tháng Tám?”

“Bởi vì anh ấy sẽ. Chính anh ấy đã đưa cho tớ danh sách ngày tháng.”

“Ồ.” Cho dù mắt tôi đang dán vào tường, tôi vẫn có thể cảm nhận được Charisse đang nhìn tôi chằm chằm. “Như vậy không phải kì lắm sao?”

“Alba thích như v ậy.”

“Kì đối với cậu.”

“Tớ không gặp anh ấy.” Tôi cố giữ giọng bình thản, như thể tôi không bị hành hạ bởi sự bất công này, như thể tôi không nuốt cơn oán giận vào lòng khi Alba kể với tôi về những lần gặp gỡ của con bé và Henry, cho dù tôi đang nuốt từng lời nó kể.

Tại sao không phải em, Henry? Tôi hỏi anh ấy trong im lặng trong lúc rẽ vào lối đi ngổn ngang đồ chơi dẫn tới nhà Charisse và Gomez. Tại sao chỉ Alba? Nhưng như thường lệ, chẳng có câu trả lời. Như thường lệ, chuyện phải là như thế. Charisse hôn tạm biệt tôi và bước xuống xe, bình thản bước về phía chiếc cửa đang mở ra huyền ảo, để lộ Gomez và Rosa đang đứng đó, Rosa nhún nhảy giơ cho Charisse xem thứ gì đấy. Charisse cầm lên và đáp trả, rồi ôm chặt con bé. Gomez nhìn tôi chằm chằm, rồi cuối cùng khẽ đưa tay lên vẫy. Tôi vẫy đáp lại. Anh ấy quay người bỏ đi. Charisse và Rosa đã bước vào trong. Cánh cửa khép lại.

Tôi ngồi đó trên lối đi dẫn vào nhà, Alba đang ngủ trên ghế sau. Những con quạ đang bước đi trên bãi cỏ bồ công anh tàn tạ. Henry, anh đang ở đâu? Tôi gục đầu vào tay lái. Hãy cứu em. Không có tiếng trả lời. Sau khoảng một phút, tôi khởi động xe, đi lùi ra khỏi con đường và hướng về nhà trong im lặng.

Thứ Bảy, 3/9/1990 (Henry 27 tuổi)

HENRY: Ingrid và tôi đã để lạc mất xe và chúng tôi đang say xỉn. Trời đã tối, chúng tôi đã đi tới, đi lui, đi vòng quanh khắp xó nhưng vẫn không thấy xe. Tiên sư Lincoln Park. Tiên sư Lincoln Towing. Tiên sư chúng nó.

Ingrid tức tối. Cô ấy đang đi trước mặt tôi. Lưng của cô ấy, thậm chí cái cách hông của cô ấy chuyển động, cũng tức tối. Đây là lỗi của tôi. Câu lạc bộ đêm Park West chết tiệt. Tại sao lại có người mở câu lạc bộ đêm ở giữa Lincoln Park nơi bạn không thể đỗ xe quá mười giây mà không bị Lincoln Towing kéo về ổ để hả hê giam giữ.

“Henry.”

“Gì?”

“Lại cô bé đó.”

“Cô bé nào?”

“Cô bé chúng ta đã nhìn thấy lúc nãy.” Ingrid dừng lại. Tôi nhìn về phía cô ấy đang chỉ.

Cô bé đang đứng trước cửa hàng hoa. Nó mặc thứ gì đó sẫm màu, tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là khuôn mặt trắng và đôi chân trần của nó. Cô bé khoảng bảy, tám tuổi; quá nhỏ để ra ngoài một mình vào ban đêm thế này. Ingrid bước lại gần cô bé, nó đang nhìn cô ấy bình thản.

“Cháu ổn chứ?” Ingrid hỏi cô bé. “Cháu đi lạc hả?”

Cô bé nhìn tôi và nói, “Cháu đã đi lạc, nhưng giờ thì cháu biết mình đang ở đâu rồi. Cảm ơn cô.”, con bé lịch sự nói thêm.

“Cháu có cần đi nhờ về không? Bọn cô sẽ đưa cháu về nếu cô tìm được xe của mình.” Ingrid nhoài người về phía cô bé, mặt cô ấy chỉ cách nó chỉ một gang tay. Tôi bước lại gần họ và nhận ra cô bé đang mặc một chiếc áo gió của đàn ông, nó dài đến tận mắt cá chân cô bé.

“Không cần đâu ạ, cảm ơn cô. Dù sao cháu cũng sống xa nơi này lắm.” Cô bé có mái tóc đen dài và đôi mắt sáng; trong ánh đèn vàng của cửa hàng hoa, nó trông như một cô bé bán diêm thời Victoria.

“Mẹ cháu đâu?” Ingrid hỏi. Cô bé trả lời, “Mẹ cháu ở nhà.” Nó mỉm cười với tôi và nói, “Bà không biết cháu đang ở đây.”

“Cháu đã bỏ nhà đi hả?” Tôi hỏi cô bé.

“Không ạ”, cô bé đáp, và cười. “Cháu đang đi tìm bố, nhưng có lẽ cháu đã đến quá sớm. Cháu sẽ quay lại sau.” Cô bé lách qua Ingrid và tiến lại gần tôi, túm lấy áo choàng của tôi và kéo về phía cô bé. “Chiếc xe đỗ bên kia đường”, cô bé thì thầm. Tôi nhìn sang bên kia đường và thấy chiếc Porsche của Ingrid đang nằm đó. “Cảm ơn...” tôi nói, và cô bé đâm bổ tới hôn tôi, nụ hôn trượt vào gần tai, rồi chạy đi mất, đôi chân trần của nó vỗ lên mặt đường bê tông trong lúc tôi đứng đăm đăm nhìn nó. Ingrid chẳng nói gì trong lúc chúng tôi bước vào xe. Cuối cùng tôi nói, “Con bé thật lạ”, và cô ấy thở dài, nói, “Henry, là một người thông minh nhưng đôi khi anh thật chậm tiêu”, rồi cô ấy thả tôi xuống trước cửa toà nhà của tôi mà không nói thêm một lời.

Thứ Bảy, 29/7/1979 (Henry 42 tuổi)

HENRY: Đâu đó trong quá khứ, tôi đang ngồi ở bãi biển Lighthouse với Alba. Con bé mười tuổi, còn tôi bốn mươi hai. Cả hai chúng tôi đã đi xuyên thời gian. Đó là một buổi chiều muộn ấm áp, có lẽ tháng Bảy hoặc tháng Tám. Tôi đang mặc chiếc quần jeans và áo phông trắng ăn trộm được từ một căn biệt thự Bắc Evanston sang trọng; Alba mặc áo màu hồng mà con bé đã thó từ dây phơi quần áo của một bà lão nào đấy. Nó quá dài so với con bé nên chúng tôi đã buộc nó quanh đầu gối của con bé. Suốt buổi chiều mọi người cứ không ngừng ném cho chúng tôi những cái nhìn kì quái. Có lẽ chúng tôi không thực sự trông như một ông bố và cô con gái thông thường trên bãi biển. Nhưng chúng tôi đã làm hết mức có thể; chúng tôi đã đi bơi và đã xây một lâu đài bằng cát. Chúng tôi đã ăn hotdog và khoai tây chiên mua từ quầy bán dạo trong bãi gửi xe. Chúng tôi không có bạt hay cái khăn tắm nào, nên khắp người chúng tôi dính đầy cát, ẩm ướt và mệt lử. Chúng tôi đang ngắm lũ trẻ con chạy vòng quanh trước những con sóng, và những con chó đần độn phì nhiêu hớn hở chạy theo chúng. Mặt trời đang dần khuất bóng phía sau chúng tôi trong lúc chúng tôi nhìn đăm đăm lên mặt biển.

“Bố kể chuyện cho con nghe đi”, Alba nói, tựa đầu vào tôi như một sợi mì để lâu.

Tôi quàng tay qua người con bé. “Chuyện gì?”

“Một câu chuyện thú vị. Chuyện ngày xưa về bố và mẹ, khi mẹ còn bé.”

“Được rồi. Ngày xửa ngày xưa...”

“Đó là khi nào ạ?”

“Tất cả thời gian là một. Một thời gian dài về trước, và hiện tại.”

“Cả hai sao ạ?”

“Phải, luôn luôn là cả hai.”

“Làm sao có thể là cả hai?”

Con có muốn bố kể chuyện không nào?”

“Có ạ...”

“Vậy thì ngồi yên. Ngày xửa ngày xưa, mẹ con sống trong một ngôi nhà lớn bên cạnh một đồng cỏ, và trên đồng cỏ có một nơi gọi là khoảng rừng thưa, nơi mẹ con vẫn thường ra chơi. Vào một ngày đẹp trời, mẹ con, lúc đó vẫn còn là một cô nhóc tí hon, mái tóc còn to hơn người, ra khoảng rừng thưa chơi và có một người đàn ông đang ở đó...”

“Người đàn ông không mặc quần áo!”

“Một sợi chỉ cũng không”, tôi đồng tình. “Và sau khi mẹ con đưa cho ông ấy chiếc khăn tắm mà mẹ con tình cờ mang theo, ông ấy giải thích rằng ông ấy là người du hành thời gian, và chẳng hiểu vì sao mẹ con đã tin lời ông ấy...”

“Vì đó là sự thật!”

“Phải, nhưng làm sao mẹ con biết được? Dù sao thì mẹ con cũng đã tin ông ấy, và sau đó còn ngớ ngẩn đến mức lấy ông ấy. Và giờ chúng ta ở đây.”

Alba đấm vào bụng tôi. “Bố kể cho đúng đi”, con bé yêu cầu.

“Ôi. Làm sao bố có thể kể cho con nghe điều gì nếu con cứ đánh bố như vây? Chúa ạ.”

Alba im lặng. Rồi con bé nói, “Tại sao bố không bao giờ đến thăm mẹ ở tương lai?”

“Bố không biết, Alba. Nếu có thể, dĩ nhiên bố muốn đến.” Màu xanh đang đậm dần phía chân trời và thuỷ triều đang xuống. Tôi đứng dậy, chìa tay ra cho Alba, kéo con bé đứng dậy. Con bé đứng phủi cát ra khỏi tấm áo ngủ, rồi vấp ngã về phía tôi và nói, “Ối!” rồi biến mất. Tôi đứng đó giữ chiếc áo ngủ bằng cotton ẩm ướt trên tay và nhìn đăm đăm vào dấu chân mảnh khảnh của Alba trong ánh sáng đang lụi dần.

Nguồn: truyen8.mobi/t85846-vo-nguoi-du-hanh-thoi-gian-chuong-26.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận