Phòng tài nguyên và môi trường yêu cầu bên nhận chuyển nhượng bổ sung hồ sơ là xác nhận tình trạng hôn nhân hiện tại. Việc yêu cầu bổ sung thêm hồ sơ là đúng với quy định. Vấn đề ở đây là tình trạng hôn nhân của người mua(bên nhận chuyển nhượng) đang có vướng mắc cần phải được tháo gỡ:
Theo Điều 66 Nghị định 158/2008/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch qui định về thẩm quyền cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đó. Như vậy, bạn phải xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân tại Ủy ban Nhân dân xã phường nơi bạn đăng ký hộ khẩu thường trú.
Thủ tục xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân được quy định tại Điều 67 Nghị định 158/2008/NĐ-CP như sau: “1. Người yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định).
Trong trường hợp người yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ, có chồng, nhưng đã ly hôn hoặc người kia đã chết, thì phải xuất trình trích lục bản án/Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về việc ly hôn hoặc bản sao giấy chứng tử. Quy định này cũng được áp dụng đối với việc xác nhận tình trạng hôn nhân trong Tờ khai đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 18 của Nghị định này.
Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc viên chức Lãnh sự ký và cấp cho đương sự Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (theo mẫu quy định).
Để đảm bảo quyền lợi cho người mua trong trường hợp này phải xác định hôn nhân thực tế, tức quy định về sống chung nhưng không đăng ký kết hôn:
Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội quy định: Từ ngày 1/1/2001, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật chấp nhận là vợ chồng...
Tại khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của luật này được thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 1/1/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
c) Kể từ ngày 1/1/2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật chấp nhận là vợ chồng…”. Cần phải xác định rõ trường hợp hôn nhân thực tế của bên mua, nếu chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 1/1/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận là vợ chồng. Trong trường hợp này tình trạng hôn nhân của bên mua là chưa kết hôn với ai. Quyền sở hữu, sử dụng nhà đất chỉ riêng bên mua. Cần phải giải thích, căn cứ pháp luật làm việc với UBND phường về vấn đề này để được hoàn thiện thủ tục xin xác nhận tình trạng hôn nhân.
Công ty Luật quốc tế Thăng Long Luật sư Vũ Trường Giang Email: giangvt.09@gmai.com ĐT: 0987335309