Người tìm việc Giám đốc Marketing Vũ Ngọc Tuấn

Họ tên: Vũ Ngọc Tuấn

Giới tính: Nam

Ngày sinh: 24/04/1985

Mục tiêu nghề nghiệp

Cống hiến cho một thương hiệu năng động nơi tôi có thể phát huy hết năng lực, kinh nghiệm và mối quan hệ của mình trong 2 lĩnh vực Marketing và Internet!

Hình thức làm việc: Toàn thời gian cố định

Cấp bậc mong muốn: Trưởng/Phó phòng

Vị trí mong muốn: Giám đốc Marketing

Các kỹ năng

• Với những kinh nghiệm tích lũy được từ cuối năm 2011 với các mô hình thành công như GP Vietnam Capital, báo điện tử 14TV và thương hiệu linh chi táo đỏ dạng nước đầu tiên ở Việt Nam, Tôi có khả năng set-up một tổ chức hoặc ban quản lý dự án với nhân sự cứng dưới 30 người, trong vòng 3 tháng, bao gồm 1) bộ máy nhân sự, 2) chiến lược tiếp thị, bán hàng và liên kết kinh doanh, 3) hạ tầng công nghệ thông tin cho cả 3 phiên bản PC, wap và ứng dụng di động và 4) chính sách lương thưởng, văn hóa doanh nghiệp và quy trình làm việc;
• Khả năng vận dụng chiến lược Marketing cộng sinh một cách linh hoạt giúp đơn vị chủ quản mở rộng quan hệ đối tác, bán chéo sản phẩm mà vẫn tiết kiệm tối đa ngân sách Marketing;
• Với trên 2 năm trực tiếp tham gia đầu tư, set-up và phát triển một tổ hợp dự án Internet ở Việt Nam, bao gồm 1) trang tin tức tổng hợp (http://14tv.vn), 2) mô hình mua theo nhóm - Groupon 2.0 và 3) sàn vui chơi trúng thưởng, Tôi đã tích luỹ được những kinh nghiệm và mối quan hệ cần thiết giúp đơn vị chủ quản xâm nhập thị trường, kết nối đối tác và thúc đẩy mạnh doanh số bán hàng trên môi trường Internet;
• Am hiểu văn hóa Đông Á, được đào tạo thực tế theo phong cách Nhật Bản, Tôi có khả năng đặc biệt trong việc chiêu mộ và trọng dụng nhân tài, giúp Ban Lãnh Đạo xây dựng thương hiệu, hoạch định chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp một cách bền vững.

KỸ NĂNG NỔI BẬT:

1. Ky’zen
2. Chiến Lược Sản Phẩm
3. Chiến Lược Cạnh Tranh
4. SEM
5. Viral Marketing
6. Buzz Marketing
7. Marketing Cộng Sinh
8. Thương Mại Điện Tử
9. Quản Lý Dự Án Internet
10. Trao Quyền
11. Head-Hunting
12. Quản Trị Nhân Sự
13. Chăm Sóc Khách Hàng
14. Quan Hệ Cộng Đồng
15. Xây Dựng Mạng Lưới Bán Hàng, Đối Tác Liên Kết

Kinh nghiệm

# Tháng 05 – Tháng 10, 2005:
Cung cấp lao động phổ thông vào các khu công nghiệp vừa và nhỏ ở ngoại thành Hà Nội và Hưng Yên

• Vượt ngưỡng lợi nhuận 270 triệu đồng sau những nỗ lực không biết mệt mỏi của cả Nhóm 5 người, do Tôi đứng đầu xuất sắc đạt được cuối năm 2005.

# Tháng 03, 2006 – Tháng 01, 2008:
Trợ lý cho Ông Vương (free-lance), Chủ tịch Quĩ Thiên Y LONG - Trung Quốc

• Tham mưu cho Chủ tịch về văn hóa bản địa, chiến lược xâm nhập và quan hệ cộng đồng (PR) ở những địa phương nơi Thiên Y LONG triển khai dự án;
• Trợ lý (kiêm phiên dịch) cho Chủ tịch khi làm việc với nhà thầu, chính quyền địa phương và người dân bản địa;
• Giám sát hoạt động của các phòng/ban khi Chủ tịch về nước hoặc đi công tác vv…
• Gần 2 năm làm việc free-lance cho Thiên Y LONG không chỉ giúp Tôi phát triển các kỹ năng làm việc theo nhóm, điều phối dự án, giao tiếp quốc tế mà còn mang lại cho Tôi cơ hội được học hỏi văn hóa, kinh nghiệm quản lý, nghệ thuật dùng người và tinh thần dân tộc của người Hoa và Nhật Bản.

# Tháng 02 – Tháng 10, 2008:
Call-center Clerk (chuyên ca đêm), ở Khách sạn Sofitel Legend Metropole Hà Nội

• Chăm sóc khách hàng V.I.P qua điện thoại, xử lý mọi ý kiến thắc mắc, yêu cầu, phàn nàn của khách hàng; là đầu mối tiếp nhận mọi “order” của khách hàng trước khi sàng lọc rồi chuyển sang cho các bộ phận nghiệp vụ xử lý/ triển khai, bao gồm: “Front Desk”, “Room Service”, “Laundry”, “Butler”, “Guest Relation”, “Security” vv…
• 8 tháng làm việc chuyên-ca-đêm ở Sofitel Metropole Hà Nội - khách sạn nhiều năm liền được bình chọn là "khách sạn 5 sao hàng đầu ở Việt Nam", do tập đoàn Accor - Pháp vận hành, là khoảng thời gian bổ ích giúp Tôi rèn luyện khả năng chịu đựng, học hỏi phong cách quản lý của người Pháp và hoàn thành luận văn tốt nghiệp đại học.
• Sau khi quyết định chọn đề tài Call-Center để làm luận văn tốt nghiệp đại học, vào cuối học kỳ 1 năm cuối đại học Tôi đã mạnh dạn ứng tuyển, vượt qua 3 vòng phỏng vấn cạnh tranh khốc liệt và 2 tháng thử việc nhiều áp lực để trở thành nhân viên chính thức của Sofitel Metropole Hà Nội, ở thời điểm 8 tháng trước khi ra trường. Những gì học hỏi được ở Sofitel Metropole là hành trang giúp Tôi tự tin bước chân vào lĩnh vực mình đam mê và xác định sẽ theo đuổi trong suốt sự nghiệp là Marketing.

# Tháng 11, 2008 – Tháng 02, 2010:
Trợ lý Chủ tịch kiêm Giám đốc PR, Giang Nguyen Construction

• Trực tiếp quản lý, giám sát và điều phối hoạt động của Ban PR với 3 nhiệm vụ chính là đối ngoại, vận động hành lang và quan hệ cộng đồng;
• Trợ lý (kiêm phiên dịch) cho Chủ tịch khi đi giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng với các đối tác Nhật, Anh và Đông Âu.
• 15 tháng cống hiến ở Giang Nguyen giúp Tôi trang bị những kỹ năng cần thiết (viết bài PR, đối ngoại, vận động hành lang), kinh nghiệm (quan hệ báo chí) và mối quan hệ (với giới truyền thông) để có thể tìm kiếm cơ hội phát triển sự nghiệp, liên quan đến Marketing, ở một thương hiệu lớn hơn.

