Tài liệu: KINH TẾ HỌC CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG-PHẦN 5

Tài liệu
Nguyễn Thế Chinh

Tóm tắt nội dung

KINH TẾ HỌC CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG-PHẦN 5
KINH TẾ HỌC CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG-PHẦN 5

Nội dung

Tài nguyên môi trường và quyền tài sản cá nhân

Trong nền kinh tế thị trường, khi không có thất bại thị trường, bàn tay vô hình của việc cạnh tranh sẽ hướng các nguồn tài nguyên vào việc sử dụng hữu hiệu nhất-và các cá nhân theo đuổi lợi ích sẽ định vị các nguồn tài nguyên dó về mặt xã hội. Nói cách khác, nền kinh tế tư nhân mang lại hiệu quả về mặt xã hội.

Song chúng ta không sống trong một thế giới hoàn hảo. Các thất bại trong nghiên cứu và thị trường luôn tồn tại quanh chúng ta. Ta thấy xuất hiện những cuộc cạnh tranh không hoàn hảo, những thông tin sai lệch; và điều cốt yếu của vấn đề này là các mối quan hệ ngoại ứng tồn tại ở những nơi hoạt động của hãng này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến các hãng khác trong nền kinh tế.

Luận cứ bàn tay vô hình phân chia thế giới với những mối quan hệ ngoại ứng. Vì sao? Các hãng theo đuổi lợi ích không thừa nhận các chi phí hay lợi ích mà hoạt động của họ mang lại cho các hãng khác. Rút cục, giá trị cá nhân tách rời khỏi giá trị xã hội và tính cân bằng của thị trường tư nhân không còn hiệu quả về mặt xã hội.

Chúng ta hãy xem xét lại. Bàn tay vô hình hoạt động khi nào?

Bàn tay vô hình hoạt động khi quyển sở hữu cá nhân được xác định rõ ràng.

Quyền sở hữu cho phép một cá nhân được sử dụng tài sản khi họ thấy tài sản đó thích hợp với mình; đồng thời họ có quyền bán lại tài sản đó. Quyền sở hữu khuyến khích các cá nhân sử dụng tài sản dưới sự kiểm soát của chính họ một cách hữu hiêụ; người sở hữu sẽ quyết định việc sử dụng có lợi nhất của nguồn tài nguyên vì anh ta có thể giữ lại hay trích lại một phần lợi nhuận kiếm được từ nguồn tài nguyên đó. Vì vậy, động cơ kiếm được lợi nhuận kết hợp với quyền tư hữu sẽ khuyến khích các cá nhân sử dụng nguồn tài nguyên một cách hiệu quả.

Nếu một nguồn tài nguyên không thuộc sở hữu cá nhân thì khi đó bàn tay vô hình không còn tác dụng. Tại sao? Thị trường cạnh tranh không hề khuyến khích việc sử dụng hay quản lý những nguồn tài nguyên đó một cách hiệu quả - việc thiếu đi quyền sở hữu làm giảm động cơ muốn kiếm lợi nhuận vì không một cá nhân sử dụng nào có thể quản lý được nguồn tài nguyên để tối đa hoá và để trích lại lợi nhuận từ nguồn tài nguyên đó. Ví dụ rõ ràng nhất chứng minh những hậu quả tiêu cực do thiếu sự sở hữu cá nhân chính là việc sử dụng sai mục đích và làm dụng môi trường, cái mà không có cá nhân nào sở hữu.

Một trong những giải thích rõ ràng nhất đối với những vấn đề môi trường chính là thiếu sự xác định rõ ràng về luật bản quyền đối với môi trường. Chính lý do đó đã dẫn đến thiếu sự bảo hộ hay quản lý một cách có hiệu quả đối với nguồn tài nguyên môi trường.

Chúng ta không cần phải khẳng định rằng quyền sở hữu sẽ giải quyết mọi vấn đề về môi trường. Trong những phần sau, khi chúng ta nghiên cứu các giải pháp cho thị trường tư nhân, chúng ta sẽ kiểm nghiệm xem liệu việc ký kết luật bản quyền có thể giải quyết các vấn đề môi trường hay không. Chúng ta sẽ biết được nhiều tài nguyên môi trường không phù hợp với quyền sở hữu cá nhân và điều đó có thể dẫn đến sự thất bại của những cuộc đàm phán cá nhân về việc sử dụng nguồn tài nguyên.

Một trong những lý do khiến nguồn tài nguyên môi trường không phù hợp với sở hữu cá nhân là vì nó thể hiện là một tài sản không thể loại trừ: việc loại bỏ con người ta khỏi nguồn tài nguyên môi trường hay khi ngăn chặn con người không được tận dụng nguồn tài nguyên môi trường, là điều không thể có khi xét về mặt vật chất, đồng thời cũng là không hiện thực khi xét về mặt kinh tế.

Một điều tất nhiên là rất nhiều người có thể sử dụng nguồn tài nguyên môi trường - đó chính là tài nguyên sở hữu chung.

Định nghĩa: Tài nguyên sở hữu chung là nguồn tài nguyên không phải do đơn lẻ cá nhân hay công ty nào kiểm soát. Nếu việc sử dụng những tài nguyên này không bị hạn chế sẽ dẫn đến việc chúng bị khai thác quá mức bởi những người đến trước chiếm dụng.

Nguồn tài nguyên sở hữu chung là một ví dụ cổ điển về việc tính không thể loại trừ của tài nguyên môi trường có thể có tác dụng như thế nào trong việc tạo ra chi phí ngoại ứng. Khó khăn của việc sử dụng chung đã tạo nên việc mỗi người sử dụng có thể can thiệp vào người khác, làm giảm khả năng phục vụ của nguồn tài nguyên đối với mỗi người sử dụng. Chúng ta cần phải lý giải tại sao con người lại có ít động cơ đế xử sự theo cách cả xã hội mong muốn đối với nguồn tài nguyên sở hữu chung.

Những ví dụ về tài nguyên sở hữu chung bao gồm đáy biển đầy cá của đại dương; những kho dầu hay nguồn nước dưới lòng đất, việc sử dụng không khí và nguồn nước làm chỗ thải các sản phẩm, những cánh rừng nhiệt đới nhiều mưa ở các nước đang phát triển, những con chim di cư, những động vật hoang dã, v.v…

Chúng ta sẽ xem xét những vấn đề liên quan đến nguồn tài nguyên môi trường thuộc sở hữu chung.

Nghề đánh bắt cá ở Đại dương:

Cá có lẽ không phải là ý nghĩ đầu tiên về nguồn tài nguyên môi trường nảy sinh khi chúng ta nghĩ đến những vấn đề đáng lưu ý của môi trường. Tuy nhiên, cá là một nguồn tài nguyên có khả năng tái sinh, nhưng chúng cũng có thể bị cạn kiệt và thay đổi môi trường do việc khai thác thiếu kiểm soát hiện nay đang đe doạ nguồn cá của thế giới.

Hầu như mỗi một cửa sông và mỗi vịnh trên thế giới đều bị đe doạ bởi những ngoại ứng từ hoạt động kinh tế của con người. Các con sông mang ô nhiễm ra các cửa sông, sự loang dầu và hoá chất làm ảnh hưởng đến sinh thái, việc dùng nước trên thượng nguồn làm ảnh hưởng tới hạ lưu và đại dương v.v… Nhưng sự đe doạ lớn nhất đối với nguồn cá chính là việc đánh bắt bừa bãi và khai thác tràn lan của hoạt động kinh tế.

Công nghệ đánh bắt cá hiện đại, đi kèm với nhu cầu ngày càng gia tăng của con người, thêm vào đó việc tự do đánh bắt đã dẫn đến nhiều nguồn cá giảm xuống mức thấp. Một số loài cá có nguy cơ tuyệt chủng. Ví dụ: loài cá mũi dài và to ở Vùng Vịnh, cá mũi kiếm, cá ngừ đã giảm một cách đáng kể trong vài thập kỷ trở lại đây. Viện Tài nguyên học Thế giới đã thông báo một công trình nghiên cứu vào năm 1993, chỉ ra rằng 30% loài cá hiện nay đang bN 83; giảm (có nghĩa là tỷ lệ đánh bắt cao hơn nhiều so với tỷ lệ tái sinh tự nhiên của những loài này).

Sở dĩ nguồn cá có vai trò quan trọng với chúng ta bởi những lý do cơ bản:

- Cá là nguồn cung cấp đạm chủ yếu cho một tỷ lệ lớn dân cư trên thế giới;

- Cá cũng là một phần quan trọng của nguồn thức ăn trong bản thân hệ sinh thái (ví dụ trong bài Globe và Mail – loài cá Pecca màu da cam bị đe doạ là nguồn thức ăn chính của những loài mực khổng lồ và những loài cá nhà táng). Việc đánh bắt cá vì mục đích thương mại là nguồn gốc chủ yếu cung cấp việc làm cũng như thu nhập. Còn việc câu cá có tính chất tiêu khiển, giải trí là nguồn lợi trực tiếp của ngành dịch vụ du lịch và giải trí.

Phân tích kinh tế và nguồn tài sản chung:

Để hiểu rõ hơn bản chất kinh tế của nguồn tài nguyên sỡ hữu chung, chúng ta sẽ nghiên cứu một mô hình kinh tế trong việc tái tạo lại nguồn tài nguyên, sử dụng ví dụ nghề đánh bắt cá ở Đại dương là ví dụ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của vấn đề đánh bắt tự do, dẫn đến việc khai thác tràn lan nguồn tài nguyên này.

Giả sử chúng ta xem xét một bãi đánh bắt cá với diện tích 200 dặm xa bờ là một tài nguyên sở hữu chung. Các quốc gia được quyền tự do khai thác ở địa phận đánh bắt này. Vậy điều gì sẽ xảy ra đối với nguồn cá này? Tại sao? Và phản ứng của các chính phủ trên thế giới sẽ như thế nào đối với vấn đề này?

Chúng ta hãy xem xét mô hình kinh tế của một khu vực có cá để tìm ra lời giải thích cho việc khai thác vượt quá mức cho phép.

Giả sử rằng chúng ta đang có một số lượng cá nhất định. Gọi Q là số các tàu đánh cá hiện đang có mặt ở khu vực này. Số lượng cá (tính bằng tấn) của số cá đánh được, ta gọi là y, là hàm của số các con tàu đánh cá ở đây: y = f(Q), với f(Q) là hàm sản xuất.

Rõ ràng việc đánh cá yêu cầu các đầu vào khác như lao động và thiết bị đánh bắt. Để đơn giản, chung ta sẽ cho tất cả các biến đầu vào thành một biến và coi đó là “những chiếc tàu đánh bắt”

Hàm sản xuất thể hiện quy luật lợi tức giảm dần (do diện tích ngư trường cố định)- vì khi lượng tàu tăng lên thì tổng số lượng cá đánh bắt tăng, nhưng tỷ lệ cá của mỗi tàu thì lại giảm, đó là do ảnh hưởng của số tàu tăng lên. Và kết quả là khi số lượng tàu tăng lên, lượng cá đánh bắt trung bình trong một đợt hay còn gọi là sản lượng của mỗi tàu (f(Q)/Q) sẽ giảm, giống như các mẻ hay sản phẩm cận biên, f’(Q). Lưu ý rằng sản lượng cận biên giảm xuống ở một tỷ lệ nhanh hơn sản lượng bình quân.

Chúng ta hãy lưu ý rằng mẻ cá trung bình của một ngư dân không chỉ phụ thuộc vào số lượng tàu đánh bắt mà một ngư dân tăng lên mà còn phụ thuộc vào số tàu của những ngư dân khác. Khi số lượng tàu đánh bắt càng lên cao, số cá bình quân một mẻ của mỗi ngư dân lại ít dần đi. Thực tế, khu vực đánh bắt sẽ đông đến mức mỗi mẻ cá bình quân của mỗi ngư dân sẽ còn rất nhỏ.

Giả định rằng chi phí cận biên của lượng cá trên số tàu, ký hiệu là MC, là cố định và bằng c và giả định giá một tấn cá là p.

Chúng ta có thể minh hoạ bằng đồ thị giá trị kinh tế của (tổng thu nhập thu được) từ việc đánh bắt cá là hàm số lượng tàu đánh bắt trong vùng bằng cách nhân số cá đánh bắt được với giá trên thị trường: TR(Q) = py = pf(Q). Cộng thêm tổng chi phí đánh bắt, ta có TC(Q) = cq. Đồ thị đường thu nhập cận biên ký hiệu là MR(Q), và chi phí cận biên MC được biểu thị bằng cách phân biệt tN 45;t cả các đường cong với đồ thị của thu nhập bình quân AR(Q) tương tự đường biểu thị pf(Q)/Q.

Đường đồ thị MR biểu thị thu nhập phụ thêm một thuyền đánh cá trong khu vực. Đường đồ thị AR biểu thị giá trị trung bình của mẻ cá đánh bắt trên mỗi tàu: AR = pf(Q)/Q = AP. Một lần nữa ta phải chú ý rằng AR vượt ra ngoài MR.

Sở hữu cá nhân

Nếu như trường hợp ngư trường do một cá nhân đơn lẻ sở hữu, thì cá nhân đó có thể giữ lại lãi suất thu được từ ngư trường đó. Chủ sở hữu được khuyến khích để tối đa hoá lợi nhuận (lợi ích kinh tế ròng) từ ngư trường. Lợi nhuận được tính bằng sự chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí:

 (Q) = py – cQ = pf(Q) – cQ

Vậy chủ sở hữu sẽ quyết định cho bao nhiêu tàu vào đánh bắt tại ngư trường? Hay nói cách khác, quy luật quyết định cá nhân mang tính hiệu quả của người chủ sở hữu ngư trường là gì?

Chủ sở hữu sẽ chọn ra một số tàu đưa vào ngư trường làm sao để tối đa hoá được lợi ích kinh tế ròng hay còn gọi là lợi nhuận. Để đạt được mục đích này, chủ sở hữu phải chọn ra những con tàu làm sao để lợi ích cận biên của việc đưa con tàu cuối cùng ra cân bằng với chi phí cận biên.

Vậy lợi ích của việc đưa thêm một con tàu nữa là gì? Đơn giản đó chỉ là doanh thu cận biên hay phụ thu lấy được con tàu cuối cùng.

Vì thế người ta sẽ chỉ đưa vào ngư trường thêm tàu đánh bắt khi gía trị thu thêm được của một tàu đối với toàn bộ số tàu đánh bắt (MR) cân bằng với chi phí cơ hội của việc đưa ra thêm con tàu đó (MC). Ta có:

Q*: MR = MC

Về mặt hình thức, quy luật quyết định của chủ sở hữu được hiểu là cách phân biệt hàm lợi nhuận và đặt điều khoản đặt hàng ban đầu bằng 0.

max (n) = TR – TC = p*f(Q) – cQ

n

Điều khoản đặt hàng ban đầu hay quy luật quyết định đối với chủ sở hữu là

Q*:p*f’(Q) – c = 0

mà đơn giản là:

Q*:MR=MC

Hãy giả định rằng:

MC = c = $150

p = $1

TP = f(Q) = 300Q – 25Q2

Vì thế,

MP = f’(Q) = 300 – 50Q

AP = f’(Q)/Q = 300 – 25Q

Các sản lượng thay thế,

1 * (300 – 50Q) = 150

50Q = 150

Q* = 3

Q* được biểu diễn trên đồ thị

Thuế khan hiếm

Lợi ích ròng thu được từ việc đưa Q* số tàu đánh cá ra khơi là gì? Lợi ích ròng là:

NB(Q*) = TB(Q*) – TC(Q*)

Tổng lợi ích là phần nằm dưới đường giá trị trung bình (giá trị đánh bắt trung bình) ở phía trái của đường đồ thị. Tổng chi phí là phần nằm dưới đường chi phí cận biên, cũng ở phía bên trái của đồ thị. Phần chênh lệch giữa hai phần này chính là lợi ích ròng (phần gạch chéo)

Thuật ngữ kỹ thuật dùng cho lợi ích ròng thu được từ một nguồn tài nguyên nào đó được gọi là khan hiếm hay thuê mướn tài nguyên.

Thuê mướn khan hiếm được tính bằng:

Thuê mướn khan hiếm = (Q) = Q*[AR(Q) – MC(Q)]

Lưu ý rằng chỉ có tại điểm Q*, ta mới có thể xác định thuê mướn khan hiếm là:

Thuê mướn khan hiếm = (Q) = Q*[AR(Q*) – MC(Q*)]

vì MR(Q*) = MC(Q*)

Tài nguyên Sở hữu chung – Quyền tự do khai thác

Giả định rằng nếu ngư trường là tài sản chung, thì khi đó quyền sở hữu không được phân định rõ ràng. Nếu quyền sở hữu không được phân định, thì ngư trường thuộc về tất cả mọi người và bất kỳ ai cũng có thể vào trong địa phận này đánh bắt cá.

Vậy, một ngư dân đơn lẻ sẽ quyết định đưa bao nhiêu tàu đánh bắt cá vào ngư trường?

Một ngư dân đơn lẻ sẽ tiếp tục đưa thêm các tàu vào ngư trường cho đến khi anh ta có thể trang trải được hết chi phí, có nghĩa là đến điểm hoà vốn. Vì vậy, ngư dân này sẽ còn đưa thêm tàu đánh bắt cá của mình ra miễn là lợi nhuận bình quân của một tàu, (Q)/Q = (Q) không âm, nghĩa là:

(Q)/Q = (Q) ≥0

Mọi người sẽ tiếp tục vào ngư trường chừng nào có thể kiếm được lợi nhuận. Ngược lại, việc tham gia đánh bắt sẽ giảm khi đánh bắt cá không còn mang lại lợi nhuận cho họ.

Như thế, ta sẽ quyết định cho bao nhiêu tàu vào ngư trường khi ngư trường là tài sản sở hữu chung? Việc tham gia đánh bắt sẽ còn tiếp tục cho tới khi lợi nhuận thu được từ đánh bắt bằng 0:

Qp: (Q) = 0

(Q) = p*f(Q) – cQ = 0

pf(Q)/Q= C

Hoặc

Qp:AR = MC

Thay phương trình ta có:

300 – 25Qp = 150

Qp = 6

Qp được biểu diễn trên biểu đồ hình 2.2

Những kết luận đáng chú ý

1. Khi một nguồn tài nguyên được quản lý để tối đa hoá lợi ích kinh tế thì thuế khan hiếm hay còn được gọi là thuế tài nguyên của nguồn tài nguyên đó sẽ tăng.

2. Khi một nguồn tài nguyên không được quản lý, thì quyền sở dụng tự do sẽ dẫn tới việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên đó. Quá nhiều tàu đánh bắt trên cùng một địa phận ngư trường sở hữu chung sẽ dẫn đến giá trị Qp > Q*.

3. Việc khác thác quá mức tài nguyên sở hữu chung sẽ dẫn tới việc tiêu hao thuế khan hiếm. Việc gia nhập vào ngư trường sẽ còn tiếp diễn cho đến khi lợi nhuận giảm tới mức bằng 0, vì vậy thuế khan hiếm sẽ không còn.

Hàng hoá công cộng

Như chúng ta đã thấy tác hại của việc thiếu quyền sở hữu có thể dẫn đến khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên môi trường trong nền kinh tế thị trường. Nguyên nhân tiếp theo cần xem xét tại sao các thị trường tư nhân không phân bổ hiệu quả nguồn tài nguyên môi trường, nguyên nhân cơ bản là nguồn tài nguyên môi trường có đặc tính không loại trừ.

Các nhà kinh tế học đã xây dựng lý thuyết về hàng hoá công cộng và hệ quả của nó để phân tích các vấn đề có liên quan đến việc phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế mà nó tạo ra lợi ích và/hoặc chi phí bên ngoài và thể hiện tính chất không loại trừ.

Để hiểu rõ bản chất của vấn đề, chúng ta cần phân biệt sự khác nhau giữa hàng hoá cá nhân và hàng hoá công cộng.

Hàng hoá cá nhân khác với hàng hoá công cộng.

Làm thế nào chúng ta có thể phân biệt hàng hoá công cộng và hàng hoá cá nhân?

- Hàng hoá cá nhân (bánh mỳ) có 2 tính chất sau:

+ Chuyên hữu (riêng biệt): thứ hàng hoá đó sẽ là của riêng bạn nếu một khi bạn đã mua nó và sau đó thì không ai ngoài bạn có quyền tiêu dùng nó.

+ Kình đị a000 ch (cạnh tranh): Thứ hàng hoá đó bị cạnh tranh trong tiêu dùng, ví dụ có một ai đó mua 1 ổ bánh mỳ và tiêu dùng nó và thế là bạn đã bị đẩy ra khỏi phạm vi có thể tiêu dùng cũng chính ổ bánh mỳ ấy. Hàng hoá cạnh tranh là loại hàng hoá bị suy kiệt. Hệ quả kỹ thuật của tính chất cạnh tranh hay tính suy kiệt được thể hiện ở chỗ cứ tiêu dùng thêm một số hàng hoá cạnh tranh sẽ phải tốn một số chi phí sản xuất cận biên.

- Trái lại, hàng hoá công cộng (khí quyển, quốc phòng, đại dương…) thể hiện 2 tính chất sau:

+ Phi chuyên hữu (không riêng biệt): hàng hoá được coi là không riêng biệt nếu không có ai bị loại ra khỏi phạm vi hưởng lợi của thứ hàng hoá đó, hay tiêu dùng thứ hàng hoá đó một khi nó đã được sản xuất ra. Tính chất không riêng biệt được thể hiện ở chỗ nó có thể sử dụng hàng hoá mà không phải trả tiền trực tiếp.

+ Phi kình địch (không cạnh tranh): Sự tiêu dùng hàng hoá của 1 người không làm giảm bớt số lượng hay chất lượng hàng hoá có sẵn đối với những người khác. Hàng hoá phi cạnh tranh được gọi là hàng hoá không suy kiệt.

Ví dụ về tín hiệu đài – một khi đài phát thanh phát đi tín hiệu, bất kỳ ai có máy thu đều có thể bắt được. Bất kỳ cá nhân nào cũng có thể nghe được chương trình phát thanh mà không làm giảm đi sự sẵn có của nó đối với những người khác nghe chương trình phát thanh đó. Hay nói cách khác, thêm một người nghe chương trình phát thanh không cần sử dụng thêm một nguồn chi phí nào và cũng không làm giảm mức tiêu dùng chương trình phát thanh của những người khác. Các phân tích kỹ thuật chỉ ra rằng chi phí xã hội cận biên để sản xuất thêm một người nghe chương trình phát thanh là bằng 0.

Bởi vậy, chúng ta có định nghĩa sau:

Hàng hoá phi kình địch nếu ở bất kỳ mức sản xuất nào đưa ra, chi phí cận biên của việc cung cấp nó cho thêm một đơn vị người tiêu dùng bằng 0 (MC = 0).

Tất cả hàng hoá công cộng đều có tính chất phi chuyên hữu nhưng không có nghĩa là đều có tính chất phi kình địch.

Hàng hoá công cộng có tính phi kình địch được gọi là hàng hoá công cộng thuần tuý, ví dụ đa dạng sinh học.

Hàng hoá công cộng có tính chất phi kình địch được gọi là hàng hoá công cộng không thuần tuý, ví dụ: đánh cá, chiều cầu qua lại

Phân tích kinh tế và quản lý thực tiễn hàng hoá công cộng phụ thuộc vào vấn đề thứ hàng hoá công cộng đó là thuần tuý hay không thuần tuý.

Hàng hoá công cộng

Thuần tuý Không thuần tuý
- Phi chuyên hữu - Phi chuyên hữu
- Phi kình địch: những người sử dụng không can thiệp lẫn nhau mà cũng không làm tăng hiệu quả sử dụng hàng hoá đó đối với mỗi người - Kình địch: Những người sử dụng gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng hàng hoá của nhau
- Vấn đề tự do khai thác - Sự can thiệp lẫn nhau của những người sử dụng là ví dụ của những ngoại ứng tiêu cực
- Các ví dụ về ngắm phong cảnh và tầng ô-zôn - Vấn đề tự do tiếp cận
- Các ví dụ về lái xe trên đường cao tốc và đánh cá ngoài biển

Xây dựng tập hợp đường cầu cho hàng hoá công cộng và tư nhân:

3.2.1. Hàng hoá tư nhân:

Hàng hoá tư nhân khác với hàng hoá công cộng ở chỗ nó có tính cạnh tranh cao và tính loại trừ người khác ra khỏi việc tiêu dùng thứ hàng hoá đó.

Đường cầu của một cá nhân cho hàng hoá tư nhân trả lời cho câu hỏi sau:

Ở một mức giá cho trước các cá nhân (người tiêu dùng) sẵn sàng mua bao nhiêu?

Để xây dựng tập hợp đường cầu hay hàm lợi ích cận biên cho hàng hoá tư nhân, chúng ta phải tìm ra tổng hàng hoá mà người tiêu dùng có nhu cầu ở các mức giá khác nhau. Để làm được điều đó, chúng ta tập hợp hay tổng hợp số lượng hàng hoá mà mỗi cá nhân có nhu cầu ở mức giá cho trước.

Bởi vậy tập hợp đường cầu của hàng hoá tư nhân được hình thành từ tổng các đường nằm ngang của các đường cầu cá nhân.

Ví dụ, ở mức giá 50$/1đơn vị sản phẩm, cá nhân A có nhu cầu là 100 đơn vị sản phẩm hàng hoá trong khi đó cá nhân B có nhu cầu là 150 đơn vị sản phẩm, bởi vậy tổng cầu hay tổng lợi ích xã hội cận biên đo được ở mức giá 50$/1 đơn vị sản phẩm sẽ là 100+150=250 đơn vị sản phẩm.

Chúng ta có thể tiếp tục bài tập này và tìm ra tổng sản phẩm có nhu cầu ở mỗi mức giá khác nhau. Tập hợp đường cầu của hàng hoá tư nhân là quỹ tích của các cặp giá - số lượng này.

  • Hàng hoá công cộng:

Hàng hoá công cộng khác hàng hoá tư nhân ở chỗ các cá nhân (người tiêu dùng) không thể bị loại trừ ra khỏi phạm vi tiêu dùng hàng hoá đó và nó có thể không cạnh tranh.

Cầu của cá nhân hay đường cầu lợi ích cận biên cá nhân của hàng hoá công cộng trả lời câu hỏi rất khác: Với mức giá nào thì các cá nhân sẵn sàng trả cho một số lượng hàng hoá nhất định?

Tại sao câu hỏi này lại rất khác biệt? Bởi lẽ hàng hoá công cộng có tính chất không loại trừ chỉ có một số lượng hàng hoá nhất định có sẵn và không ai có thể bị loại trừ ra khỏi phạm vi tiêu dùng nó. Như vậy, chúng ta muốn đo giá trị của số lượng hàng hoá đó đối với nền kinh tế xã hội và mỗi cá nhân thì tập hợp cầu hay đường cong lợi ích xã hội cận biên của hàng hoá công cộng được thể hiện bằng một đường thẳng đứng của tổng các đường cầu cá nhân. Tại sao? Bởi vì đường tổng thẳng đứng thể hiện tính không riêng biệt – mọi người đều có thể đồng thời tiêu thụ chính số hàng hoá công cộng đó. Như vậy, chúng ta cộng thêm sự bằng lòng chi trả của các cá nhân cho các mức giá khác nhau của hàng hoá công cộng.

Ví dụ, A và B phải tiêu dùng cùng một khối lượng hàng hoá công cộng. Giả sử có 100 đơn vị sản phẩm sẵn có. A sẵn sàng trả 50$/1 đơn vị sản phẩm trong khi đó B sẵn sàng trả 70$/1 đơn vị. Do đó, giá trị thu được của 1 đơn vị sản phẩm của 100 là 120$. Và tổng giá trị của nó là 120$*100=12.000$.

Tập hợp đường cầu của hàng hoá công cộng đo được lợi ích xã hội cận biên, MBs, được tạo thành từ tiêu dùng hàng hoá. Chúng ta có thể biểu diễn đường lợi ích xã hội cận biên như sau:

MBs=MBa + MBb

Phân tích kinh tế hàng hoá công cộng và hệ quả của nó

Chúng ta xem xét 2 ví dụ: đa dạng sinh học (bảo quản môi trường sống) được coi là hàng hoá công cộng trong sạch và ô nhiễm được coi là hệ quả của hàng hoá công cộng.

Ví dụ: đa dạng sinh học được coi là hàng hoá công cộng trong sạch.

Đa dạng sinh học bao gồm một số biến đổi di truyền học giữa các cá thể trong một loài đơn và một số loài trong cộng đồng sinh vật.

Tại sao đa dạng sinh học lại quan trọng?

- Đa dạng sinh học làm thúc đẩy sự bền vững sinh thái - đa dạng hơn trong hệ thống, khả năng chịu đựng những cú sốc và căng thẳng cao hơn. Số loài trong đa dạng sinh học vô cùng quan trọng – những loài đó đóng góp vào sự cân bằng và ổn định đối với các cộng đồng sinh học của chúng bằng cách cung cấp nguồn thực phẩm hay kiềm chế gia tăng số lượng của các loài. Đa dạng sinh học không chỉ thúc đẩy phát triển hệ sinh thái, mà còn thúc đẩy tất cả các dịch vụ khác bắt nguồn từ hệ sinh thái: sản xuất ô xy, hút các bon đi ô xít, tái tạo chất dinh dưỡng, cung cấp môi trường sống v.v…

- Đa dạng sinh học là một nguồn hàng hoá kinh tế rất quan trọng. Sự phong phú đa dạng của các loài đã cung cấp nguồn thức ăn mới, năng lượng, các chất hoá học công nghiệp, nguyên liệu thô và thuốc men. Các loài cây cỏ và động vật có thể cung cấp hàng hoá trực tiếp (hoa quả, củ, hạt v.v…) Một số các phương pháp chữa bệnh ung thư hứa hẹn nhất có liên quan đến các chất hoá học được tìm thấy trong thực vật; một thứ thuốc rất quan trọng chữa bệnh bạch cầu cho trẻ em được tìm thấy trong loại cây dừa cạn màu hồng có trong rừng mưa nhiệt đới của Madagascar, trong khi đó cây thủy tùng được tìm thấy ở rừng già vùng Tây Bắc Thái Bình Dương của Mỹ có chứa chất hoá học từng được sử dụng làm tiêu khối u. Các loài động vật cũng có thể cung cấp nguồn chữa bệnh tiềm năng, tuy nhiên nó được sử dụng ít hơn so với thực vật; ví dụ, chất enzim trong da con ếch châu Phi có thể cung cấp chất chữa bỏng.

- Đa dạng sinh học còn là một nguồn đa dạng thông tin về nguồn zen có thể sử dụng trong việc cải tạo mùa màng và tạo ra các loại vật nuôi mới – nó tạo ra các cơ hội lai giống và phát triển các giống cao hơn. Ví dụ, các đặc điểm mới như sương giá hay sự kháng cự lại bệnh tật có thể được chuyển giao từ thực vật hoang dã vào thực vật trồng trong vườn nhà bằng cách lai giống (chuyển giao giống) hay thông qua lai tạo gien.

- Bản thân đa dạng sinh học cũng có vai trò quan trọng trong tính phong phú của nó, con người sử dụng được rất nhiều thứ từ hệ sinh thái đa dạng hơn là từ một hệ sinh thái kém đa dạng.

Có một thực tế đáng được xem xét là đa dạng sinh học ngày càng giảm. Người ta ước tính rằng trong số 5-10 triệu loài hiện đang tồn tại, có khoảng ít nhất 12% loài chim và 15% loài thực vật sẽ bị tuyệt chủng.

Nguyên nhân nào dẫn đến sự giảm sút đa dạng sinh học? Có rất nhiều nguyên nhân nhưng cơ bản là do thiên nhiên và con người. Tuyệt chủng tự nhiên xảy ra khi môi trường biến đổi, và các loài đang tồn tại bị đặt vào trong môi trường không thuận lợi và được thay thế bởi các loài đang tồn tại có khả năng thích nghi với điều kiện mới hơn. Sự tuyệt chủng tự nhiên thường xuyên xảy ra, thường ở mức tương đối chậm. Những con số thống kê sau đây giúp chúng ta có được tỷ lệ tuyệt chủng nhanh hiện nay và những nguyên nhân cơ bản để chúng ta có một bức tranh toàn cảnh.

Bảng 2.5: Dự đoán tốc độ tuyệt chủng của loài động vật có vú

Khoảng thời gian Tuyệt chủng mỗi thế kỷ Phần trăm loài vật nuôi hiện nay bị mất Nguyên nhân cơ bản
Pleitoxen (3.5 triệu năm) 0.01 Tuyệt chủng tự nhiên
Late pleistocene(100,000 năm) 0.08 0.002 Thay đổi khí hậu, săn bắn thời kỳ đồ đá mới
1600-1980 AD 17 0.4 Sự mở rộng châu Âu, săn bắn và thương mại
1980-2000 145 3.5 Sự phá vỡ môi trường sống

Nguyên nhân do con người bao gồm sự khai thác các loài quá mức, làm mất đi môi trường sống, và sự cạnh tranh từ các loài nhập cư. Tất cả những nguyên nhân này xuất phát từ thất bại thị trường, nơi con người có những quyết định kinh tế không tính đến các chi phí hay lợi ích xã hội với các hành động của họ.

Chúng ta đã nói đến vấn đề khai thác các nguồn tài nguyên tự nhiên có thể phục hồi. Tuy nhiên vấn đề phá vỡ môi trường sinh sống của chúng là một vấn đề hết sức bức xúc hiện nay. Có rất nhiều loài đã được tìm thấy chỉ ở một số môi trường sống nhất định và nếu môi trường sống này bị phá vỡ do sự chuyển biến thành việc sử dụng đất cho mục đích khác, hay bị ô nhiễm thì các loài sẽ bị tuyệt chủng. Đây là một vấn đề hết sức quan tọng có liên quan đến sự phá rừng ồ ạt ở các rừng nhiệt đới, rừng nhiệt đới chiếm đến 3/4 trong tổng số các loài sống trên trái đất. Một vấn đề khác cũng hết sức quan trọng có liên quan đến việc làm mất đi môi trường sống là sự mất dần rừng ôn đới, phá vỡ đá ngầm san hô, làm mất đi những khu vực đầm lầy và ô nhiễm một số môi trường sống của các loài sống ở môi trường nước.

Chúng ta có thể sử dụng những công cụ phân tích kinh tế để trả lời các câu hỏi sau:

  • Mức độ lợi ích xã hội của đa dạng sinh học là gì? (gìn giữ môi trường sống)? (Mức độ đa dạng làm tối đa hiệu quả xã hội thu được từ sự đa dạng đó).
  • Liệu lợi ích xã hội của hàng hoá công cộng sẽ được cung cấp trong kinh tế tư nhân như thế nào?
  • Đâu là cơ chế có thể coi là thích hợp? Thuế, phí hay trợ cấp?
  • Phân bổ hiệu quả xã hội

Giả sử chúng ta có hai cá nhân, cá nhân A và cá nhân B, với các đường giá trị cận biên cá nhân sau cho nhu cầu đa dạng sinh học

Rõ ràng là cá nhân B có nhu cầu đa dạng sinh học cao hơn cá nhân A.

Chúng ta giả sử rằng chi phí cận biên của đa dạng sinh học là không đổi (ví dụ: chi phí mua một ha rừng nhiệt đới)

Để có thể xác định phân bổ lợi ích xã hội của đa dạng sinh học chúng ta phải tối đa hoá lợi ích xã hội ròng có được từ đa dạng sinh học. Chúng ta biết rằng quy tắc: Q*: MBS = MC sẽ mang lại sự phân bổ hiệu quả xã hội.

Nhiệm vụ của chúng ta trước tiên là xây dựng hàm lợi ích xã hội cận biên. Chúng ta có thể xây dựng đường lợi ích xã hội cận biên từ các đường lợi ích cận biên cá nhân. Minh hoạ Q* trên đồ thị.

Đâu là lợi ích thực xã hội cận biên, NB (Q*) = TB-TC? Chúng ta có thể nhận thấy rằng khu vực nằm dưới đường lợi ích xã hội cận biên đến phía bên trái sẽ đo được từ đa dạng sinh học – khu vực OabQ*. Tương tự, khu vực nằm dưới đường chi phí cận biên tính đến phía trái sẽ là tổng chi phí cho xã hội – khu vực OcbQ*. Lợi nhuận ròng sẽ là OabQ* - OcbQ* = abc.

Ví dụ về sự phân bổ hiệu quả đa dạng sinh học:

MBA = 80 – Q là hàm lợi ích cận biên cá nhân của cá nhân A thu được từ đa dạng sinh học.

MBB = 100 – Q là hàm lợi ích cận biên của cá nhân B

MC = 70 là chi phí cận biên để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm đa dạng sinh học (mua một mẫu rừng nhiệt đới ở Brazil)

Bước 1: Xây dựng hàm lợi ích xã hội cận biên từ các hàm lợi ích cận biên cá nhân.

MBS = MBa + MBb

MBb = 80 – Q + 100 – Q = 180 – 2Q

Bước 2: Tìm phân bổ hiệu quả xã hội bằng cách cân bằng MB­S và MC.

Q*: MBS=MC

180 – 2Q=70

2Q = 110

Q* = 55.

Đóng góp tình nguyện và người ăn không (free rider)

Liệu trong kinh tế tư nhân mức độ hiệu quả xã hội có tồn tại bởi cung cấp đa dạng sinh học hay không?

Giả sử rằng trong việc xem xét đa dạng sinh học một nhóm chúng ta quyết định thu thập để cung cấp một số phương tiện nhằm ngăn ngừa một số loài nguy hiểm (ví dụ, mua một số mẫu rừng nhiệt đới của Chính phủ Brazil để bảo vệ). Dựa trên giá trị thu thập đa dạng sinh học; đơn vị Q* đa dạng sinh học có thể sẽ được ngăn ngừa để có thể tối đa hoá lợi ích xã hội có được.

Câu hỏi của chúng ta đặt ra như sau: Liệu một cá nhân có doanh thu từ các lợi ích có đủ để trả cho mức độ hiệu quả xã hội của đa dạng sinh học hay không?

Chúng ta hãy bắt đầu với cá nhân A. A nhìn vào hộp thu nhập và nhìn thấy cái hộp đó trống rỗng.

A sẽ chọn mức đóng góp sao cho tối đa hoá lợi ích cá nhân ròng thu được từ đa dạng sinh học.

Vậy thì A sẽ sẵn sàng đóng góp hay trả là bao nhiêu? Đường lợi ích cá nhân cận biên của A cho chúng ta biết sự sẵn sàng đóng góp của anh ta cho các mức độ đa dạng sinh học khác nhau. Mức đóng góp tối ưu của cá nhân A sẽ là số tiền mua số đơn vị Qa đa dạng sinh học. Nói cách khác, cá nhân A sẽ mua:

Hình 2.36: Khả năng có thể đóng góp của A và B đối với đa dạng sinh học

Chúng ta nhận thấy rằng cá nhân A không cần nhận thấy rằng cá nhân B sẽ cũng được hưởng lợi từ những đóng góp của mình, cá nhân A chỉ xem xét lợi ích cá nhân của anh ta/chị ta và không cần xem xét lợi ích bên ngoài có đưọc cho những người khác từ những đóng góp của anh ta ban cho.

Vậy thì A sẽ đóng góp là bao nhiêu? Nếu A đóng góp giá trị cá nhân đúng bằng hàng hoá công cộng thì sự đóng góp của A sẽ bằng khu vực nằm dưới MC cho đến phía bên trái của Qa: tứ giác 0abQA.

Sau đây chúng ta xét đến cá nhân B. Liệu B sẽ đóng góp là bao nhiêu? B cũng sẽ đóng góp chừng nào mà lợi ích cá nhân ròng của anh ta là tối đa. Một lần nữa chúng ta thấy sự thiện chí trả tiền của B tính được bằng cách tính tổng tổng lợi ích cận biên của B với chi phí cận biên của đa dạng sinh học.

QB: MBB = MC

Để tối đa hoá lợi ích ròng cá nhân B nên có thiện chí trả bằng diện tích 0acQB. Thêm vào nữa ta thấy B không tiếp nhận ngoại ứng tích cực do sự đóng góp của B mang lại cho cá nhân A.

Nhưng liệu B có thực sự đóng phần 0acQB không? Khi B nhìn vào thu nhập và anh ta nhìn thấy A đã đóng phần 0abQA để trả cho việc mua những đơn vị A đa dạng sinh học rồi. Nên nhớ rằng B không thể không được hưởng lợi thu được từ việc mua của A. Liệu B sẽ đóng bao nhiêu? Anh ta sẽ đóng là 0acQB – 0abQA = QAbcQB

Nhưng cái gì xảy ra nếu A phỏng đoán rằng B sẽ muốn đóng góp một quỹ đủ để đảm bảo rằng QB sẽ được cung cấp. Nếu A thấy trước được rằng B rất muốn có số đơn vị QB đa dạng sinh học thì A sẽ không có thiện chí đóng góp phần 0abQA cho lắm. Quả thật là nếu A không đóng gó 7a07 ;p một tý nào thì B sẽ đóng góp 0acQB và A sẽ hoàn toàn có thể ăn không trên phần đóng góp của B bởi vì anh ta hay cô ta không thể không được hưởng lợi từ sự đóng góp của B.

Làm thế nào để có thể dựng được đường này? Các cá nhân sẽ chọn mức đóng góp tối ưu nhất, có nghĩa là họ sẽ chọn mức đóng góp sao cho tối đa hoá lợi ích ròng cá nhân của họ, cho rằng những người khác cũng sẽ hành động như cách thức họ đã làm.

Cá nhân A sẽ cung cấp: Cá nhân B sẽ cung cấp
QA: MBa = MC QB: MBb = MC
80 – (QA + QB) = 70 100 - (QA + QB) = 70
QA(QB) = 10-QB QB(QA) = 10-QA

Thể hiện bằng đồ thị

Ở đây QA(QB) là mức cá nhân A tự nguyện đóng góp, có nghĩa đó là mức tốt nhất đối với A hay nói cách khác là sự đóng góp làm tối đa hoá lợi ích ròng cá nhân đối với sự đóng góp của cá nhân B. Sự cân bằng đóng góp một cách tự nguyện (sự cân bằng làm tối đa hoá lợi ích ròng của mỗi cá nhân) được chỉ ra ở chỗ cắt nhau của 2 cá nhân: cá nhân A sẽ trả 0 đơn vị và cá nhân B sẽ trả số đơn vị QB = 30 đơn vị đa dạng sinh học. Như vậy, cá nhân B sẽ đóng góp 0acQB hay 30 x70$ = $2100 và cá nhân A sẽ đóng góp 0.

Vậy điều gì sẽ xảy ra ở đây? Để có thể mua Q*, mức độ đa dạng sinh học có khả năng làm tối đa hoá phúc lợi xã hội, thì 0adQ* = 55*$70 = $3850 cần phải được thu thập từ mỗi cá nhân trong xã hội. Nhưng sự đóng góp của mỗi cá nhân chỉ được $2100 không đủ số tiền có thể mua Q*. Bởi vậy, số tiền thu được từ mỗi cá nhân là không đủ để cung cấp một mức đa dạng sinh học có hiệu quả cho xã hội.

Vấn đề người ăn không.

Sự không có hiệu quả tất yếu xảy ra bởi vì các cá nhân không chịu tiếp nhận những ngoại ứng tích cực, sự đóng góp của họ còn được bán cho người khác nữa khi họ có những quyết định cá nhân và bởi vì các cá nhân khác có thể ăn không đối với sự cung cấp một hàng hoá công cộng… Các cá nhân chỉ cân nhắc lợi ích ròng của họ, bỏ qua những lợi ích bên ngoài mà những người khác có được từ những đóng góp của họ – những lợi ích bên ngoài không được nhắc đến trong những quyết định cá nhân. Thêm vào đó, như đã chỉ ra trong ví dụ, các nhân A còn có thể tự do khai thác trên những đóng góp của cá nhân B. Tự do hành động xảy ra là nhờ tính không chuyên hữu và phi cạnh tranh của hàng hoá công cộng.

Cá nhân A có thể thu được tất cả lợi ích từ việc đa dạng của B. Bởi vì cá nhân A không thể bị loại trừ ra khỏi quá trình hưởng thụ những lợi ích từ những đóng góp của B, và sự khích lệ anh ta/cô ta đóng góp bị giảm bớt. Các cá nhân hành động như là những người lái xe tự do, báo cáo không đúng sự thật về giá trị hàng hoá sao cho họ có thể hưởng lợi mà không phải trả tiền cho nó. Và kết quả là sự đóng góp của xã hội sẽ không đủ để cung cấp hàng hoá công cộng theo ý muốn – nó sẽ là dưới mức cung.

Sự hiện diện của “ăn không” không thể có trong nên kinh tế tư nhân để cung cấp hàng hoá công cộng một cách hiệu quả. Sự cân bằng cá nhân là sự không hiệu quả về mặt xã hội bởi vì đánh giá cá nhân đối với hàng hoá công cộng khác với đánh giá của xã hội.

Những kết quả chính:

  1. Khả năng cung cấp hàng hoá công cộng của tư nhân rất thấp: Qp *
  2. Việc cung cấp hàng hoá công cộng không đủ trong nền kinh tế tư nhân dẫn đến sự thiệt hại cho xã hội
  3. Chừng nào mà lợi ích còn nằm bên ngoài, kinh tế tư nhân không thể mang lại một chút khuyến khích nào cho mỗi cá nhân tiếp thu những lợi ích cho những người khác – vấn đề tự do khai thác.
    1. Cơ chế đúng đắn: Sự đánh thuế Lindahl

Lindahl, là tên gọi của Nhà kinh tế học người Na uy Erik Lindahl, ông đã đưa ra nguyên lý cân bằng, gọi là nguyên lý cân bằng Lindahl. Nguyên lý này cho rằng nếu mỗi người trả theo thiện ý cá nhân muốn trả của họ, thì không những lượng vừa đủ hàng hoá hữu ích công cộng được cung cấp mà ngân quỹ cũng sẽ được cân bằng, nghĩa là lượng thu về sẽ cân bằng với lượng cần thiết phải cung cấp.

Sự đánh thuế Lindahl có thể được sử dụng để tài trợ cho mức độ sử dụng hiệu quả các hàng hoá công cộng của xã hội. Trong cơ cấu đánh thuế Lindahl mỗi cá nhân sẽ bị đánh thuế sản phẩm của WTP thực sự của họ cho việc tiêu dùng một mức độ hàng hoá công cộng tuỳ ý của xã hội:

Thuế Lindahl = MBi (Q*) x Q*

Chúng ta tính được thuế Lindahl cho mỗi cá nhân A như sau:

Thuế Lindahl = MBA(Q*)xQ* = PA x Q*

Ở đây PA là điểm mà cá nhân A thực sự bằng lòng chi trả hay đó là giá trị của Q* đơn vị đa dạng sinh học.

Trong nền kinh tế mà mỗi cá nhân có sự định giá hàng hoá công cộng khác nhau, sự đánh thuế Lindahl sẽ dẫn đến các mức thuế khác nhau cho mỗi cá nhân. Rõ ràng là thuế Lindahl mà cá nhân B phải trả là PB x Q*.

Vấn đề chính: các nhà lập kế hoạch xã hội phải suy luận ra được sự Bằng lòng chi trả thực từ đó mỗi cá nhân mới được khuyến khích báo cáo đúng sự thật giá trị thực bởi vì họ có thể được hưởng lợi từ việc trả tiền của những người khá. Vấn đề cần xem xét là khám phá trung thực sở thích của mỗi cá nhân cũng như vấn đề ăn không.

Một số vấn đề khác có liên quan đến thuế Lindahl là sự công bằng và sự cưỡng bức – chúng ta có nên bắt mỗi cá nhân trong xã hội phải trả các mức khác nhau cho cùng một loại hàng hoá không? Chúng ta có thể bắt buộc được loại hình thuế này hay không, đây là vấn đề rất phức tạp phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể để đưa ra quyết định.

Ví dụ 2: Ô nhiễm được coi như là hệ quả của hàng hoá công cộng.

Có phải là các phân tích về hàng hoá công cộng đều tương tự như nhau không? Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta hãy xem xét dòng nước tạo nên các nhánh sông để làm nơi chứa chất thải có thể được coi như là một thứ hàng hoá công cộng. Tiếp theo, chúng ta có thể nghĩ đến nhánh sông bị chứa đầy chất thải đổ vào như là hệ quả của hàng hoá công cộng: nhánh sông là phi cạnh tranh và vì thế nên không ai bị loại trừ ra khỏi việc sử dụng dòng nước đó.

Sự khác biệt rất quan trọng giữa các ví dụ về ô nhiễm và đa dạng sinh học đó là sự ô nhiễm do hoạt động sản xuất tạo ra những ngoại ứng tiêu cực đối với những người sử dụng nước dòng sông đó.

Chi phí cận biên ngoại ứng phải chi ra cho nhà nghỉ khách sạn được coi như là kết quả của việc sản xuất gây ra thiệt hại cho kinh doanh khách sạn MCeh

Mặt khác, giả sử rằng có một ngư dân đánh cá cuối dòng sông. Nhánh sông sẽ làm giảm mức độ ô xi bị phân huỷ trên sông, do vậy làm giảm mức độ cá đánh bắt. Bởi vậy, việc sản xuất tạo ra những ngoại ứng tiêu cực lên việc đánh cá.

Chi phí cận biên ngoại ứng gây ra cho việc đánh bắt cá được chỉ ra là MCef.

Câu hỏi đặt ra là phân bổ hiệu quả xã hội là gì?

Trước tiên, chúng ta phải dựng đường tổng cung nằm dọc (tập hợp các chi phí sản xuất cá nhân cận biên) và các đường chi phí cận biên ngoại ứng để có được đường chi phí xã hội cận biên.

MCS = MCP + MCeh + MCef

Nên nhớ rằng chúng ta tổng hợp lại được đường lợi ích cá nhân cận biên hay đường cung chi phí một ai đó chuẩn bị tiêu dùng hay bị ảnh hưởng bởi một mức độ như thế của hàng hoá công cộng hay hệ quả của nó. Đường tổng thẳng đứng là cần thiết bởi vì không một ai trong số những người sử dụng con sông có thể bị loại trừ ra khỏi quá trình ô nhiễm của con sông do nhà máy sản xuất gây ra. Để xác định được mức thiệt hại hay chi phí phải bỏ ra cho tất cả những ai sử dụng dòng sông bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm của con sông, chúng ta phải tính được đường chi phí xã hội cận biên bằng chi phí cá nhân của việc sản xuất và các chi phí ngoại ứng mà việc sản xuất tạo ra cho mỗi người sử dụng sông.

Sự cung cấp hiệu quả cho xã hội là hệ quả của hàng hoá công cộng, ô nhiễm, có thể được xác định bằng cách lựa chọn mức độ sản xuất như nhau.

Q*: MBS = MCS

Liệu kinh tế tư nhân có thể cung cấp hàng hoá công cộng ở mức độ hiệu quả hay không? Dĩ nhiên là không. Sẽ không phải là quá nhiều hay, quá thông thường, mà sẽ là sự cung cấp quá mức cần thiết, đó là hệ quả của hàng hoá công cộng của nền kinh tế tư nhân.

Tại sao? Các nhà gây ô nhiễm môi trường sẽ chọn mức độ sản phẩm đầu ra hay nói cách khác đi tạo ra ô nhiễm ở mức sao cho tối đa hoá lợi ích cá nhân ròng hay lợi nhuận. Giá sản phẩm bán trên thị trường sẽ là mức giá mà tại đó cung và cầu gặp nhau.

PP: Qd(PP) = QS(PP)

QP: Qd(PP)

Rõ ràng rằng bất cứ một nhà máy sản xuất nào (và bởi vậy nên ngành công nghiệp) chỉ xem xét đến chi phí sản xuất cá nhân cuả họ khi đưa ra những quyết định sản xuất mà không tính đến những chi phí ngoại ứng do hoạt động của họ gây ra cho những người khác.

Sự phân bổ không hiệu quả sẽ tất yếu xảy ra bởi vì có sự khác nhau giữa sự đánh giá các chi phí cá nhân và xã hội của hàng hoá công cộng. Bởi vậy, kinh tế tư nhân sẽ không thể đưa ra một phân bổ ô nhiễm cho xã hội một cách hiệu quả.

Giáo trình kinh tế và quản lý môi trường GIÁO TRÌNH KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG



Nguồn: voer.edu.vn/m/kinh-te-hoc-chat-luong-moi-truong-phan-5/6c2c85c3


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận