Dòng chảy Biển Đông có đặc điểm gì?
Hoàn lưu nước Biển Đông chịu ảnh hưởng rất lớn của chế độ gió mùa (gió mùa đông bắc và gió mùa tây nam) theo hướng trục chính của biển.
Trong mùa gió nam, nước từ biển Java và nam Biển Đông chảy dọc theo bờ biển Việt Nam, chuyển động về hướng đông bắc và đi vào biển Hoa Đông. Ở vùng ven biển Miền Trung, nhất là phần lồi ra, tốc độ dòng chảy gió có thể lên tới 50cm/s.
Ở phần phía bắc và phần giữa Biển Đông, dòng chảy theo hướng đông bắc chiếm ưu thế, tạo ra tình hình: phía nam Biển Đông mất nước, phía bắc Biển Đông tích nước, mực nước nâng cao. Kết quả tạo thành hoàn lưu nước theo chiều quay của kim đồng hồ.
Từ tháng 6, dòng chảy có hướng giữa bắc và đông. Dòng chảy từ biển Java có hướng tây bắc, rồi bắc, đông bắc và sau cùng là ở phía nam ven biển Việt Nam hướng đông - đông bắc.
Hoàn lưu chung ở Biển Đông còn ổn định trong các tháng 7 và 8, tương tự như tháng 6. Vận tốc dòng chảy tăng ở ven biển phía nam nước ta. Gió tây nam mạnh, làm cho dòng chảy giữa vĩ tuyến 10o và 15oBắc tăng cường mạnh lên. Tốc độ dòng chảy đạt lới trên l00cm/s. Vào tháng 7, dọc ven biển Miền Trung có tồn tại một dòng chay ngược có hướng giữa nam đông nam và nam, tới vĩ độ của Mũi Dinh. Dòng chảy ngược này sẽ nối tiếp dòng chảy chung có hướng đông – đông bắc, tốc độ tới 100cm/s vào mùa hạ.
Trong thời kì gió mùa đông thì ngược lại. Nước từ biển Basi chảy vào biển Hoa Đông rồi chảy vào Biển Đông, tạo thành dòng chảy theo hướng đông bắc - tây nam, ở bờ biển Việt Nam tóc độ dòng có thể lên tới100oC. Ở phía đông có một bộ phận dòng chảy đi từ biển Sulu vào Biển Đông theo hướng tây bắc, vào giữa Biển Đông chuyển thành hướng tây, đến bờ biển Việt Nam thì gia nhập dòng chủ yếu, dòng chảy này có hướng song song với đường bờ.
Về mùa đông, khi dòng chảy trôi phát triển, phía nam Biển Đông tích nước, mặt biển dâng cao trong khi đó phía bắc Biển Đông mất nước, mực nước hạ thấp. Vì thế xuất hiện dòng nước bù trừ chảy theo hướng. đông bắc, tạo thành hoàn lưu, ngược kim đồng hồ.
Vào tháng 9, có sự giảm tốc dộ dòng chảy rõ rệt, dòng chảy có hướng giữa bắc và đông bắc. Ở ngoài khơi bán đảo Malaixia và hướng đông nam ở ngoìa khơi bờ biển Việt Nam. Ở phía nam, vĩ tuyến 10oBắc, hình thành một xoáy lớn có chiều của xoáy nghịch. Một vùng xoáy nữa có chiều xoáy thuận hình thành ở ngòai khơi bờ biển Miền Trung Việt Nam. Dòng chảy có hướng nam chảy dọc theo ven biển Việt Nam, tốc độ lớn trên 100cm/s.
Tháng 10 vùng xoáy có chiều của xoáy thuận trải rộng hầu như khắp Bển Đông, do gió mùa đông bắc đã bắt đầu thổi. Dòng chảy đi qua eo biển Đài Loan theo hướng tây nam, chảy về biển Việt Nam đến vĩ tuyến 16o Bắc, tốc độ dòng chảy có thể đạt tới 2 nút (100cm/s). Giữa Mũi Dinh và Cù Lao Xanh (Poulo Gambir), người ta quan trắc được vận tốc tới 4,5 nút, Giữa Mũi Dinh và mũi Đà Nẵng, có tồn tại những dòng chảy nguy hiểm hướng theo bờ.
Ở phía nam Mũi Dinh, dòng chảy có hướng nam, tốc độ dòng chảy dưới 2 nút.
Tháng 11 và 12, tồn tại một hoàn lưu có hướng của xoáy thuận trên toàn bộ Biển Đông, ở phía đông kinh tuyến 112o Đông, dòng chảy có hướng chung là bắc, tốc độ 0,4 - 0,8 nút. Ở phía tây kinh tuyến 112oĐông, dòng chảy có hướng giữa nam và nam - tây nam. Dòng chảy theo dọc ven biển Miền Trung Việt Nam tương đối lớn. Dòng chảy gió tầng mặt trong vịnh Bắc Bộ có tốc độ trung bình là 20cm/s, hướng dọc theo bờ đông bắc. Khu trung tâm vịnh Bắc Bộ, dòng chảy đạt tốc độ lớn nhất là từ 40 - 50cm/s.
Dòng chảy ở tầng giữa hầu như có hướng ngược lại với dòng chảy tầng mặt và có tốc độ nhỏ hơn.
Dòng chảy ở tầng sát đáy có tốc độ rất nhỏ (hầu như bằng 0), điều đó chứng tỏ dòng chảy gió chỉ phát trển tới độ sâu z = 1/2H (H là độ sâu biển).
Vùng ven biển các vịnh Bắc Bộ, Thái Lan có dòng chảy tổng hợp mạnh, tốc độ 100- 120cm/s. Ở vùng ven biển Bến Tre, hướng chính của dòng chảy vùng ven bờ là tây nam và đông nam.
Ở vùng thềm lục địa Việt Nam, một trong những đặc điểm quan trọng của dòng chảy là ảnh hưởng của bờ và thềm lục địa lên dòng chảy ven bờ, tạo nên xu thế nắn hướng dòng chảy theo hướng cơ bản của đường bờ và đường đẳng sâu. Trên thềm lục địa phía nam, đác điểm đó thể hiện rõ nét. Ở tầng 5m hướng dòng chảy trung bình tại các trạm ven bờ gần trùng với hướng bờ hơn là tại các trạm xa bờ. Điều đặc biệt ở đây là theo độ sâu, hướng dòng chảy nhanh chóng xoay chiều ngược với chiều kim đồng hồ ra hướng vào bờ. Tại các trạm ven bờ, điều này xảy ra trong toàn bộ lớp nước từ mặt đến đáy, tại những trạm xa bờ điều này xảy ra ở lớp dưới cách mặt biển chừng 15 - 20m trở xuống. Điều này, chứng tỏ hiệu ứng thứ cấp của dòng chảy gió trên thềm lục địa là mạnh và càng vào bờ ảnh hưởng đó càng phái triển lên tận mặt biển.
Đặc điểm thứ hai là trong lớp nước bề mặt (trừ dải ven bờ) hướng dòng chảy gần trùng với hướng gió.
Ngoài ra, dòng chảy trực giao với bờ trên thềm lục địa mang đặc tính phân thành hai lớp ngược chiều nhau rõ ràng: trong lớp nước bề mặt thành phần trực giao hướng ra khơi, trong lớp nước bên dưới thành phân này hướng vào bờ.
Đặc điểm thứ ba là sự thể hiện rõ tính chất nghịch hướng của dòng chảy theo gió trên thềm lục địa.
Hầu hết các tư liệu do dòng chảy mùa đông cho thấy hướng dòng chủ yếu là tây nam trong lớp bề mặt trong khi hướng gió thịnh hành là đông bắc.
Các đặc điểm trên cho thấy rõ sự phụ thuộc khá chặt chẽ của dòng chảy thềm lục địa phía nam vào hướng và tốc độ gió.
Quanh năm trên thềm lục địa tồn tại dòng nước cơ bản khá cao. Một điều đáng chú ý nữa là trong mùa hạ, gió mùa tây nam chiếm ưu thế, phía đông bờ biển Việt Nam, bờ đông đảo Hải Nam đều có hiện tượng nước trồi. Mùa đông, bờ biển Nam Trung Bộ Việt Nam cũng có hiện tượng nước trồi xuất hiện.