# Tháng 03 – Tháng 10, 2010:
Trưởng ban Marketing, Trường Đại học Quốc tế Bắc Hà

• Tôi sang Trường ĐHQT Bắc Hà (BHIU) vì tình bạn và đã nỗ lực hết mình hỗ trợ Trường trong các hoạt động tuyển sinh giai đoạn 2, năm học 2010-2011;
• Mùa tuyển sinh 2010, Trường không đạt kết quả như kỳ vọng (dù đạt thành tích tốt thứ 2 trong lịch sử xây dựng của Trường) vì cơ chế của Bộ lần đầu tiên cho phép các trường công lập mở hệ đào tạo ngoài ngân sách, dù không phải là người đứng đầu Hội đồng Tuyển sinh song Tôi đã nhận trách nhiệm trước Hội đồng Quản trị về kết quả tuyển sinh của Trường;
• Sang mùa tuyển sinh 2011, Trường bổ nhiệm tân Hiệu trưởng và giảm gần 50% học phí nhưng kết quả tuyển sinh vẫn không được như kỳ vọng. Dù không còn công tác ở Trường, nhưng Tôi vẫn giữ mối quan hệ tốt với ban lãnh đạo và các cán bộ giảng viên của Trường.
THÀNH QUẢ:
• Giúp Trường đạt kết quả tuyển sinh tốt thứ 2 trong lịch sử, dù không hoàn thành chỉ tiêu tuyển sinh năm học 2010 - 2011 song sau gần 3 năm rời Trường, Tôi có thể tự hào vì đã cùng ban giám hiệu và tập thể cán bộ - giảng viên của Trường vượt qua năm 2010 “nhạy cảm”, năm khởi đầu cho giai đoạn suy thoái trong toàn hệ thống các trường đại học ngoài công lập, tư thục và liên kết quốc tế;
• Khai sinh mạng xã hội OCTV (chạy trên nền tảng www.ning.com) giúp kết nối trên 90% sinh viên BHIU, là bước ngoặt mở ra một giai đoạn mới trong “đời sống, sinh hoạt tinh thần” của sinh viên. Trước khi Tôi đầu quân về, Trường đã nhiều lần đầu tư thiết kế website để xây dựng một diễn đàn/ mạng xã hội riêng giúp kết nối toàn bộ sinh viên vào một khối thống nhất, nhưng đều thất bại...

# Tháng 01 – Tháng 10/2011:
Trưởng phòng Marketing, Dược Quân Đội

• ARMEPHACO, tiền thân là Công ty Dược và Trang thiết bị Y tế Quân đội (nổi tiếng với thương hiệu “Dược Quân Đội”), là đơn vị đầu ngành của Quân đội hoạt động trong lĩnh vực Dược, với 2 xí nghiệp dược đạt tiêu chuẩn GMP-WHO, một xí nghiệp trang thiết bị y tế đạt tiêu chuẩn ISO – 9001:2000, 8 phòng bán hàng/phòng kinh doanh và 8 chi nhánh, văn phòng đại diện trên Toàn quốc;
• Sau khi “cổ phần hóa”, sang cuối năm 2010 Dược Quân Đội (DQĐ) mới thành lập Phòng Marketing với nhiệm vụ chính là xây dựng thương hiệu, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, phát triển sản phẩm chủ lực và hỗ trợ hoạt động kinh doanh, bán hàng, nhập khẩu ủy thác của DQĐ trên Toàn quốc;
• Sau khi đầu quân về DQĐ, Tôi đã phối hợp chặt chẽ với Phòng Tổ chức Nhân sự giúp thúc đẩy nhanh tiến độ set-up Phòng Marketing, phục vụ chiến lược kinh doanh mới của DQĐ sau “cổ phần hóa”; phối hợp với Phòng Hành chính và các chi nhánh, phòng bán hàng, kinh doanh trong việc tổ chức các sự kiện xúc tiến thương mại, giao lưu văn hóa - nghệ thuật, thể thao, ngày truyền thống… ở trong và ngoài Quân đội; hỗ trợ TGĐ làm công tác tâm lý, giúp thay đổi dần quan điểm của lãnh đạo, CB CNV về vai trò của hoạt động Marketing trong giai đoạn mới vv…
• Chuyên nghiệp hóa hoạt động quản lý trang thiết bị văn phòng, do bộ phận IT thuộc Phòng Marketing phụ trách, đặc biệt là thiết lập quy chuẩn cho mọi hoạt động mua sắm, phân phát và sửa chữa toàn bộ hệ thống điện thoại, máy vi tính, máy in, fax... của DQĐ trên Toàn quốc;
• Quan hệ mật thiết với các đồng chí lãnh đạo Cục Quân Y, Tổng cục Hậu cần và các báo, đài của Quân đội với mục đích chăm sóc và củng cố mối quan hệ, từ đó nâng cao quy mô đơn đặt hàng trong nội bộ hệ thống bệnh viện, Tổng cục và các đơn vị của Quân đội – khách hàng lớn nhất của DQĐ;
• Chủ trì tổ chức/ tham gia vào các hoạt động đối ngoại, tiếp đón, đàm phán, ký kết hợp đồng với đối tác Nhật, Đông Âu, đoàn công tác của Cục Quân Y - Quân đội Campuchia sang thăm và làm việc với Cục Quân Y - Việt Nam, các phái đoàn của Tổng cục Hậu cần, Cục Quân Y xuống thanh kiểm tra DQĐ vv…
THÀNH QUẢ:
• 26 tuổi được bổ nhiệm làm “Trưởng phòng Marketing” đầu tiên của Dược Quân Đội, dù thời gian công tác ở DQĐ không dài song Tôi đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực Dược, đặc biệt là kết nối thành công với một nhà khoa học uy tín của Lâm Đồng trong dự án “Sâm Ngọc Linh” - nghiên cứu phát triển 3 dòng sản phẩm chủ lực là nước giải khát, mỹ phẩm và thực phẩm chức năng;
• Đề xuất lên Ban TGĐ 1- chiến lược, kế hoạch phát triển sản phẩm mới và sản phẩm chủ lực (liên quan đến sâm Ngọc Linh, tảo biển và collagen), 2- quy hoạch lại danh mục sản phẩm, đặc biệt là sàng lọc một số lượng lớn “thuốc chợ” ra khỏi kế hoạch sản xuất thường niên của 2 xí nghiệp dược 120, 150, 3- chiến lược, kế hoạch và ngân sách tiếp thị tổng thể của DQĐ, trong ngắn hạn và trung hạn;
• Chủ trì tổ chức xây dựng lại kho dữ liệu thông tin chi tiết về hơn 300 sản phẩm (dược và trang thiết bị y tế) của DQĐ, sau khi chụp ảnh, xử lý photoshop, bổ sung thông tin sản phẩm, chính sách giá, upload sản phẩm lên website…; thiết kế lại hệ thống website, diễn đàn, phần mềm quản lý nhân sự giúp DQĐ xây dựng nền móng cho các hoạt động e-Marketing sau này, quản lý danh mục sản phẩm và chuyển dần sang quản lý nhân sự hoàn toàn trên máy vi tính.
• DQĐ mang lại cho Tôi cơ hội bước chân vào lĩnh vực Dược, được làm việc cho một thương hiệu lớn, song những tồn tại của cơ chế quản lý nhà nước và khó khăn về tài chính sau “cổ phần hóa” (phải trả chi phí thuê đất, ở Hà Nội và Sài Gòn gần bằng lợi nhuận cả năm của doanh nghiệp) khiến cho DQĐ không có nhiều ngân sách cho Marketing và nhiều đề xuất, kế hoạch của Tôi trình lên ban lãnh đạo liên quan đến chiến lược phát triển sản phẩm, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại… bị chậm tiến độ vô thời hạn, đó là lý do sau nhiều cân nhắc Tôi quyết định rời DQĐ để nắm bắt cơ hội bước chân vào lĩnh vực ngân hàng đầu tư (Investment Banking). Tháng 7/2011, nhận lời mời thiện chí của TGĐ Nguyễn Minh Giang, Tôi quyết định đầu quân về GP Vietnam Capital giữ vị trí Phó TGĐ phụ trách mọi vấn đề liên quan đến xây dựng thương hiệu và phát triển kinh doanh.

# Tháng 07, 2011 - Tháng 06/2013:
Phó TGĐ phụ trách Thương hiệu và Kinh doanh, GP Vietnam Capital

• Chịu trách nhiệm chính về mọi hoạt động liên quan tới xây dựng thương hiệu, thu hút vốn đầu tư, tìm kiếm và triển khai các dự án tài trợ, hợp tác kinh doanh giúp mang lại tối đa lợi ích cho Quỹ;
• Hoạch định chiến lược phát triển giai đoạn 2011 - 2015, xây dựng quy chế hoạt động của Khối Phát triển Kinh doanh, thiết kế các gói sản phẩm tài chính, xây dựng thương hiệu “GP Vietnam Capital” vv…
• GP Vietnam Capital được thành lập ở BVI – Vương quốc Anh, hoạt động theo mô hình của một quỹ đầu tư phòng hộ (Hedge-Fund), có văn phòng đại diện ở Mỹ, Úc và Việt Nam.
THÀNH QUẢ:
• Xây dựng xong bộ máy Khối Phát triển Kinh doanh sau 3 tháng set-up, giúp GP Vietnam Capital vượt qua khó khăn về nguồn vốn trước Tết, giữa bối cảnh bùng nổ “tín dụng đen” và khủng hoảng cục bộ ngân hàng;
• Trực tiếp chiêu mộ và bồi dưỡng thế hệ lãnh đạo kế cận cho GP Vietnam Capital, bao gồm “Giám đốc Nhân sự”, “Trưởng phòng Nguồn vốn” và đội ngũ chuyên viên tín dụng từ các ngân hàng uy tín sang;
• Trình kế hoạch triển khai dự án “Chung đường, Chung xe” của TS Nguyễn Quang Hưng trên thực tế với nền tảng công nghệ giám sát hành trình bằng ICT và kết nối với các hãng taxi cổ phần ở Hà Nội;
• Khởi động dự án mạng xã hội (sau này được biết đến là MXH SenaWorld) và lĩnh vực kinh doanh Thẻ, xây dựng nền móng cho kế hoạch mở rộng mô hình hoạt động của GP Vietnam Capital sang lĩnh vực ngân hàng truyền thống (Traditional Banking).
• Sau những thành công lớn trước và sau Tết, Khối Phát triển Kinh doanh phải đối mặt với 2 lựa chọn khi TGĐ đột ngột thay đổi mô hình tổ chức (nghiêng về kinh-doanh-theo-mạng, có liên quan gián tiếp với scandal của công ty bán hàng đa cấp Tâm Mặt Trời) và cơ chế hoạt động của Khối, theo hướng tiêu cực. Sau khi thuyết phục TGĐ không thành, Tôi quyết định rời GP Vietnam Capital và Khối Phát triển Kinh doanh cũng dần tan rã sau một thời gian ngắn. Sau khi những nhân sự giỏi của Khối ra đi, và mô hình mới thất bại khiến cho GP Vietnam Capital không thể xây dựng lại một đội kinh doanh mạnh như trước, TGĐ đã mời Tôi quay trở lại sau 6 tháng phát triển dự án Thẻ “3-trong-1” ở SANGNAM.

*****

• Sau khi rời GP Vietnam Capital, Tôi đã quay trở lại SANGNAM - nơi Tôi góp vốn đầu tư từ cuối năm 2010 để tiếp tục phát triển sự nghiệp trong lĩnh vực Banking, với 3 mảng kinh doanh chủ đạo là huy động vốn, cho vay và phát hành Thẻ;
• Tháng 6/2012: SANGNAM bắt đầu triển khai các hoạt động huy động vốn và cho vay ở ngoại thành Hà Nội và thành phố Thái Nguyên.
• Tháng 8/2012: SANGNAM chính thức bước chân vào lĩnh vực kinh doanh Thẻ bằng việc trở thành đối tác chiến lược của Ngân hàng Dầu khí và một số nhà sản xuất/phân phối uy tín của Việt Nam;
• Tháng 9/2012: SANGNAM cho ra đời 3 sản phẩm mới chưa-từng-có trên thị trường Việt Nam là Thẻ Trả Lương “3 Trong 1”, Thẻ Ngoại Giao và Thẻ Báo Hiếu;
• Sau gần 1 năm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, SANGNAM bắt đầu chạy thử MXH SenaWorld ở địa chỉ: http://secretgarden.cheprong.vn và mô hình Groupon 2.0 ở địa chỉ http://quabieu.cheprong.vn, trước khi chuyển sang phát triển ứng dụng chạy trên máy tính bảng và smart-phone, dùng một trong 2 hệ điều hành phổ biến là – IOS và Android.
• Vì gặp khó khăn về vốn cuối năm 2012 khi sa lầy vào khủng hoảng tài chính và nợ xấu trong lĩnh vực tín dụng (cho vay ở ngoại thành Hà Nội và Thái Nguyên chưa có khả năng thu hồi nợ), SANGNAM buộc phải ngừng phát triển dự án Thẻ, mô hình Groupon 2.0 và MXH SenaWorld, cho đến khi tìm được nhà đầu tư mới.

*****

• Sau khi hoạt động kinh doanh ở SANGNAM đình trệ vì thiếu vốn, Tôi đã nhận lời quay trở lại giúp TGĐ Nguyễn Minh Giang tái thiết GP Vietnam Capital và hỗ trợ SANGNAM khởi động lại một phần dự án SenaWorld.
• Tháng 12/2012: SANGNAM, dưới sự hỗ trợ về vốn của GP Vietnam Capital, đã phát triển thành công bộ giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, với mục đích giúp các ngân hàng thương mại, báo điện tử, website việc làm và mọi mô hình kinh doanh trực tuyến, B2B… xác lập lợi thế cạnh tranh trên thị trường bằng việc tích hợp nhiều giá trị gia tăng vào sản phẩm giúp mang lại tối đa quyền lợi cho khách hàng: http://giaiphapkinhdoanh.cheprong.vn
• Cho ra đời 2 gói sản phẩm “bảo hiểm kết hợp đầu tư” là Heo Vàng và Sư Tử Vàng, bắt tay với tập đoàn bảo hiểm Hanwha của Hàn Quốc. Triển khai set-up lại đội kinh doanh với mục đích mở rộng lại thị phần cho GP Vietnam Capital;
• Tháng 5/2013: Khi đang bước vào giai đoạn chạy thử 2 gói sản phẩm tài chính mới, nhận thấy những dấu hiệu bất ổn về năng lực tài chính và nguy cơ tổ chức bị ảnh hưởng mạnh từ scandal của Chủ tịch Sáng lập (ở Trường ĐH Kinh tế Quốc dân), Tôi quyết định rời GP Vietnam Capital cùng một số nhân sự “key” của SANGNAM.

# Tháng 06, 2013 – Tháng 9/2014
Giám đốc Dự án, Báo Điện Tử 14TV

• Tháng 6/2013: SANGNAM chạy thử “trang tin tức tổng hợp” 14TV ở địa chỉ http://14tv.vn, nhắm đến khách hàng mục tiêu là phụ nữ và giới trẻ, thu hút trên 19 ngàn lượt độc giả truy cập ngay trong tháng đầu tiên và vượt mốc 100 ngàn lượt truy cập sau hơn 3 tháng khai trương.
• Thán 10000 g 8/2013: 14TV được tạp chí Nhịp cầu Doanh nghiệp – Bộ Công Thương mời làm đối tác chiến lược trong dự án hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm thiểu tổn thương do khủng hoảng kinh tế, kéo dài 5 năm (2013 – 2018) và trở thành đại diện truyền thông cho CLB Đẹp + do Bảo Tín Minh Châu và các đối tác uy tín trong lĩnh vực thời trang, làm đẹp, nhà hàng, du lịch - khách sạn... đồng sáng lập.
• Nhận thấy rõ tiềm năng phát triển của 14TV, SANGNAM quyết định chấm dứt hoàn toàn kế hoạch phát triển dự án mạng xã hội SenaWorld và mô hình Groupon 2.0 để tập trung đầu tư phát triển 14TV trở thành trang tin tức tổng hợp hàng đầu dành cho phụ nữ và giới trẻ ở Việt Nam. Mục tiêu ngắn hạn là cuối năm 2014, 14TV lọt vào Top 150 website có số lượng truy cập lớn nhất Việt Nam.

# CMO, Valentino

• Tháng 10/2013: SANGNAM quyết định mở rộng hoạt động của 14TV sang lĩnh vực thương mại điện tử dành cho giới nhà giàu ở Việt Nam. Để có kinh nghiệm và mối quan hệ trong lĩnh vực "Hàng Cao Cấp", Tôi quyết định đầu quân về một trong những hãng phân phối thời trang hàng hiệu lớn nhất ở Việt Nam.
• Ở vị trí CMO, nhiệm vụ chính của Tôi là quản lý thương hiệu, chăm sóc khách hàng và thúc đẩy lợi nhuận kinh doanh cho 2 nhãn hàng thời trang hàng hiệu của Ý ở Việt Nam, là Valentino và Moschino.

*****

• Tháng 3/2014: 14TV lọt vào Top 200 "trang tin tức tổng hợp" có số lượng độc giả truy cập lớn nhất ở Việt Nam, được một tập đoàn bán lẻ của Hàn Quốc gửi lời mời sáp nhập, nhưng SANGNAM đã từ chối để có thể hoàn toàn chủ động đầu tư mở rộng lĩnh vực hoạt động của 14TV sang thương mại điện tử trên di động dành cho giới nhà giàu ở Việt Nam.
_ Giữa năm 2014, khai thác sức mạnh truyền thông và lượng độc giả sẵn có (700 ngàn) của 14TV, Tôi nhận lời đối tác Hàn Quốc tham gia set-up mạng lưới phân phối bán lẻ cho thương hiệu Linh Chi Táo Đỏ dạng nước đầu tiên ở Việt Nam qua 3 kênh chủ đạo là i) OTC, ii) tài trợ nước uống cho các sự kiện được tổ chức ở khách sạn 3 - 4 sao và các đối tác liên kết và iii) TMĐT.
_ Tháng 9/2014: Vì lý do "chính trị", Tôi buộc phải hạ mảng báo điện tử của 14TV trước khi Bộ mạnh tay xử lý hàng loạt báo điện tử như Trí Thức Trẻ, Tiền Phong, Đời sống và Pháp luật vv... 14TV được chuyển nhượng cho một nhà đầu tư Việt kiều để tiếp tục phát triển sàn TMĐT trên di động dành cho giới nhà giàu ở Việt Nam.

* Sau hơn 2 năm dành toàn bộ thời gian để học hỏi kinh nghiệm và xây dựng mối quan hệ trong ngành công nghiệp Internet và ngân hàng đầu tư, nhận thấy những giới hạn của bản thân về kỹ năng lãnh đạo và năng lực tài chính, Tôi quyết định rút lui dần khỏi vị trí điều hành trực tiếp ở những dự án từng tham gia set-up để tìm một môi trường thực sự ổn định nơi có thể phát huy tốt nhất những kỹ năng, kinh nghiệm và mối quan hệ tích lũy được, để hoàn thiện bản thân và trở thành một trong những CMO xuất sắc hàng đầu ở Việt Nam.

_ Ở thời điểm hiện tại Tôi đang phụ trách mảng phát triển sản phẩm cho dự án internet được đầu tư lớn nhất Việt Nam của Tập đoàn Vingroup. Sau khi khai trương dự án, sẽ chuyển sang giữ vị trí Trưởng phòng Quảng cáo với nhiệm vụ chính là đảm bảo KPI về số lượng và chất lượng khách truy cập website; khai thác quảng cáo và các hoạt động sinh lợi trên website; chăm sóc khách hàng vv...

Các bằng cấp/ chứng chỉ khác

_ Quản Trị Nhân Lực _ Đầu Tư Tăng Trưởng * TOEIC 810 Điểm (2007)

Trình độ tin học: _ MS Words: Tốt
_ MS Excel: Cơ Bản
_ MS PowerPoint: Tốt
_ Quản Trị Web: Tốt
_ SEM: Tốt

Ngoại ngữ: English - Tiếng Anh

Tốt nghiệp tại trường: Viện Đại học Mở HN

Tốt nghiệp năm: 2008 (Khá)

Ngành học: Quản trị kinh doanh du lịch khách sạn

Trình độ học vấn: Đại học

Địa điểm làm việc: Hà Nội
Bắc Ninh
Hưng Yên...

Mức lương: Thỏa thuận

Số năm kinh nghiệm: Hơn 5 năm

Tuổi: 29

Ngành nghề: Marketing PR

Tình trạng hôn nhân: Đã kết hôn

Ngày làm mới: 02/11/2014


Nguồn: hn.vieclam.24h.com.vn/nha-tuyen-dung/marketing-pr/giam-doc-marketing-c53p0id2487974.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận