Xứ Cát Chương 4


Chương 4
Nếu những điều ước là cá thì ai cũng đều quăng lưới.

Các người đã biết ở Caladan Muad’Dib không có bạn chơi cùng lứa tuổi. Nguy hiểm quá lớn. Nhưng Muad’Dib lại có những vị thầy đồng thời là người bạn tuyệt vời. Đó là Gurney Halleck, một chiến binh - người hát rong. Các người sẽ hát một số bài hát của Gurney trong khi đọc tiếp cuốn sách này. Đó là Thufir Hawat, vị Mentat già nua Thủ lĩnh Sát thủ, người khiến cả Hoàng đế Padishah cũng phải khiếp sợ trong lòng. Đó là Duncan Idaho, Kiếm sư xuất thân từ gia tộc Ginaz; Bác sĩ Wellington Yueh, một cái tên bị bôi đen vì sự phản bội nhưng sáng ngời kiến thức; Lệnh bà Jessica, người đã dạy dỗ con trai mình theo Phương pháp Bene Gesserit, và - tất nhiên - Công tước Leto, người mà từ lâu những phẩm chất làm cha của ông đã không được người ta biết tới.

 - trích “Chuyện thời thơ ấu của Muad’Dib”


của Công chúa Irulan

Thufir Hawat lẻn vào phòng tập luyện của lâu đài Caladan, đóng cửa thật khẽ. Ông đứng đó một lát, cảm thấy mình già nua, mệt mỏi và dạn dày vì bão táp. Vết chém ở chân trái mà ông dính phải hồi còn phục vụ Lão Công tước trở nên đau nhức.

Đến giờ là ba thế hệ rồi, ông nghĩ.

Ông nhìn chằm chằm khắp căn phòng rộng rãi sáng sủa tràn ngập ánh nắng ban trưa tuôn xuống qua những ô cửa sổ trên trần, thấy cậu bé ngồi quay lưng ra cửa, mải mê với đống giấy tờ và bản đồ trải la liệt khắp mặt bàn hình chữ L.

Không biết ta đã phải nhắc cậu bé không được ngồi quay lưng ra cửa bao nhiêu lần rồi? Hawat hắng giọng.

Paul vẫn cắm cúi nghiên nghiên cứu cứu.

Một bóng mây bay qua khung cửa sổ trên trần. Hawat lại hắng giọng.

Paul vươn thẳng người, nói mà không quay lại: “Ta biết rồi. Ta đang quay lưng ra cửa.”

Hawat nén cười, sải bước ngang qua căn phòng.

Paul ngước nhìn ông già tóc hoa râm đứng ở góc bàn. Đôi mắt Hawat tựa hai hồ nước lấp lánh tinh anh trên khuôn mặt u tối và hằn sâu những nếp nhăn của ông.

“Ta nghe thấy tiếng thầy đi dọc hành lang,” Paul nói. “Ta cũng nghe thấy tiếng thầy mở cửa.”

“Những âm thanh ấy người khác cũng có thể giả được.”

“Ta phân biệt được.”

Cậu bé có khả năng đó, Hawat nghĩ. Tất nhiên bà mẹ phù thủy của cậu dạy dỗ cậu rất cẩn thận. Ta băn khoăn không biết cái trường học quý báu của cô ta nghĩ gì về chuyện này? Có thể đó là nguyên nhân khiến họ cử vị Tổng quản Tối cao già nua đến đây - vụt roi để khép Lệnh bà Jessica yêu quý của chúng ta vào khuôn phép.

Hawat kéo chiếc ghế bên cạnh Paul về phía mình, ngồi xuống quay mặt ra cửa. Ông làm việc đó một cách có chủ ý, ngả lưng ra phía sau và quan sát căn phòng. Ông đột nhiên cảm thấy nó trở thành một nơi kỳ quặc, một chốn xa lạ vì hầu hết đồ đạc đều đã được chuyển đến Arrakis. Còn lại một cái bàn tập luyện, tấm gương chắn với các lăng kính pha lê đứng lặng yên, cái hình nộm làm mục tiêu bên cạnh nó được độn và vá víu, trông như người bộ binh già khọm bị thương tật và bầm dập trong chiến trận.

y là ta đó, Hawat nghĩ.

“Thufir, thầy đang nghĩ gì vậy?” Paul hỏi.

Hawat nhìn cậu bé. “Ta đang nghĩ là tất cả chúng ta sẽ sớm rời khỏi đây và có lẽ không bao giờ còn trông thấy nơi này nữa.”

“Điều đó làm thầy buồn sao?”

“Buồn ư? Vớ vẩn! Chia tay người thân mới đáng phải buồn. Nơi ở chỉ là nơi ở.” Ông liếc nhìn những tấm bản đồ trên bàn. “Arrakis chỉ là một nơi ở khác.”

“Có phải cha ta bảo thầy đến kiểm tra ta không?”

Hawat cau mặt - cậu bé quả là có con mắt quan sát. Ông gật đầu. “Con nghĩ rằng nếu ông ấy thân chinh đến thì sẽ hay hơn, nhưng con phải biết là ông ấy rất bận. Ông ấy sẽ đến sau.”

“Ta đang nghiên cứu những cơn bão ở Arrakis.”

“Những cơn bão. Ta hiểu.”

“Xem chừng chúng khá nguy hiểm.”

“Dùng từ ấy thì nhẹ quá đấy: nguy hiểm. Những cơn bão đó mạnh dần lên trên suốt sáu, bảy ngàn cây số đồng bằng, hút bất cứ thứ gì tăng thêm sức công phá - lực coriolis, các cơn bão khác, bất cứ thứ gì mang trong nó dù chỉ một chút xíu năng lượng. Chúng có thể di chuyển với tốc độ 700km/giờ, cuốn theo bất cứ cái gì lơi lỏng trên đường đi của chúng - cát, bụi, mọi thứ. Chúng có thể róc thịt khỏi xương và chẻ xương thành từng mảnh vụn.”

“Tại sao họ không có hệ thống điều khiển thời tiết?”

“Arrakis có nhiều vấn đề phức tạp, giá cả thì cao hơn, rồi còn chuyện bảo trì và những thứ tương tự nữa. Bọn Hiệp hội muốn bán hệ thống điều khiển vệ tinh với giá cắt cổ trong khi Gia tộc của phụ thân con lại không thuộc hàng những gia tộc cực giàu. Con biết điều đó mà.”

“Thầy đã nhìn thấy người Fremen bao giờ chưa?”

Hôm nay trí óc của thằng bé hoạt động như tên bắn vậy, Hawat nghĩ.

“Rất có thể ta đã nhìn thấy họ,” ông nói. “Khó mà phân biệt được họ với những người sống ở địa hào và vùng đầm lầy. Tất cả bọn họ đều mặc áo choàng rộng thùng thình. Ở khoảng cách gần, người họ bốc mùi đến thấu trời. Cái mùi đó tỏa ra từ những bộ quần áo họ mặc - có tên là ‘sa phục’ - chúng giữ lại nước từ chính cơ thể họ.”

Paul nuốt nước bọt, đột ngột nhận ra miệng mình ẩm ướt và nhớ đến một giấc mơ về cơn khát. Cậu cảm thấy buồn trước việc những người đó có lẽ quá thiếu nước đến độ họ phải tái chế hơi ẩm của cơ thể mình. “Nước ở đó phải quý lắm,” cậu nói.

Hawat gật đầu, nghĩ: Có thể ta đang làm điều đó, giải thích rõ ràng cho cậu bé về tầm quan trọng của hành tinh này với vai trò là một kẻ thù. Thật điên rồ nếu dấn bước đến đó mà không ghi nhớ lời cảnh báo này trong tâm trí.

Paul nhìn lên ô cửa trên trần, biết rằng trời đã bắt đầu mưa. Cậu thấy sự ướt át đang lan tỏa trên lớp siêu kính màu xám. “Nước”, cậu nói.

“Con sẽ được biết về mối quan tâm sâu sắc đối với nước,” Hawat nói. “Với tư cách con trai Công tước, con sẽ không bao giờ thiếu nước, nhưng con sẽ thấy sức ép của sự khát ở khắp xung quanh con.”

Paul đưa lưỡi liếm môi, nhớ lại cái ngày cách đây một tuần và cuộc thử thách của Mẹ Chí tôn. Cả bà ta cũng đã nói về sự đói nước.

“Ngươi sẽ biết về những bình nguyên tang tóc,” bà ta nói, “về những sa mạc trơ trụi, những vùng đất hoang nơi không có gì sống được ngoài hương dược và loài sâu cát. Ngươi sẽ đổi màu hốc mắt để giảm bớt ánh chói chang của mặt trời. Nơi trú ẩn sẽ có nghĩa là một cái lỗ kín gió và khuất tầm nhìn. Ngươi sẽ phải đi bộ chứ không có tàu chim, không xe mặt đất hay cũng không có con vật nào cho ngươi cưỡi”.

Và Paul bị lôi cuốn vì giọng nói của bà ta - trầm bổng và run run - hơn là vì những lời bà ta nói.

“Khi ngươi sống trên Arrakis,” bà ta nói, “khala, đất đai trơ trụi. Các vầng trăng sẽ là bạn ngươi, mặt trời là kẻ thù của ngươi.”

Paul cảm thấy mẹ đã rời khỏi vị trí gác cửa đến bên cậu. Nàng nhìn Mẹ Chí tôn hỏi: “Mẹ không thấy chút hy vọng nào sao, thưa Mẹ Chí tôn?”

“Cho người cha thì không.” Và bà lão vẫy tay ra hiệu cho Jessica im lặng, rồi nhìn xuống Paul. “Hãy khắc ghi điều này vào trí nhớ, hỡi chàng trai: Một thế giới được chống đỡ bằng bốn thứ...” Bà ta giơ bốn ngón tay có những đốt to sụ lên, “... hiểu biết của kẻ thông thái, công lý của kẻ vĩ đại, lời cầu nguyện của kẻ công chính và chí can trường của kẻ dũng. Nhưng tất cả những thứ đó chẳng là gì...” Bà ta gập các ngón tay lại thành quả đấm, “... nếu không có một người trị vì biết thuật cai trị. Hãy lấy điều đó làm khoa học về truyền thống của ngươi!”

Một tuần lễ đã qua kể từ ngày gặp Mẹ Chí tôn. Mãi đến bây giờ cậu mới bắt đầu hiểu đầy đủ ý nghĩa điều bà ta nói. Lúc này, ngồi trong phòng tập luyện cùng Thufir Hawat, Paul cảm thấy một nỗi sợ đến nhói tim. Cậu nhìn vẻ mặt nghiêm trang rối bời của vị Mentat.

“Con đã để tâm trí đi đâu vậy?” Hawat hỏi.

“Thầy đã gặp Mẹ Chí tôn chưa?”

“Người Nói Sự thật, cái mụ phù thủy đến từ Đế quốc á?” Mắt Hawat sinh động hẳn lên vì thích thú. “Ta đã gặp mụ rồi.”

“Bà ta...” Paul ngập ngừng, nhận ra mình không thể kể cho Hawat nghe về cuộc thử thách. Sự ức chế quá sâu sắc.

“Sao hả? Bà ta đã làm gì?”

Paul hít hai hơi thở sâu. “Bà ta nói một chuyện.” Cậu nhắm mắt, cố nhớ lại những lời Mẹ Chí tôn nói, và khi cậu lên tiếng, giọng cậu bất giác nhuốm phần nào giọng điệu của bà lão: “ ‘Ngươi, Paul Atreides, hậu duệ của các vị quân vương, con trai một Công tước, ngươi phải học cách cai trị. Đó là điều mà chưa một tổ tiên nào của ngươi từng học.’ ” Paul mở mắt, nói: “Câu nói đó khiến ta nổi giận, và ta bảo rằng cha ta cai trị cả một hành tinh. Vậy là bà ta nói: ‘Ông ta đang đánh mất nó’. Ta liền nói cha ta sắp có một hành tinh giàu có hơn. Thì bà ta nói: ‘Ông ta cũng sẽ mất nốt nó.’ Vậy là ta muốn chạy đi cảnh báo cho cha, nhưng bà ta liền nói cha ta đã được cảnh báo rồi - từ thầy, từ mẹ ta, từ nhiều người.”

“Đúng vậy,” Hawat lẩm bẩm.

“Thế tại sao chúng ta lại đi?” Paul hỏi.

“Bởi Hoàng đế ra lệnh vậy. Và bởi vì vẫn còn hy vọng, cho dù mụ gián điệp-phù thủy kia có nói gì đi nữa. Cái nguồn suối thông thái già khọm ấy còn phun ra cái gì khác không?”

Paul nhìn xuống bàn tay phải của cậu đang siết lại thành nắm đấm dưới bàn. Chậm rãi, cậu ra lệnh cho các cơ thư giãn. Bà ta đã điều khiển ta bằng cách nào đó, cậu nghĩ. Bằng cách nào?

“Bà ta bảo ta nói cho bà ta nghe cai trị nghĩa là gì,” Paul nói. “Và ta nói cai trị nghĩa là ra lệnh. Bà ta liền nói, có những cái ta đã học nhưng bây giờ cần phải quên đi.”

Ở điểm ấy thì mụ ta nói đúng lắm, Hawat nghĩ. Ông gật đầu ra hiệu cho Paul tiếp tục.

“Bà ta nói một nhà cai trị phải học cách thuyết phục chứ không phải ép buộc. Bà ta nói, nhà cai trị phải bày bàn cà phê ngon nhất để thu hút những người giỏi nhất.”

“Mụ ta cho rằng cha của con đã thu hút những người như Duncan và Gurney bằng cách nào chứ?” Hawat hỏi.

Paul nhún vai. “Thế rồi bà ta nói một nhà cai trị tốt phải học được ngôn ngữ của thế giới của anh ta, mà mỗi thế giới thì có một ngôn ngữ khác nhau. Ta cho rằng ý bà ta là người ta không nói tiếng Galach trên Arrakis, nhưng bà ta lại nói khác hẳn. Bà ta nói bà ta muốn nhắc đến ngôn ngữ của đá và những thứ đang phát triển, cái ngôn ngữ mà nếu chỉ dùng tai thì sẽ không nghe thấy được. Ta liền nói đó là cái mà bác sĩ Yueh gọi là Bí ẩn của Sự sống.”

Hawat cười tủm tỉm. “Nói thế có hợp ý bà ta không?”

“Ta nghĩ bà ta điên rồi. Bà ta nói bí ẩn của sự sống không phải một bài toán cần giải, mà là một thực tại cần trải nghiệm. Ta liền nhắc lại Luật Thứ nhất của Mentat cho bà ta nghe: ‘Không thể thấu hiểu một quá trình bằng cách bắt nó ngừng lại. Sự thấu hiểu phải di động cùng dòng chảy của quá trình đó, phải hòa vào nó và chảy cùng nó.’ Hình như câu nói đã làm bà ta hài lòng.”

Có vẻ như cậu ta đang vượt qua được điều đó, Hawat nghĩ, nhưng mụ phù thủy già kia đã khiến cậu ta khiếp sợ. Tại sao mụ ta làm thế?

“Thufir này,” Paul nói, “liệu Arrakis có tệ như bà ta nói không?”

“Làm gì có chuyện tệ đến thế,” Hawat nói và gượng cười. “Đám Fremen kia chẳng hạn; cái dân sa mạc sống ngoài vòng pháp luật ấy. Chỉ cần phân tích sơ bộ thôi ta cũng có thể cho con biết, những người ấy đông hơn, đông hơn rất nhiều so với Đế quốc thường nghĩ. Người ta sống ở đấy, con ạ: rất nhiều người, và...” Hawat đặt một ngón tay gân guốc lên bên cạnh mắt, “... họ căm thù bọn Harkonnen đến tận xương tủy. Con không được hở một lời nào về chuyện này đâu đấy nhé, cậu bé. Ta nói cho con chỉ vì ta là trợ thủ cho cha con thôi.”

“Cha đã nói với ta về Salusa Secundus,” Paul nói. “Thầy biết không, Thufir, nó nghe rất giống Arrakis... có thể không tệ đến mức ấy, nhưng rất giống.”

“Chúng ta không thực sự biết Salusa Secundus hiện nay ra sao,” Hawat nói. “Chúng ta chỉ biết về tình hình của nó từ lâu lắm rồi... gần như biết. Song những gì ta biết... về điểm ấy thì con nói đúng.”

“Người Fremen sẽ giúp chúng ta chứ?”

“Cũng có thể.” Hawat đứng dậy. “Hôm nay ta lên đường đến Arrakis. Trong lúc đó thì con hãy bảo trọng vì một lão già vốn yêu quý con, được chứ hả? Hãy đến đây như một cậu bé ngoan và ngồi quay mặt ra cửa đi nào. Không phải ta nghĩ có mối nguy hiểm nào đó trong lâu đài này; đó chẳng qua chỉ là một thói quen mà ta muốn con phải tập dần.”

Paul đứng dậy, đi vòng qua chiếc bàn. “Thầy đi hôm nay sao?”

“Hôm nay, còn con sẽ đi vào ngày mai. Lần gặp gỡ tiếp theo của thầy trò ta sẽ là tại mảnh đất trên thế giới mới của con.” Ông nắm chặt bắp tay phải của Paul. “Hãy để tay dao của con thật uyển chuyển, nhé? Còn tấm khiên của con thật chắc chắn.” Ông thả tay, vỗ nhẹ vào vai Paul rồi xoay người đi nhanh ra cửa.

“Thufir!” Paul gọi.

Hawat quay lại, đứng ở ngưỡng cửa mở.

“Đừng ngồi quay lưng ra bất kỳ cánh cửa nào,” Paul nói.

Một nụ cười rạng rỡ bừng lên trên khuôn mặt già nua nhăn nheo. “Ta sẽ không ngồi như vậy đâu, cậu bé. Cứ tin đi.” Và ông đi ra, khẽ khàng khép cánh cửa lại sau lưng.

Paul ngồi xuống chỗ Hawat vừa ngồi, sắp xếp đống giấy tờ. Ở đây thêm một ngày nữa, cậu nghĩ. Cậu nhìn quanh phòng. Chúng ta đang ra đi. Ý nghĩ về sự ra đi đột ngột hiện lên rõ mồn một hơn bao giờ hết. Cậu hồi tưởng lại một câu chuyện khác mà bà lão đã nói về việc thế giới là tổng hòa của nhiều thứ - con người, cát bụi, những thứ đang phát triển, những mặt trăng, những con nước, những mặt trời - cái tổng không ai biết, được gọi là tự nhiên, một bản tổng kết mơ hồ không có chút cảm thức nào về hiện tại. Cậu tự hỏi: Hiện tại là cái gì?

Cánh cửa trước mặt Paul mở bung ra và một người đàn ông xấu xí lặc lè bước vào, tay bê cả lô vũ khí.

“Này, Gurney Halleck,” Paul gọi, “Thầy là thầy giáo mới dạy về vũ khí đấy à?”

Halleck đá một gót chân đóng cánh cửa lại. “Ta biết con thích ta đến để chơi game hơn,” ông nói. Ông quét mắt khắp phòng, nhận thấy người của Hawat đã đến đây và đã kiểm tra kỹ lưỡng để bảo đảm nó an toàn đối với người thừa kế của Công tước. Những ký hiệu mã hóa tinh vi nhan nhản xung quanh.

Paul quan sát người đàn ông xấu xí đang lắc lư kia lùi lại, mang theo đống vũ khí nặng trĩu chuyển hướng về phía bàn tập luyện, cậu nhìn cây đàn baliset chín dây đeo trên vai Gurney với chiếc móng gảy cài vào những dây đàn gần đầu cần phím.

Halleck thả vũ khí xuống bàn tập, xếp chúng thẳng hàng - nào kiếm mỏng, dao găm, đoản kiếm hai lưỡi, súng bắn phi tiêu, thắt lưng đeo khiên. Vết sẹo ở quai hàm do bị quất roi nho mực nhăn nhúm lại khi ông xoay cổ, ném một nụ cười ngang qua phòng.

“Vậy là con thậm chí còn không chào ta đấy, đồ tiểu quỷ,” Halleck nói. “Mà con đã cắm cái ngạnh nào vào lão già Hawat thế? Lúc ở hành lang, ông ta phóng qua ta cứ như một người đang chạy đến đám tang của kẻ thù vậy.”

Paul toét miệng cười. Trong tất cả số cận vệ của cha mình, cậu thích Gurney Halleck nhất, hiểu được tính tình và sự tinh quái của ông, sự hài hước của ông, và nghĩ về ông với tư cách một người bạn hơn là một thanh kiếm được thuê.

Halleck tháo cây đàn baliset ra khỏi vai rồi bắt đầu gảy. “Nếu ngươi không nói, thế nghĩa là ngươi không nói,” ông thốt lên.

Paul đứng dậy, tiến lên phía trước, kêu to: “Được rồi, Gurney, có phải chúng ta đang chuẩn bị chơi nhạc trong giờ học chiến đấu không?”

“Hôm nay mà nói thế với người lớn tuổi thì thật hỗn xược đấy,” Halleck nói. Ông thử một dây trên nhạc cụ, gật đầu.

“Duncan Idaho đâu?” Paul hỏi. “Chẳng phải anh ta có nhiệm vụ dạy ta về các loại vũ khí sao?”

“Duncan đã dẫn đầu đoàn người đi Arrakis đợt hai rồi,” Halleck nói. “Con chỉ còn lại có mỗi lão già Gurney tội nghiệp vừa chinh chiến trở về và đang háo hức được chơi nhạc này thôi.” Ông gảy một dây đàn khác, lắng nghe, mỉm cười. “Và hội đồng đã quyết định rằng con là một chiến binh tồi nên tốt nhất chúng ta sẽ dạy con chơi nhạc để con không phí phạm cả đời mình.”

“Vậy thì tốt hơn có lẽ thầy nên hát tặng ta một bài,” Paul nói. “Ta muốn biết chắc làm thế nào ta không phí phạm cả đời mình.”

“Ha-ha-ha!” Gurney cười to và phổ nhạc bài “Các cô gái Galacia,” chiếc móng gảy ẩn hiện lờ mờ trên các dây đàn khi ông hát:

“Ôi-i-i-i, các cô gái Galacia

Sẽ làm thế vì ngọc,

Còn Arrakeen vì nước!

Nhưng nếu bạn muốn đàn bà

Như lửa ngùn ngụt cháy

Thử một nường con gái Caladan xem!”

“Cái tay xấu xí thế kia cùng với móng gảy mà chơi được như thế thì cũng không tệ,” Paul nói, “nhưng nếu mẹ ta nghe thầy hát một bài tục tĩu như thế trong lâu đài, bà ấy sẽ găm tai thầy lên tường bên ngoài để trang trí đấy.”

Gurney kéo tai trái lên. “Dùng cái này mà trang trí thì cũng xấu nốt, nó đã bị thâm tím quá nhiều do phải kề vào lỗ khóa lắng nghe một cậu bé mà ta quen biết luyện tập vài bài hát lạ trên cây baliset của mình.”

“Vì thế mà thầy đã quên mất tìm thấy cát trên giường mình là thế nào,” Paul nói. Cậu kéo một chiếc thắt lưng đeo tấm chắn từ trên bàn, cài chặt quanh eo. “Nào, giao đấu thôi!”

Halleck mở to mắt làm ra vẻ ngạc nhiên. “Ái chà chà! Chính bàn tay xấu xa của con khiêu chiến đấy nhé! Hôm nay thì tự bảo vệ mình đi, cậu bé - bảo vệ mình đi.” Ông chộp lấy thanh kiếm mỏng, chém vào không khí. “Ta là quỷ sứ, chiến đấu để trả thù đây!”

Paul nâng thanh kiếm lên, uốn cong bằng cả hai tay, đứng theo thế aguile, một chân đặt lên trước. Cậu để tư thế của mình ra bộ uy nghiêm nhại theo bác sĩ Yueh.

“Cha ta cử đến cho ta một tay dạy về vũ khí mới đần độn làm sao chứ,” Paul nói. “Tay Gurney Halleck đần độn này đã quên béng bài học đầu tiên cho một người giao chiến được trang bị vũ khí và tấm chắn bảo vệ rồi.” Paul bấm đánh tách chiếc nút lực nơi thắt lưng, cảm thấy trên trán và sau lưng mình cái gờn gợn ran ran của trường bảo vệ, những âm thanh bên ngoài trở nên vô âm sắc, cái vô âm sắc đặc trưng khi bị lọc qua tấm chắn. “Trong cuộc giao chiến có dùng tấm chắn, để phòng thủ người ta di chuyển nhanh, để tấn công người ta di chuyển chậm,” Paul nói. “Đòn công trực diện có mục đích duy nhất là nhử đối phương hành động sai lầm, lừa hắn vào đòn công hiểm. Tấm chắn gạt được cú đánh nhanh, dính phải đoản kiếm chậm.” Paul chộp thanh kiếm mỏng, ra một đòn nhử nhanh rồi rụt kiếm về để thọc một nhát chậm nhưng đúng lúc vào chỗ hớ hênh trên tấm chắn của đối phương.

Halleck quan sát hành động của cậu, xoay người đúng vào phút chót để mũi kiếm cùn sượt qua ngực ông. “Nhanh lắm, giỏi lắm,” ông nói. “Nhưng con đã để lộ người quá nhiều, coi chừng bị một cú phản đòn lén lút bằng một lưỡi dao con đấy.”

Paul lùi lại, thất vọng.

“Lẽ ra ta phải đét đít con vì sự bất cẩn đó,” Halleck nói. Ông nhấc một thanh đoản kiếm tuốt trần ở trên bàn, giơ nó lên. “Nếu trong tay kẻ thù, cái này có thể làm con đổ máu đấy! Con là một học trò xuất sắc, không ai vượt qua được, nhưng ta đã cảnh cáo con là dù có đấu chơi đi nữa con cũng không được để một ai trong đội bảo vệ của con nắm cái chết trong tay hắn.”

“Chắc hôm nay ta không có tâm trạng chiến đấu,” Paul nói.

Tâm trạng?” Giọng Halleck để lộ sự giận dữ ngay cả khi đã qua bộ lọc của tấm chắn. “Tâm trạng thì liên quan quái gì chứ? Con chiến đấu khi cần phải chiến đấu, tâm trạng tâm triết chẳng là cái gì hết! Tâm trạng là thứ chỉ dành cho những kẻ đáng khinh đang làm tình hoặc chơi baliset mà thôi. Nó không dành cho chiến đấu.”

“Ta xin lỗi, Gurney.”

“Con không thực sự hối lỗi!”

Halleck kích hoạt tấm chắn của mình, cúi xuống, tay trái chìa đoản kiếm hai lưỡi ra phía trước, tay phải giơ cao thanh kiếm mỏng. “Giờ thì ta nói con hãy tự vệ đi, nói thật đấy!” Ông nhảy vọt sang một bên, sau đó tiến lên phía trước, giận dữ tấn công dồn dập.

Paul ngả về phía sau, đỡ đòn. Cậu cảm thấy trường bảo vệ kêu răng rắc khi đường viền hai tấm chắn chạm nhau rồi đẩy nhau ra, có cảm giác ran ran khi dòng điện tiếp xúc dọc theo da cậu. Cái gì đã nhiễm vào Gurney vậy? Cậu tự hỏi. Ông ấy không giả bộ đánh như thế! Paul lắc tay trái, thả con dao găm đựng trong chiếc bao ở cổ tay rơi vào lòng bàn tay.

“Con thấy phải cần thêm một lưỡi dao nữa, hả?” Halleck làu bàu.

Đây có phải sự phản bội không? Paul tự hỏi. Gurney thì chắc chắn không!

Họ đánh nhau khắp quanh phòng - đâm và đỡ, nhử và phản công đòn nhử. Không khí trong những màn bong bóng bảo vệ trở nên nặng mùi bởi nhu cầu hít thở của hai người đã khiến sự trao đổi chậm chạp dọc mép rào chắn không kịp bổ sung không khí. Sau mỗi lần va chạm mới của các tấm chắn, mùi ôzôn càng thêm nồng nặc.

Paul tiếp tục lùi lại, nhưng lúc này cậu chủ ý rút lui về phía bàn tập. Nếu nhử được ông ấy lại gần bàn, ta sẽ trình diễn cho ông ấy xem một đòn gài bẫy, Paul nghĩ. Thêm một bước nữa nào, Gurney.

Halleck tiến một bước.

Paul hướng gươm đỡ phía dưới, xoay người, nhìn thấy thanh kiếm mỏng của Halleck chạm vào mép bàn. Paul ném người sang một bên, thọc gươm lên cao và lia dao găm qua đường viền cổ áo của Halleck. Paul dừng mũi dao khi nó chỉ cách động mạch cổ của Halleck vỏn vẹn hai xăng ti mét.

“Đây là cái thầy tìm kiếm phải không?” Paul thì thầm.

“Nhìn xuống đi, cậu bé,” Gurney hổn hển.

Paul làm theo, thấy thanh đoản kiếm hai lưỡi của Halleck đâm dưới mép bàn, mũi dao gần như chạm vào háng Paul.

“Lẽ ra chúng ta đã chết cùng nhau,” Halleck nói. “Nhưng ta thừa nhận là khi bị dồn ép thì con đánh có tốt hơn một chút. Dường như con bắt đầu có tâm trạng rồi đấy.” Và ông toét miệng cười như chó sói, vết sẹo vì roi nho mực lồi lên dọc quai hàm.

“Xem cái cách thầy xông vào ta kìa,” Paul nói. “Thầy thực s 1dcb muốn lấy máu ta sao?”

Halleck thu thanh đoản kiếm hai lưỡi lại, đứng thẳng lên. “Nếu con đánh dưới khả năng của mình một chút thôi thì ta đã rạch cho con một đường đẹp mắt, một vết sẹo mà con sẽ nhớ đời. Ta sẽ không để đứa học trò ta cưng nhất thất bại trước tên Harkonnen đầu tiên tình cờ xuất hiện đâu.”

Paul cho tấm chắn của mình ngừng hoạt động, tựa vào bàn, nín thở. “Ta đáng bị như thế, Gurney ạ. Nhưng nếu thầy làm đau ta thì cha ta sẽ nổi giận đó. Ta sẽ không để thầy bị trừng phạt vì lỗi của ta.”

“Về chuyện đó thì cả ta cũng có lỗi,” Halleck nói. “Và con không cần bận tâm về một hai cái sẹo lĩnh phải khi tập luyện. May cho con là con có rất ít sẹo. Còn về cha con, Công tước sẽ chỉ trừng phạt ta nếu ta không thể làm cho con trở thành một chiến sĩ hạng nhất. Và lẽ ra ta đã thất bại nếu không giải thích được cho con sự sai trái trong cái thứ tâm trạng mà con vừa đột ngột có được kia”.

Paul thẳng người lên, đút trả dao găm vào chiếc bao ở cổ tay.

“Ở đây chúng ta không hẳn là chỉ đánh chơi đâu,” Halleck nói.

Paul gật đầu. Cậu cảm thấy ngạc nhiên trước sự nghiêm trang ít thấy trong cung cách của Halleck và vẻ tập trung đầy cảnh tỉnh ở ông. Cậu nhìn vết sẹo vì roi nho mực màu củ cải trên quai hàm ông, nhớ lại câu chuyện kể rằng vết sẹo đó do Rabban Thú dữ ở một khu nô lệ Harkonnen trên hành tinh Giedi Prime để lại. Và đột nhiên Paul thấy xấu hổ vì đã nghi ngờ Halleck dù chỉ trong một khoảnh khắc. Rồi Paul chợt nảy ra ý nghĩ rằng vết sẹo của Halleck đã được tạo ra kèm theo sự đau đớn - một sự đau đớn có lẽ cũng dữ dội như nỗi đau do Mẹ Chí tôn gây ra. Cậu gạt ý nghĩ này sang một bên; nó làm thế giới của họ trở nên lạnh lẽo.

“Con nghĩ hôm nay con muốn chơi vài trò vui,” Paul nói. “Thời gian gần đây toàn thấy những chuyện quan trọng.”

Halleck quay đi để giấu cảm xúc của mình. Đôi mắt ông bùng cháy một điều gì đó. Có một nỗi đau trong ông - giống như một vết bỏng, tất cả những gì còn lại của một quá khứ đã mất nào đó mà Thời gian đã tước khỏi ông.

Cậu bé này phải gánh lấy tuổi trưởng thành sớm biết bao, Halleck nghĩ. Cậu phải đọc quá sớm cái bản mẫu đó trong tâm trí, bản giao kèo về sự cẩn trọng tàn bạo đó, để điền điều cần thiết vào dòng cần thiết: “Hãy liệt kê họ hàng thân thiết nhất của bạn.”

Halleck nói mà không quay đầu lại: “Ta cảm nhận được trò vui trong con, cậu bé, và ta không thích gì hơn là được tham gia trò vui đó. Nhưng không thể chơi thêm hơn nữa. Ngày mai chúng ta đi Arrakis rồi. Arrakis là có thật. Bọn Harkonnen là có thật.”

Paul giữ thẳng đứng thanh kiếm mỏng, cho lưỡi kiếm chạm vào trán.

Halleck quay người, nhận ra kiểu chào, liền gật đầu đáp lại.

Ông ra hiệu về phía người nộm dùng để luyện tập. “Bây giờ chúng ta sẽ luyện để nâng cao khả năng chọn thời điểm của con. Hãy để ta xem con đánh nhau với cái vật nguy hiểm này. Ta sẽ điều khiển nó từ đằng kia, ở chỗ ta có thể nhìn bao quát trận đánh. Và ta báo trước cho con biết, hôm nay ta sẽ thử những đòn phản công mới đấy. Nếu là kẻ thù thực sự thì sẽ không cảnh báo cho con như thế này đâu.”

Paul kéo căng ngón chân để làm thư giãn các cơ. Cậu cảm thấy nghiêm túc hơn khi bất ngờ nhận ra cuộc sống của mình đã trở nên đầy ắp những thay đổi mau lẹ. Cậu đi về phía người nộm, ấn mũi kiếm vào cái nút trên ngực nó và cảm nhận được trường bảo vệ đẩy lưỡi kiếm của cậu ra.

En garde!” Halleck hô to, và người nộm tấn công dồn dập.

Paul kích hoạt tấm chắn bảo vệ, tránh đòn và phản công.

Halleck vừa quan sát vừa dùng tay thao tác trên bộ điều khiển. Trí óc ông như chia ra làm hai: nửa này tỉnh táo nghĩ ra những chiêu thức cần thiết cho trận đấu tập, nửa kia lan man trong tiếng vo vo như của lũ ruồi.

Ta là một cây ăn quả được uốn nắn tốt, ông nghĩ. Đầy những cảm xúc và khả năng được trui rèn cẩn thận, tất cả được ghép lên mình ta - và ta cứ mang chúng mãi để ai đó đến mà hái chúng.

Vì lý do nào đó, ông nhớ lại em gái mình, khuôn mặt tinh nghịch của bà hiện rõ mồn một trong tâm trí ông. Nhưng giờ đây bà đã chết, trong một nhà nghỉ dành cho quân đội Harkonnen. Xưa kia bà yêu hoa păng xê... hay hoa cúc nhỉ? Ông không nhớ được. Ông cảm thấy buồn bực vì không nhớ được.

Paul đỡ một đòn tạt chậm của tên người nộm, vung tay trái ra đòn entretisser.

Cái đồ quỷ nhỏ sáng dạ này! Halleck vừa chăm chú theo dõi những cử động đan xen của tay cậu bé vừa nghĩ. Cậu ta đã tự mình rèn luyện và nghiên cứu. Đây không phải phong cách của Duncan, và chắc chắn không phải do mình dạy.

Ý nghĩ này chỉ làm tăng thêm nỗi buồn trong lòng Halleck. Mình nhiễm tâm trạng rồi, ông nghĩ. Và ông bắt đầu tự hỏi về Paul, liệu cậu bé có bao giờ lắng nghe một cách đầy sợ hãi cái gối mình giần giật trong đêm tối hay không.

“Nếu những điều ước là cá thì ai cũng đều quăng lưới,” ông lẩm bẩm.

Đó là cách nói của mẹ ông và ông luôn dùng đến nó mỗi khi cảm thấy cái màn đen của ngày mai bao phủ lên người mình. Rồi ông nghĩ, câu này nghe mới kỳ quặc làm sao nếu đem đến một hành tinh vốn chưa bao giờ biết đến biển cả hay cá mú.

Hết chương 4. Chương tiếp theo sẽ được cập nhật trong thời gian nhanh nhất.

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/26531


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận