ARISTOTE - NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI NHẤT THỜI CỔ ĐẠI
Aristote (384 - 322 trước Công nguyên) là nhà khoa học, nhà triết học vĩ đại nhất thời cổ đại. Ông đã viết không ít hơn 70 loại sách, hiện còn lưu truyền được 47 loại, bao gồm logic học, triết học, vật lí học, thiên văn học, sinh vật học, sinh lí học. Ông là nhà khoa học thu được nhiều thành tựu trong nhiều lĩnh vực, kết tinh cho trí thức của các nhà bác học Hi Lạp thời cổ đại. Cho đến thời cận đại trước khi phát sinh các ngành khoa học thực nghiệm thì ở châu Âu thời trung cổ, những ý tưởng của Aristote là điều không có ai phải nghi ngờ.
Chính Aristote đã lấy tự nhiên làm đối tượng khách quan để nghiên cứu. Trước hết ông đã tiến hành việc phân loại khoa học, chia thành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội là những ngành khoa học độc lập. Ông là người đã sáng tạo logic hình thức. Chính ông đã đưa ra các quy tắc để từ các tiền đề chính xác dẫn giải quy nạp để đưa đến các kết luận chính xác. Ông rất coi trọng suy luận logic, vận dụng các công cụ toán học, các phương pháp này đã làm cơ sở cho nhiều ngành khoa học phát triển.
Về sinh vật học, Aristote là một nhà sinh vật học hàng đầu trên thế giới. Ông đã nghiên cứu các đối tượng sống và đã đưa ra một định nghĩa tương đối khoa học về sự sống: “ Sự sống là những thực thể tự mình có thể cung dưỡng cho mình để có thể độc lập phát triển và suy tàn''. Ông đề ra luận điểm sự sống được phát sinh ở ranh giới giữa thực vật và động vật từ cấp thấp phát triển lên cấp cao, phát triển đến trình độ cao nhất là loài người. Đó là một tư tưởng hết sức đặc sắc. Ông lại từ các mối quan hệ ở quanh mình mà phân loại động vật. Cách phân loại này cho đến ngày nay vẫn có ý nghĩa chỉ đạo cho phương pháp phân loại sinh vật.
Aristote cho rằng thế giới vật chất trong tự nhiên, không gian, thời gian liên quan mật thiết với chuyển động. Ông chủ trương vật chất, không gian, thời gian là có tính liên tục, phản đối thuyết có tồn tại “khoảng trống”. Ông rất coi trọng việc quan sát và cố chứng minh Trái Đất có dạng hình cầu.
Do sự hạn chế của thời đại, Aristote vĩ đại chỉ có thể đưa vào kết quả quan sát và trí tưởng tượng mà xem xét vạn vật và sự việc chuyển động và nguyên nhân của các sự việc đó, vì vậy ông không thể tránh khỏi các sai lầm. Ví cụ ông cho rằng để cho vạn vật chuyển động không ngừng thì cần phải luôn có các ngoại lực tác động, nếu không, các vật sẽ tự dừng lại; ông chủ trương học thuyết Địa tâm cho rằng Trái Đất là trung tâm của vũ trụ; ông cho rằng tim, phổi là cơ quan của trí tuệ còn đại não chỉ là một bộ máy làm lạnh, v..v
Mặc dù Aristote đã có những sai lầm, nhưng điều đó không làm mất đi tính vĩ đại của ông. Ông nói: ''Tôi có những căn cứ sẵn có, không có các hình mẫu để noi theo. Tôi là người mở màn, là một thực thể bé nhỏ, tôi hy vọng các độc giả, xin các ngài chấp nhận những thành tựu cũng như những điều chưa đạt được của bản thân tôi'' . Điều đáng buồn là sau khi ông mất đã trải qua hàng nghìn năm, giáo hội Cơ đốc ở châu Âu đã cắt xén các học thuyết của ông vì mục đích giữ lấy quyền thống trị. Họ đã giết chết những nét sống động trong học thuyết của ông mà chỉ giữ lại các thần chết của học thuyết. Họ đã thần thánh hóa học thuyết làm nó trở thành một trở lực ngăn cản khoa học phát triển. Đến thời cận đại khi đã nảy sinh nền khoa học thực nghiệm, các nhà khoa học không thể không tước bỏ, giải phóng các điểm giáo điều khỏi học thuyết của Aristote, tiến hành một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, nhiều nhà khoa học như Bruno, Gal1i1ê thậm chí đã hi sinh cả tính mạng của mình vì cuộc đấu tranh đó.