CLARE: Một buổi chiều thứ Năm, tôi đang ở trong xưởng vẽ làm giấy kozo vàng. Henry đã biến mất gần 24 tiếng, như thường lệ, tôi giằng xé giữa việc không ngừng nghĩ đến thời gian và nơi chốn mà anh ấy có thể đang đi đến, tức giận với anh ấy vì không ở đây, và lo lắng không biết khi nào anh ấy sẽ trở về. Điều đó không giúp ích gì cho sự tập trung của tôi, và tôi đã làm hỏng rất nhiều giấy. Tôi vớt chúng ra rồi ném vào hũ. Tôi dừng lại và nghỉ ngơi một lát, nước trong hũ cũng rất lạnh, mặc dù tôi đã làm ấm nó một chút để tay khỏi bị nứt nẻ. Tôi ôm lấy chiếc cốc sứ. Hơi nóng bốc lên. Tôi ghé mặt vào, hít hà làn hơi ấm và mùi cà phê. Và rồi, tại ơn Chúa, tôi nghe tiếng Henry huýt sáo trong lúc anh ấy đi dọc con đường băng qua vườn để tới xưởng vẽ. Anh ấy giậm cho tuyết rơi khỏi ủng và phủi vai áo choàng. Anh ấy có vẻ cực kỳ hạnh phúc. Tim tôi đập mạnh và tôi đoán: “24 tháng Năm, năm 1989?”
“Phải. Ôi, phải!” Henry nhấc bổng tôi lên, trong khi tôi vẫn đang đeo tạp dề ướt và ủng cao su, rồi xoay tôi vòng vòng. Tôi cười rộ, cả hai chúng tôi cùng cười rộ. Henry ngập tràn trong hưng phấn. “Tại sao em không nói cho anh biết? Anh đã phân vân tự hỏi một cách không cần thiết suốt những năm qua. Đồ ranh mãnh!” Anh ấy cắn vào cổ tôi, rồi thọc lét.
“Nhưng anh đã không biết, nên em không thể nói.”
“Ồ phải rồi. Chúa ạ, em thật tuyệt.” Chúng tôi ngồi xuống chiếc sofa cũ kĩ dơ dáy. “Anh có thể tăng nhiệt độ phòng lên một chút được không?”
“Dĩ nhiên rồi.” Henry nhảy dựng lên và tăng nhiệt độ lò sưởi. “Anh đã đi bao lâu?”
“Gần một ngày.”
Henry thở dài. “Nó có đáng không? Một ngày lo âu để đổi lại chỉ vài giờ tuyệt diệu?”
“Có. Đó là một trong những ngày đẹp nhất đời em.” Tôi im lặng nhớ lại. Tôi vẫn thường lôi ký ức về khuôn mặt của Henry khi nằm trên tôi, vây quanh bởi bầu trời xanh thẳm, và cảm giác được lấp đầy bởi anh ấy. Tôi nghĩ đến nó mỗi khi Henry biến mất hoặc khi tôi không ngủ được.
“Nói cho anh đi...”
“Nói gì?” Chúng tôi nằm trong vòng tay nhau, tìm hơi ấm, tìm sự dỗ dành.
“Chuyện gì xảy ra sau khi anh đi khỏi?”
“Em đã nhặt mọi thứ lên và chỉnh đốn diện mạo, rồi quay trở về nhà. Em đi lên phòng và không gặp phải ai. Em đã đi tắm. Sau một hồi, Etta bắt đầu gõ cửa thình thịch và tra hỏi tại sao em nằm trong bồn tắm giữa ban ngày ban mặt, em đã phải giả vờ rằng mình bị ốm. Xét về mặt nào đó thì đúng là em đã ốm. Em dành suốt mùa hè để thơ thẩn và ngủ triền miên. Em đọc sách. Em đã thu mình vào vỏ ốc mà em tự tạo ra. Đôi khi em đi tới đồng cỏ và hi vọng anh sẽ xuất hiện. Em viết thư cho anh, rồi lại đốt chúng đi. Em đã không ăn uống gì suốt một thời gian dài, khiến mẹ phải đưa em đến gặp bác sĩ tâm lí, rồi lại bắt đầu ăn trở lại. Cuối tháng Tám, bố mẹ em tuyên bố rằng, nếu em không trở nên tươi tỉnh hơn, em sẽ không được đến trường vào mùa thu năm đó, nên ngay lập tức em đã lại hoạt bát vì mục tiêu duy nhất trong đời em là được ra khỏi căn nhà đó và đến Chicago. Trường học là một điều trọng đại; nó mới mẻ, em có căn hộ riêng của mình và em yêu thành phố lớn. E đã có những điều để nghĩ đến ngoại trừ sự thật khó chịu rằng em chẳng biết anh đang ở đâu, cũng như làm cách nào để gặp được anh. Vào thời điểm em tình cờ gặp anh ở thư viện, em đang sống khá ổn; em rất thích công việc của mình, em có bạn bè, em được nhiều bạn trai để ý đến...”
“Ồ?”
“Dĩ nhiên rồi.”
“Em đã hẹn hò với họ?”
“Phải. Một vài lần. Để nghiên cứu... và vì đôi khi em tức giận trước ý nghĩ rằng ở đâu đó ngoài kia, dĩ nhiên anh đang hẹn hò với những người phụ nữ khác. Nhưng các cuộc hẹn của em đã như một vở hài kịch châm biếm. Em đi chơi với những anh chàng trẻ tuổi đáng yêu hoàn hảo làm nghệ thuật, và dành cả buổi tối để nghĩ việc này thật nhàm chán và vô nghĩa, và cứ không ngừng nhìn đồng hồ. Em ngừng hẹn hò sau khi gặp năm anh chàng, vì em có thể thấy rằng mình đang khiến họ phát cáu. Có ai đó đã phát tán tin đồn rằng em là người đồng tính, rồi đến lượt hàng loạt các cô gái rủ em đi chơi.”
“Anh có thể hình dung em trong lốt người đồng tính.”
“Anh mà không ngoan ngoãn là em sẽ chuyển giới đấy.”
“Anh luôn muốn trở thành một cô đồng tính nữ.” Henry có vẻ mơ màng, gà gật; không công bằng chút nào vì tôi đang rạo rực và sẵn sàng nhảy chồm lên người anh ấy. Henry ngáp. “Ít nhất không phải trong kiếp này. Phải trải qua quá nhiều cuộc phẫu thuật.”
Trong đầu tôi, tiếng Cha Compton ngồi phía sau phên sắt của phòng sám hối đang nhẹ nhàng hỏi còn việc gì khác nữa tôi muốn xưng tội hay không. Không, tôi kiên quyết đáp. Không, chẳng còn gì cả. Đó chỉ là một sai lầm. Tôi đã say nên lần đó không được tính. Vị Cha đức hạnh thở dài rồi kéo phên sắt. Buổi xưng tội kết thúc, sự sám hối của tôi là lường gạt Henry, phải để cho nó rơi vào quên lãng, cho đến khi nào chúng tôi không còn trên đời này nữa. Tôi nhìn anh ấy đang mãn nguyện no đủ, thoả thuê với sự duyên dáng của tôi thuở xuân thì, và hình ảnh Gomez đang say sưa ngủ, hình ảnh căn phòng của Gomez trong ánh nắng sớm vụt lên trong tâm trí tôi. Đó chỉ là một sai lầm, Henry, tôi câm lặng giãi bày với anh ấy. Tôi đã chờ đợi, và tôi vấp ngã, chỉ một lần duy nhất đó. Hãy nói với anh ấy, Cha Compton hay người nào đó khác trong đầu tôi nói. Tôi không thể, tôi cãi lại. Anh ấy sẽ ghét tôi.
“Clare”, Henry nói khẽ. “Tâm trí em đang ở phương nào vậy?”
“Em chỉ đang nghĩ.”
“Tại sao em có vẻ buồn vậy?”
“Có bao giờ anh sợ rằng tất cả những điều tuyệt diệu trong cuộc đời chúng ta đều đã xảy ra?”
“Không. Có lẽ đôi khi. Nhưng theo một nghĩa khác. Anh vẫn đang ghé thăm lại quãng thời gian mà em nhắc đến. Anh chỉ sợ rằng chúng ta không dành đủ sự quan tâm cho hiện tại. Du hành thời gian là một việc bất ổn, nên anh thường chú tâm nhiều hơn khi anh đang lạc trong nó, và đôi khi anh nghĩ rằng, nếu anh có thể dành sự chú tâm đó cho hiện tại, thì mọi việc sẽ trở nên thật hoàn hảo. Nhưng gần đây cũng có rất nhiều điều tuyệt diệu xảy đến với chúng ta.” Anh ấy mỉm cười, nụ cười cong cong rạng rỡ thơ ngây, và tôi để mặc cho sự ăn năn của mình lắng xuống, quay trở lại cái hộp nhỏ bé nơi tôi nhét nó gọn gàng như gập một chiếc dù.
“Alba.”
“Alba thật hoàn hảo. Và em thật hoàn hảo. Tình yêu của anh dành cho em chưa bao giờ thay đổi, bất kể thời gian có trôi qua, chúng ta chia sẻ cuộc sống này...”
“Trong hạnh phúc cũng như trong hoạn nạn...”
“Bởi vì có hoạn nạn khiến cho cuộc sống này càng trở nên chân thực. Đó là hiện thực mà anh muốn có.”
Hãy nói cho anh ấy biết, hãy nói ngay lúc này.
“Ngay cả thực tế cũng có thể trở nên không tưởng...” nếu tôi muốn nói thì đây là thời điểm thích hợp nhất. Anh ấy chờ đợi. Tôi không thể nói ra.
“Clare?” Tôi khổ sở nhìn anh ấy, như một đứa trẻ bị bóc mẽ giữa lời nói dối phức tạp, và cuối cùng tôi nói, gần như không nên lời.
“Em đã ng砶ới người khác.” Mặt Henry cứng đờ, hoài nghi.
“Với ai?” anh ấy hỏi mà không nhìn vào tôi.
“Gomez.”
“Tại sao?” Henry vẫn bất động, đợi để bùng phát.
“Em đã say. Bọn em đã cùng tham dự một bữa tiệc, và Charisse đang ở Boston...”
“Đợi đã. Việc này xảy ra khi nào?”
“Năm 1990.”
Anh ấy phá lên cười. “Ôi, Chúa ơi. Clare, đừng làm như vậy với anh chứ. Khỉ thật. Năm 1990. Chúa ạ, anh tưởng em nói với anh chuyện vừa diễn ra tuần trước.” Tôi cười yếu ớt. Anh ấy nói, “Ý anh là, anh không nhảy lên vui mừng trước ý nghĩ đó, nhưng vì anh vừa nói với em rằng em hãy ra ngoài kia và trải nghiệm, thì anh không thể... Anh không biết nữ a.” Anh ấy bắt đầu đứng ngồi không yên. Anh ấy đứng dậy và đi xung quanh xưởng vẽ. Tôi phân vân. Suốt 15 năm tôi đã tái tê trong sợ hãi, sợ rằng Gomez sẽ nói gì đó trong sự ích kỷ thường thấy của anh ấy. Nhưng giờ Henry chẳng bận tâm. Có không?
“Nó thế nào?” Anh ấy hỏi, khá bình thản, quay lưng lại với tôi trong lúc bận rộn với máy pha cà phê.
Tôi cẩn thận lựa lời để nói. “Khác biệt. Ý em là, để không gay gắt chỉ trích Gomez thì...”
“Ồ, em cứ tự nhiên.”
“Đại loại như đứng giữa cửa hiệu đồ sứ và tìm cách dắt con bò đực ra ngoài.”
“Của cậu ấy to hơn anh.” Henry nói chắc nịch.
“Giờ thì em không biết, nhưng hồi đó anh ấy chẳng có chút tế nhị nào. Anh ấy đã hút thuốc trong lúc quan hệ cùng em.” Henry nhăn mặt. Tôi đứng dậy và đi về phía anh ấy. “Em xin lỗi. Đó chỉ là một sai lầm.” Anh ấy kéo tôi lại gần, và tôi nói khẽ vào cổ áo của anh ấy, “Em đã rất kiên nhẫn chờ đợi...”, nhưng rồi tôi không thể nói tiếp. Henry vuốt tóc tôi. “Không sao đâu, Clare”, anh ấy nói. “Chuyện không có gì quan trọng cả.” Tôi tự hỏi liệu anh ấy có đang so sánh Clare mà anh ấy vừa gặp ở năm 1989 với bản thể tôi dối trá đang nằm trong vòng tay anh ấy. Và như thể anh ấy đọc được suy nghĩ của tôi, anh ấy nói, “Còn điều bất ngờ nào nữa không?”
“Chỉ có vậy thôi.”
“Chúa ạ, em thật sự không thể nào giữ được bí mật.” Tôi nhìn Henry, và anh ấy nhìn lại tôi đăm đăm. Tôi nhận thấy rằng hình ảnh của tôi trong mắt anh ấy đã thay đổi.
“Nó khiến anh hiểu rõ hơn... nó khiến anh cảm kích...”
“Anh đang muốn nói với em rằng em đã không phải dằn vặt trong sự so sánh?”
“Phải.” Tôi hôn anh ấy thăm dò, và sau một giây ngập ngừng, Henry hôn lại tôi, và không lâu sau chúng tôi lại trở về với bình thường. Tốt hơn cả bình thường. Tôi đã nói với anh ấy, và không có chuyện gì xảy ra cả, anh ấy vẫn yêu tôi. Tôi cảm thấy cơ thể mình nhẹ nhàng hơn, và tôi thở dài trong sự tốt đẹp của sự sám hối mà không phải hứng chịu, dù là nhỏ nhoi nhất, của sự trừng phạt. Tôi cảm thấy mình như bước ra khỏi chiếc xe vỡ nát tan tành mà không hề bị dù chỉ một vết nhọ trên má. Ở đâu đó ngoài kia, tôi và Henry đang quan hệ cùng nhau trên tấm mền xanh lá trong đồng cỏ, còn Gomez đang nhìn tôi ngái ngủ và đưa bàn tay to bè của anh ấy về phía tôi, và mọi thứ, mọi thứ đang diễn ra ngay vào lúc này, nhưng như ường lệ, đã quá trễ để thay đổi; Henry và tôi trút bỏ quần áo của nhau trên chiếc sofa trong xưởng vẽ như những hộp sô-cô-la còn nguyên vẹn chưa được chạm đến, và vẫn còn chưa muộn, ít nhất chưa phải lúc này.
Thứ Bảy, 14/4/1990 (Clare 18 tuổi)
CLARE: Tôi mở mắt và không biết mình đang ở đâu. Có mùi thuốc lá. Bóng chiếc rèm cửa đổ lên trên bức tường màu vàng rạn nứt. Tôi quay đầu và bên cạnh tôi, đang say sưa ngủ, trên giường của anh ấy, là Gomez. Bỗng chốc tôi nhận ra, và tôi hoảng hốt.
Henry. Ôi, Henry sẽ giết chết tôi. Charisse sẽ ghét bỏ tôi. Tôi ngồi dậy. Phòng ngủ của Gomez ngổn ngang những chiếc gạt tàn ngập ngụa, những bộ quần áo, sách luật, những tờ báo và những bát đĩa bẩn. Quần áo của tôi xếp thành chồng nhỏ trên sàn bên cạnh tôi.
Gomez đang say sưa ngủ. Anh ấy có vẻ bình thản, không giống như một người vừa ngoại tình với bạn thân của bạn gái mình. Mái tóc vàng của anh ấy rối bù, không giống với vẻ chải chuốt hoàn hảo thường ngày. Anh ấy trông như một cậu bé quá khổ, đang kiệt sức vì những trò chơi con trai.
Đầu tôi như muốn nổ tung. Khắp người tôi cảm thấy như vừa bị đánh cho bầm dập. Tôi lảo đảo ngồi dậy và đi dọc hành lang rồi bước vào nhà tắm ẩm ướt, mốc meo, ngập ngụa đồ dùng cạo râu và khăn tắm bẩn. Khi đã đứng giữa phòng tắm, tôi không còn nhớ mình muốn gì; tôi đi vệ sinh và rửa mặt bằng miếng xà phòng cứng, rồi nhìn chính mình trong gương, để xem tôi có khác đi chút nào, để xem nếu Henry có thể nhận ra chỉ bằng việc nhìn vào tôi. Ngoại trừ vẻ như muốn ói trên mặt, tôi trông chẳng khác gì những khi thức dậy vào bảy giờ sáng khác.
Căn nhà im lặng. Có tiếng đồng hồ kêu tích tắc ở đâu đó gần đây. Gomez thuê căn nhà này cùng với hai người bạn học ở trường Luật Northwestern. Tôi không muốn đụng mặt ai khác cả. Tôi quay trở lại phòng của Gomez và ngồi xuống giường.
“Chào buổi sáng.” Gomez mỉm cười, với tay về phía tôi. Tôi dội lại và bật lên khóc. “Ô kìa, mèo con! Clare, này, này...” Anh ấy nhổm người dậy và không lâu sau tôi đã ngồi khóc trong vòng tay của Gomez. Tôi nghĩ đến tất cả những lần tôi khó trên vai Henry. Anh đang ở đâu? Tôi tự hỏi trong tuyệt vọng. Em cần anh lúc này. Gomez không ngừng gọi tên tôi. Tôi đang làm gì ở đây, trên người chẳng có một mảnh vải, và khóc trong vòng tay của Gomez cũng đang trần trụi? Anh ấy với người, lấy cho tôi một hộp khăn giấy. Tôi hỉ mũi và chấm mắt rồi nhìn anh ấy bằng ánh mắt tuyệt vọng cùng cực. Anh ấy nhìn lại tôi trong bối rối.
“Ổn rồi chứ?”
Không. Làm sao tôi có thể? “Vâng.”
“Có chuyện gì vậy?”
Tôi nhún vai. Gomez chuyển sang thái độ thẩm vấn nhân chứng.
“Clare, em đã từng quan hệ với ai bao giờ chưa?” Tôi gật đầu. “Vì Charisse? Em cảm thấy không phải với Charisse?” Tôi gật đầu. “Anh đã làm gì sai sao?” Tôi lắc đầu. “Henry là ai?” Tôi sửng sốt nhìn anh ấy chằm chằm.
“Làm sao anh biết?” Giờ thì tôi đã để lộ. Chết tiệt. Khỉ thật.
Gomez với người lấy bao thuốc trên chiếc bàn để cạnh giường và châm lửa. Anh ấy vẫy tắt que diêm và rít một hơi dài. Với điếu thuốc trên tay, Gomez có vẻ ăn vận đầy đủ hơn, mặc dù vẫn chẳng có mảnh vải nào trên người. Anh ấy đưa cho tôi một điếu, và tôi cầm lấy, cho dù tôi không hút thuốc. Nhưng đó có vẻ là điều nên làm, và nó cho tôi chút thời gian để nghĩ xem sẽ nói gì. Anh ấy châm thuốc cho tôi r i đứng dậy lục lọi trong tủ quần áo, lôi ra một chiếc áo choàng tắm màu xanh trông không có vẻ sạch sẽ, rồi đưa nó cho tôi. Tôi khoác nó lên mình, nó rộng thùng thình. Tôi ngồi trên giường, hút thuốc và nhìn Gomez mặc quần jeans vào. Ngay cả trong tình trạng khốn khổ của mình, tôi vẫn có thể thấy Gomez là một anh chàng đẹp mã, cao ráo và to lớn, một vẻ đẹp hoàn toàn khác so với sự hoang dã của một con báo uyển chuyển ở Henry. Ngay lập tức tôi cảm thấy ghê tởm vì đã so sánh hai người. Gomez đặt gạt tàn xuống bên cạnh tôi, ngồi xuống giường và nhìn tôi.
“Em đã nói mơ về một anh chàng Henry nào đó.”
Chết tiệt. Chết tiệt. “Em đã nói gì?”
“Hầu như chỉ lặp đi lặp lại ‘Henry’, giống như em đang gọi ai đó đến bên mình. Rồi ‘Em xin lỗi.’ Có một lần em đã nói, ‘Chỉ tại không có anh ở đây’, như thể em đã rất tức giận. Henry là ai?”
“Henry là người yêu của em.”
“Clare, em không có người yêu. Charisse và anh đã gặp em hầu như mỗi ngày trong suốt sáu tháng qua, em chưa từng hẹn hò một ai, và không ai gọi điện cho em cả.”
“Henry là người yêu của em. Anh ấy đang đi xa một thời gian. Anh ấy sẽ quay về vào mùa thu năm 1991.”
“Anh ta đang ở đâu?” Đâu đó gần đây.
“Em không biết.” Gomez nghĩ tôi đang bịa chuyện. Chẳng hiểu vì sao tôi quyết tâm phải khiến anh ấy tin. Tôi chụp lấy túi xách, mở ví ra và chìa cho Gomez xem tấm ảnh của Henry. Anh ấy nhìn nó chăm chú.
“Anh đã nhìn thấy anh chàng này. Không, phải là: một ai đó rất giống anh ta. Anh chàng này quá già để là tên đó. Nhưng tên của hắn cũng là Henry.”
Tim tôi đập như điên dại. Tôi gắng tỏ ra bình thản và hỏi, “Anh đã gặp anh ấy ở đâu?”
“Các câu lạc bộ đêm. Chủ yếu là ở Exit và Smart Bar. Nhưng anh không thể hình dung hắn lại là người yêu của em; hắn là một gã khùng. Hắn đi đến đâu là hỗn loạn đến đó. Hắn là một kẻ nghiện rượu, và hắn... Anh không biết, nhưng hắn thật sự rất thô bạo với phụ nữ. Ít nhất đó là những gì anh được nghe.”
“Bạo lực?” Tôi không thể hình dung Henry lại có thể đánh một người phụ nữ.
“Không. Anh không biết.”
“Họ của anh ấy là gì?”
“Anh không biết. Nghe này, mèo con, hắn ta sẵn sàng ăn tươi nuốt sống em... hắn không phải hạng người em cần.”
Tôi mỉm cười. Anh ấy chính xác là người tôi cần, nhưng tôi biết lang thang khắp các quán bar để tìm anh ấy chỉ là vô nghĩa. “Em cần người như thế nào?”
“Người như anh. Chỉ có điều em không nghĩ vậy.”
“Anh đã có Charisse. Anh còn cần em làm gì?”
“Anh chỉ muốn có em. Anh cũng không biết tại sao.”
“Anh là một tín đồ Mormon[1] hay sao vậy?”
[1] Đạo Mormon, tên gọi chính thức là Giáo hội Chúa Giêsu Kitô của các Thánh ngày Sau hết. Các tín đồ Mormon tin rằng có nhiều Chúa và nhiều thế giới. Chúa có lúc đã là con người. Tín đồ Mormon sẽ thành các Chúa sau khi chết.
Gomez nghiêm nghị nói: “Clare, anh...”
“Đừng nói ra điều đó.”
“Thật lòng, anh...”
“Không. Em không muốn nghe.” Tôi đứng dậy, dập thuốc lá rồi mặc quần áo. Gomez vẫn ngồi bất động và nhìn tôi mặc đồ. Tôi cảm thấy cũ kĩ, bẩn thỉu và ớn lạnh khi mặc lên người bộ quần áo dự tiệc tối qua trước mặt Gomez, nhưng tôi cố gắng không thể hiện ra ngoài. Tôi không thể kéo phéc-mơ-tuya sau lưng chiếc váy nên Gomez đã giúp tôi.
“Clare, đừng tức giận.”
“Em không giận anh. Em chỉ giận chính mình.”
“Anh chàng này chắc phải đặc biệt lắm mới có thể rời bỏ một cô gái như em và tin rằng em sẽ đợi suốt hai năm.”
Tôi cười với Gomez. “Anh ấy là một người tuyệt vời.” Tôi có thể thấy mình đang làm tổn thương Gomez. “Gomez, em xin lỗi. Nếu em chưa vướng bận, và anh chưa vướng bận thì...” Gomez lắc đầu, và trước khi tôi kịp nhận ra, anh ấy đã hôn tôi. Tôi hôn lại anh ấy, và trong khoảnh khắc, tôi tự hỏi... “Em phải đi đây, Gomez.”
Anh ấy gật đầu.
Tôi bỏ đi.
Thứ Sáu, 27/4/1990 (Henry 26 tuổi)
HENRY: Ingrid và tôi đang ở nhà hát Riviera và đang nhảy cho rụng rời bộ óc tí hon của chúng tôi trong tiếng nhạc của Iggy Pop. Ingrid và tôi luôn hạnh phúc nhất khi chúng tôi đang nhảy, làm tình hoặc bất kỳ hoạt động thể xác nào mà không phải nói chuyện cùng nhau. Ngay lúc này đây chúng tôi đang lạc trên thiên đàng. Chúng tôi đang nhảy ở hàng đầu và Pop đang khiến chúng tôi đặc quánh trong sự cuồng nhiệt. Đã có lần tôi nói với Ing rằng cô ấy nhảy như một người Đức, và cô ấy không thích nghe điều đó, nhưng nó là sự thật: cô ấy nhảy quá nghiêm túc, như thể cuộc sống đang bị đặt lên cân đo, như thể một điệu nhảy chuẩn xác có thể cứu sống những đứa trẻ đói khát ở Ấn Độ. Iggy đang ngâm nga Calling Sister Midnight (Anh làm một thằng khờ vì em...) và tôi hiểu chính xác những gì ông ấy đang cảm nhận. Chính trong những khoảnh khắc như thế này tôi mới hiểu ý nghĩa của mối quan hệ giữa tôi và Ingrid. Chúng tôi cuồng cháy trong Lust for Life, China Doll, Funtime. Ingrid và tôi đã nhảy đủ năng lượng để bay tới Diêm Vương Tinh. Tôi có một cảm giác thăng hoa kì lạ và sự chắc chắn rằng tôi có thể làm việc này, ở đây, suốt cả cuộc đời và hoàn toàn thoả mãn. Ingrid đang đổ mồ hôi như tắm. Chiếc áo phông trắng của cô ấy đã dính vào người một cách khá thú vị và duyên dáng. Tôi cân nhắc việc lột bỏ nó khỏi người cô ấy nhưng rồi gắng kiềm chế lại vì hôm nay cô ấy không mặc áo lót, và vì nếu làm vậy, cô ấy sẽ không bao giờ thôi cằn nhằn. Chúng tôi nhảy, Iggy Pop hát, và đáng tiếc, sau ba bài hát thêm, buổi hoà nhạc cuối cùng cũng kết thúc. Tôi cảm thấy rất phấn chấn. Trong lúc chúng tôi lũ lượt ra về cùng những người đi xem hoà nhạc hoan hỉ và ph ấn chấn khác, tôi tự hỏi nên làm gì tiếp theo. Ingrid bỏ đi giữa một hàng dài chờ vào nhà vệ sinh, còn tôi đợi cô ấy ở đường Broadway. Tôi đang nhìn một tay chơi ngồi trong chiếc BMW cãi nhau với thằng nhóc giữ xe vì đỗ xe trái phép khi một gã tóc vàng to lớn bước lại gần.
“Henry?” Hắn ta hỏi. Tôi phân vân không biết có phải mình sắp bị triệu ra toà hay gì đó không.
“Vâng?”
“Clare gửi lời chào.” Clare là đứa nào?
“Xin lỗi, anh nhầm người rồi.” Ingrid lại gần, lại trông như người tình của Bond như thường lệ. Cô ấy nhìn gã tóc vàng, người có thể được coi như một hình mẫu khá ổn của cánh đàn ông, dò xét. Tôi quàng tay qua người cô ấy.
Gã tóc vàng mỉm cười. “Xin lỗi. Chắc hẳn anh phải có anh em song sinh gì đó ngoài kia.” Tim tôi co lại; có chuyện gì đó diễn ra mà tôi không được biết; một chút tương lai của tôi đang nhỏ về hiện tại, nhưng bây giờ không phải lúc tìm hiểu. Hắn ta có vẻ vui mừng vì điều gì đó, rồi chào tạm biệt và đi mất.
“Chuyện gì vậy?” Ingrid hỏi.
“Chắc hắn ta nhầm anh với ai đó.” Tôi nhún vai. Ingrid tỏ vẻ lo lắng. Hầu như điều gì dính dáng đến tôi đều khiến Ingrid lo lắng, nên tôi phớt lờ. “Này Ing, chúng ta làm gì tiếp theo đây?” Tôi cảm thấy như muốn nhảy qua sân thượng hai toà cao ốc.
“Về nhà em nhé?”
“Tuyệt vời.” Chúng tôi dừng lại ở Kẹo của Margie để mua kem, và không lâu sau đã ngồi trong xe đồng thanh hét, “Anh thèm, em thèm, tất cả chúng ta đều thèm kem” và cười nắc nẻ như hai đứa trẻ bị loạn trí. Một lát sau, khi đang nằm trên giường với Ingrid, tôi tự hỏi Clare là ai, nhưng rồi tôi nghĩ chắc hẳn sẽ chẳng có câu trả lời cho điều đó vào lúc này, nên tôi quên nó đi.
Thứ Sáu, 18/2/2005 (Henry 41, Clare 33)
HENRY: Tôi đang đưa Charisse đi xem opera. Vở Tristan và Isolde. Lí do tôi ngồi đây với Charisse có liên quan đến ác cảm mãnh liệt của Clare với Wagner. Tôi cũng chẳng hâm mộ Wagner, nhưng chúng tôi có vé không thời hạn nên tôi thà xem sớm còn hơn muộn. Chúng tôi đã nhắc đến việc này trong một buổi tối nọ ở nhà Charisse và Gomez. Charisse đã ủ rũ nói rằng cô ấy chưa bao giờ được xem opera. Và kết quả là tôi đang bước ra khỏi taxi cùng Charisse trước cửa nhà hát Lyric, còn Clare đang ở nhà trông Alba và chơi Scrabble với Alicia, người đang ghé thăm chúng tôi tuần này.
Tôi không thực sự có hứng thú với buổi tối hôm nay. Khi tôi đến nhà đón Charisse, Gomez đã nháy mắt với tôi và nói: “Đừng đưa cô ấy về trễ quá, nhóc!” bằng giọng của một bậc phụ huynh vô tâm tốt nhất mà anh ta có thể. Tôi không thể nhớ lần cuối tôi và Charisse làm gì cùng nhau mà chỉ có hai chúng tôi là khi nào. Tôi rất thích Charisse, nhưng tôi chẳng có gì để nói với cô ấy cả.
Tôi dẫn Charisse xuyên qua đám đông. Cô ấy đi rất chậm, từ tốn bước qua hành lang lộng lẫy, các gian phòng cao bằng cẩm thạch chật cứng những người giàu có tao nhã và lịch thiệp, cùng các sinh viên trong những bộ áo choàng giả lông và khuyên mũi. Charisse mỉm cười với người bán lời nhạc kịch – hai người đàn ông mặc áo tuxedo đứng trước cửa ra vào và ngân nga “Lời nhạc kịch! Lời nhạc kịch đây! Hãy mua cho mình một bản lời của nhạc kịch đi!” trong sự hoà âm hai bè. Không có ai tôi quen đang ở đây. Người hâm mộ Wagner là Mũ Nồi Xanh[2] của cộng đồng opera; họ có những quy tắc rất nghiêm khắc và đều biết lẫn nhau. Rất nhiều tiếng hôn gió đang vang lên trong lúc Charisse và tôi bước lên những hàng ghế đầu tiên của ban công thấp nhất trong nhà hát.
[2] Lực lượng đặc nhiệm Mũ Nồi Xanh (Green Berets) là đơn vị tác chiến đặc biêtk tinh nhuệ của Lục quân Mỹ.
Clare và tôi có một lô riêng; đó là một trong những đam mê cuả chúng tôi. Tôi kéo rèm và Charisse bước vào, nói, “Ồ!” Tôi cởi áo choàng của cô ấy và treo nó sau ghế, rồi làm tương tự với áo khoác của tôi. Chúng tôi ngồi xuống. Charisse vắt hai cổ chân vào nhau rồi đặt đôi bàn tay nhỏ nhắn lên đùi. Mái tóc đen của cô ấy lập loà dưới ánh đèn mờ dịu, với màu son tối và đắm chìm trong vẻ đẹp của nhà hát: Chiếc rèm xanh và vàng được trang trí công phu đang che chắn sân khấu, những gợn sóng như những thác nước thạch cao đang ôm lấy mọi mái vòm và khung tò vò cùng với tiếng rì rầm phấn khích của đám đông. Rèm sân khấu được vén lên, chúng tôi đang ở trên một chiếc thuyền và Isolde đang hát. Tôi tựa lưng vào ghế và thả lòng mình theo tiếng hát.
Bốn giờ đồng hồ, một liều tình dược, và những tràng pháo tay giòn rã qua đi, tôi quay sang Charisse, hỏi, “Em thấy vở nhạc kịch thế nào?”
Cô ấy mỉm cười, “Nó thật ngớ ngẩn, phải không? Nhưng những tiếng hát đã làm cho nó không còn ngớ ngẩn.”
Tôi giơ áo khoác của cô ấy lên, cô ấy lần mò tìm ống tay áo rồi khoác lên mình. “Ngớ ngẩn? Có lẽ vậy. Nhưng anh sẵn sàng vờ như Jane England là một cô gái trẻ đẹp thay vì là một con bò nặng 300 pound, bởi cô ấy có giọng hát của Euterpe3.”
[3] Euterpe (thần thoại Hy Lạp): Nữ thần của âm nhạc và thơ trữ tình, một trong chín nữ thần nghệ thuật.
“Euterpe?”
“Nữ thần âm nhạc.” Chúng tôi hoà vào dòng người mãn nguyện đang túa ra ngoài, bước vào cái lạnh của đêm đông. Chúng tôi đi qua đường Wacker Drive và vẫy được taxi chỉ sau vài phút. Tôi đang chuẩn bị nói với tài xế địa chỉ của Charisse thì cô ấy nói, “Henry, hãy đi uống cà phê nhé? Em chưa muốn về nhà.” Tôi bảo tài xế đưa chúng tôi đến Don’s Coffee Club nằm trên đường Jarvis ở phía bắc thành phố. Charisse tán gẫu về tiếng hát của các diễn viên, mà đã rất tuyệt vời; về dàn dựng sân khấu, mà cả hai chúng tôi đều đồng ý rằng đã không truyền cảm hứng được cho khán giả; về sự khó khăn đạo đức trong việc tận hưởng giọng hát của Wagner khi bạn biết rằng ông ta là một tên khốn theo chủ nghĩa bài Do Thái và thần tượng Hitler. Khi chúng tôi đến Don’s, cả tiệm đang reo hò ầm ĩ; mọi sự chú ý đang đổ dồn về Don trong chiếc áo Hawaii màu cam; tôi vẫy tay với anh ấy. Chúng tôi ngồi xuốn g một chiếc bàn nhỏ ở phía trong. Charisse gọi bánh anh đào trộn kem và cà phê, còn tôi gọi cà phê, sandwich mứt và bơ đậu phộng như thường lệ. Perry Como đang ngân nga trên đài. Có một luồng khói thuốc đang bay lơ lửng trên những bộ đồ ăn và các bức tranh bán thanh lí. Charisse gục đầu vào lòng bàn tay và thở dài.
“Buổi tối nay thật tuyệt. Em cảm thấy như đôi khi em quên mất thế nào là người lớn.”
“Bọn em không ra ngoài nhiều phải không?”
Charisse quệt kem lên xung quanh chiếc đĩa của cô ấy, cười nói, “Joe vẫn hay làm vậy. Thằng bé bảo kem sẽ ngon hơn khi nó mềm. Chúa ạ, em đang học những thói hư của trẻ thay vì dạy cho chúng những điều tốt đẹp từ em.” Cô ấy cắn một miếng bánh. “Để trả lời cho câu hỏi của anh, bọn em có ra ngoài, nhưng chủ yếu lúc nào cũng là những buổi dính líu đến chính trị. Gomez đang cân nhắc ứng cử vào vị trí uỷ viên lập pháp của thành phố.”
Tôi nghẹn cà phê và ho lên sặc sụa. Khi có thể nói trở lại, tôi đáp, “Em đang đùa phải không? Chẳng phải như vậy là gia nhập vào phe ác sao? Chẳng phải Gomez luôn chỉ trích chính quyền thành phố?”
Charisse nhìn tôi gượng gạo. “Anh ấy quyết định sẽ thay đổi hệ thống từ bên trong. Anh ấy đã chán ngấy những vụ bạo hành trẻ em kinh tởm. Em nghĩ anh ấy đã tự thuyết phục mình rằng anh ấy sẽ có thể cải thiện tình hình nếu có chút quyền hành trong tay.”
“Có thể cậu ấy đúng.”
Charisse lắc đầu. “Em thích khi bọn em còn là những nhà cách mạng theo chủ trương vô chính phủ hơn. Em thà ném bom cho nó tan tành còn hơn phải xu nịnh.”
Tôi cười. “Anh đã không biết em còn cực đoan hơn cả Gomez.”
“Chỉ là em không kiên nhẫn như Gomez. Em muốn có hành động.”
“Gomez mà kiên nhẫn?”
“Dĩ nhiên rồi. Cứ nhìn vào chuyện với Clare là biết...” Charisse dừng lại đột ngột, nhìn tôi.
“Chuyện gì với Clare?” Trong lúc tôi hỏi điều này, tôi nhận ra rằng đây là lí do chúng tôi đang ở đây, rằng Charisse đã đợi thời cơ để nói về chuyện này. Tôi tự hỏi có điều gì cô ấy biết mà tôi không biết hay không. Tôi tự hỏi liệu tôi có muốn biết điều mà Charisse biết. Tôi không nghĩ tôi muốn biết điều gì cả.
Charisse quay mặt đi, rồi lại nhìn tôi. Cô ấy cúi xuống cốc cà phê của mình, đặt hai tay quanh thân cốc. “Em tưởng anh đã biết... Gomez rất yêu Clare.”
“Phải.” Tôi không tạo điều kiện cho cô ấy tiến tới.
Charisse mân mê những thớ gỗ trên mặt bàn. “Clare đã bảo anh ấy hãy vứt bỏ tình cảm đó đi. Nhưng Gomez nghĩ rằng nếu anh ấy nấn ná đủ lâu, sẽ có chuyện xảy ra, và anh ấy sẽ có được Clare.”
“Có chuyện xảy ra...?”
“Với anh.” Charisse nhìn vào mắt tôi.
Tôi cảm thấy muốn bệnh. “Đợi anh một chút”, tôi nói với cô ấy. Tôi đứng dậy và đi về phía nhà vệ sinh treo tấm hình Marilyn Monroe nhỏ xíu. Tôi vẩy nước lạnh lên mặt rồi nhắm mắt đứng tựa vào tường. Khi biết rằng tôi sẽ không biến mất đi đâu cả, tôi quay trở lại bàn và ngồi xuống. “Xin lỗi về chuyện đó. Em đang nói gì nhỉ?”
Charisse có vẻ nhỏ bé và sợ hãi. “Henry”, cô ấy nói khẽ. “Hãy nói cho em biết.”
“Nói gì cơ, Charisse?”
“Nói với em rằng anh sẽ không đi đâu cả. Rằng Clare không muốn có Gomez. Rằng mọi chuyện sẽ ổn thoả. Hoặc nói rằng tất cả chỉ là tưởng tượng. Hãy nói với em chuyện gì sẽ xảy ra!” Giọng Charisse run run. Cô ấy đặt tay lên tay tôi, và tôi ép chính mình không được rụt lại.
“Em sẽ ổn thôi, Charisse. Mọi chuyện rồi sẽ ổn.” Cô ấy nhìn tôi chằm chằm ngờ vực nhưng muốn tin. Tôi ngả lưng xuống ghế. “Cậu ấy sẽ không bỏ em.”
Cô ấy thở dài. “Còn anh?”
Tôi im lặng. Charisse nhìn tôi không chớp mắt, rồi gục đầu xuống. “Về thôi”, cuối cùng cô ấy nói, và chúng tôi ra về.
Chủ Nhật, 12/6/2005 (Henry 26 tuổi)
CLARE: Một buổi trưa Chủ Nhật nắng ráo, tôi đi vào bếp và thấy Henry đang đứng bên cửa sổ và nhìn ra ngoài sân. Anh ấy vẫy tôi lại gần. Tôi đứng cạnh anh ấy và nhìn ra. Alba đang chơi trong sân với một cô bé lớn hơn nó. Cô bé khoảng bảy tuổi, có mái tóc đen dài và đi chân trần. Cô bé đang mặc chiếc áo phông dơ dáy có logo của Cubs trước ngực. Cả hai đang ngồi bệt xuống đất, quay mặt vào nhau. Cô bé kia quay lưng lại phía chúng tôi. Alba đang mỉm cười và vẫy tay như đang bay lượn. Cô bé lắc đầu và cười.
Tôi nhìn Henry. “Cô bé nào vậy?”
“Đó là Alba.”
“Em biết, nhưng nó đang chơi với ai vậy?”
Henry mỉm cười nhưng chân mày anh ấy nhíu lại nên cười có vẻ phiền muộn. “Clare, đó là Alba khi con bé lớn hơn. Con bé đang đi xuyên thời gian.”
“Ôi chúa tôi.” Tôi nhìn chăm chăm vào con bé. Nó đang quay người lại chỉ vào nhà và tôi kịp liếc nhìn con bé, rồi nó lại quay đi. “Chúng ta có nên ra đó không?”
“Không cần đâu. Con bé ổn. Nếu chúng muốn, chúng sẽ vào.”
“Em rất muốn gặp con bé...”
“Đừng gặp sẽ tốt hơn...” Henry bắt đầu, nhưng khi anh ấy bắt đầu vừa mở miệng thì hai Alba đã nhảy lên và cùng nhau chạy vào nhà, tay trong tay. Chúng mở tung cửa vào trong bếp, cười nói. “Mẹ, mẹ”, Alba ba tuổi của tôi vừa nói vừa chỉ tay, “Mẹ xem này! Alba lớn!”
Alba kia tươi cười nói, “Chào mẹ”, tôi mỉm cười đáp lại, “Chào Alba.” Con bé quay người, nhìn thấy Henry và hét toáng lên, “Bố!” rồi chạy bổ về phía Henry, ôm chầm lấy anh ấy và bắt đầu khóc. Henry liếc nhìn tôi, cúi xuống Alba và thì thầm điều gì đó vào tai con bé.
HENRY: Mặt Clare trắng bệch; cô ấy đứng nhìn chúng tôi, tay cầm tay Alba bé đang há hốc mồm nhìn cơ thể lớn hơn của nó ôm chầm lấy tôi thổn thức. Tôi cúi xuống và thì thầ ff8 m vào tai Alba: “Đừng để mẹ biết rằng bố sẽ chết.” Con bé ngẩng lên nhìn tôi, nước mắt đang đọng lại trên đôi mi dài của nó, miệng run rẩy, gật đầu. Clare chìa tay đưa khăn giấy cho Alba và bảo con bé xì mũi, rồi ôm con bé. Alba bằng lòng để được dẫn đi rửa mặt. Alba nhỏ, của hiện tại, ôm ghì lấy chân tôi. “Tại sao vậy bố? Tại sao chị ấy lại khóc?” Rất may tôi không phải trả lời con bé vì Clare đã trở lại cùng Alba lớn; Alba đang mặc áo phông của Clare và quần được cắt ra từ quần của tôi. Clare nói, “Chúng ta cùng đi ăn kem nhé?” Cả hai Alba mỉm cười; Alba nhỏ nhảy quanh chúng tôi và hét lên, “Con thèm kem, mẹ thèm kem, con thèm kem, chị thèm kem...” Chúng tôi đổ dồn lên xe, Clare ngồi sau tay lái, Alba ba tuổi ngồi trên ghế trước, Alba bảy tuổi và tôi ngồi ở ghế sau. Con bé dựa vào tôi, tôi quàng tay qua người con bé. Chẳng ai nói với nhau nửa lời, ngoại trừ Alba bé nhỏ, “Chị Alba, nhìn kìa, một con chó! Chị Alba, nhìn kìa, nhìn kìa...” cho đến khi con bé lớn đáp lại, “Ừ, Alba, chị thấy rồi.” Clare đưa chúng tôi đến Zephyr; chúng tôi ngồi xuống bên một chiếc bàn nhựa màu xanh sáng loá và gọi hai kem chuối, một sô-cô-la mạch nha, và một ốc quế vani. Lũ trẻ mút kem chuối của chúng như những chiếc máy hút bụi; Clare và tôi mân mê phần kem của mình, không nhìn vào nhau. Clare nói, “Alba, cuộc sống ở hiện tại của con thế nào?”
Alba ném vội cho tôi một cái nhìn. “Không có gì nhiều ạ”, con bé nói. “Ông nội đang dạy con bản công-xéc-tô dành cho violin thứ của Saint Saens.”
“Con đang chơi cho vở nhạc kịch ở trường”, tôi buột miệng.
“Thật sao?”
“Ồ, bố xin lỗi”, tôi nói. “Có lẽ nó sẽ chưa diễn ra cho đến năm sau đó.” Và câu chuyện tiếp tục như thế. Chúng tôi ngập ngừng trò chuyện, cân nhắc giữa những gì chúng tôi biết và những gì chúng tôi phải ngăn không cho Clare và Alba nhỏ biết. Sau một hồi, Alba lớn gục đầu vào tay trên bàn. “Con mệt hả?” Clare hỏi. Con bé gật đầu. “Chúng ta nên về thôi”, tôi bảo Clare. Chúng tôi thanh toán. Tôi bế Alba lên; con bé mềm oặt, gần như ngủ gật trên tay tôi. Clare bế Alba nhỏ đang kích động vì quá nhiều đồ ngọt. Chúng tôi trở vào xe và trong lúc đang rong ruổi trên đại lộ Lincoln, Alba tan biến. “Con bé đi về rồi”, tôi bảo Clare. Chúng tôi nhìn vào mắt nhau một thoáng trong gương chiếu hậu. “Về đâu hả bố?” Alba hỏi. “Về đâu?”
Sau đó:
CLARE: Cuối cùng tôi cũng dỗ được cho Alba ngủ. Henry đang ngồi trên giường uống Scotch và nhìn ra cửa sổ ngắm những con sóc đang rượt đuổi bên dưới giàn nho trong vườn. Tôi lại gần và ngồi xuống bên cạnh anh ấy. “Xin chào”, tôi nói. Henry nhìn tôi, đưa tay ôm lấy tôi và kéo vào lòng. “Xin chào”, anh ấy đáp.
“Anh sẽ nói với em chuyện vừa nãy là thế nào chứ?” tôi hỏi.
Henry đặt ly rượu xuống và bắt đầu cởi từng chiếc khuy trên áo tôi ra. “Anh có thể thoát mà không cần phải nói cho em biết không?”
“Không.” Tôi cởi thắt lưng và khuy quần jeans của anh ấy.
“Em chắc chứ?” Anh ấy hôn lên cổ tôi.
“Chắc.” Tôi kéo khoá quần của anh ấy xuống, luồn tay bên dưới chiếc áo sơ mi, lướt qua bụng anh ấy.
“Em sẽ không muốn biết.” Henry thở vào tai tôi, chạy dọc lưỡi trên vành tai. Tôi rùng mình. Anh ấy lột áo tôi ra, gỡ móc cài áo lót. Ngực tôi xổ ra giải phóng và tôi nằm xuống nhìn Henry cởi quần jeans, quần lót và áo sơ mi của anh ấy. Anh ấy trèo lên giường. Tôi nói, “Tất nữa.”
“Ồ, phải rồi.” Anh ấy tháo tất. Chúng tôi nhìn nhau.
“Anh chỉ đang tìm cách làm em phân tán.” Tôi nói.
Henry vuốt bụng tôi. “Anh đang tìm cách làm phân tán chính mình. Nếu anh đồng thời làm em phân tán thì đó là một phần thưởng kèm theo.”
“Hãy nói cho em biết.”
“Anh sẽ không nói.” Anh ấy vuốt ngực tôi, đưa tay xoa đầu vú.
“Vậy thì em sẽ hình dung ra trường hợp tồi tệ nhất.”
“Em cứ tự nhiên.” Tôi ưỡn mông và Henry trút bỏ quần jeans và quần lót của tôi. Anh ấy giạng chân tôi ra, nằm lên tôi, hôn tôi. Ôi, Chúa ơi, tôi tự nhủ, nó có thể là chuyện gì? Điều tồi tệ nhất là gì? Tôi nhắm mắt lại. Một kí ức ùa về: Đồng cỏ một ngày giá rét của tuổi thơ tôi, tôi chạy trên những ngọn cỏ tàn úa, có tiếng động, Henry gọi tên tôi...
“Clare?” Henry khẽ cắn vào tai tôi. “Tâm trí em đang ở đâu vậy?”
“Năm 1984.”
Henry ngừng lại và nói, “Tại sao?”
“Em nghĩ đó là nơi nó diễn ra.”
“Nơi cái gì diễn ra?”
“Việc mà anh không dám nói với em.”
Henry trượt khỏi người tôi và chúng tôi nằm xuống bên cạnh nhau. “Kể cho anh nghe đi”, anh ấy nói.
“Đó là sáng sớm một ngày mùa thu. Bố em và Mark đang ra ngoài đi săn. Em đã tỉnh giấc vì nghĩ có tiếng anh gọi. Em chạy ra ngoài đồng cỏ, và anh đang ở đó. Anh, bố và Mark đang cùng nhìn một thứ gì đó, nhưng bố bắt em trở vào trong nhà nên em đã không biết các anh đang nhìn gì.
“Ồ.”
“Một lát sau em đã quay trở lại nơi đó. Có một đám cỏ chìm trong máu.”
Henry chẳng nói gì chỉ mím chặt môi. Tôi quàng tay qua người anh ấy, ôm chặt. Tôi nói, “Điều tồi tệ nhất...”
“Suỵt, Clare.”
“Nhưng...”
“Suỵt.” Bên ngoài trời vẫn nắng rực rỡ. Còn trong nhà, chúng tôi đang rét run vì lạnh, ôm chặt lấy nhau tìm hơi ấm. Alba đang say sưa ngủ trên giường của con bé và mơ về những li kem, mơ những giấc mơ huyền diệu của tuổi lên ba, trong khi một Alba khác ở đâu đó trong tương lai đang mơ được vòng tay ôm lấy bố, và tỉnh dậy để thấy gì... thấy gì?