Tài liệu: Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Tài liệu
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Tóm tắt nội dung

Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Nội dung

khái niệm

Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) là một hoạt động kinh doanh quốc tế dựa trên cơ sở của quá trình dịch chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân hoặc thể nhân thực hiện theo những hình thức nhất định trong đó chủ đầu tư tham gia trực tiếp vào quá trình điều hành, quản lý và sử dụng vốn đầu tư.

Xuất hiện vào cuối thế kỷ 19, FDI nhanh chóng khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống các quan hệ kinh tế quốc tế. Đến nay khi FDI đã trở thành xu hướng của thời đại thì cũng là một nhân tố quan trọng góp phần đẩy mạnh lợi thế so sánh của các nước và mang lại quyền lợi cho cả đôi bên.

Vai trò

Việc tiếp nhận FDI là lợi thế hiển nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước đi sau. Đứng dưới góc độ nước nhận đầu tư, FDI có một vai trò sau:

  • FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, ngoại tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là những nước kem phát triển.
  • Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái vòng luẩn quẩn, đó là: thu nhập thấp, dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra được điểm đột phá chính xác một mắt xích của vòng luẩn quẩn này. Trở ngại lớn nhất đối với các nước này là vốn đầu tư, tuy nhiên để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ vào tích luỹ nội bộ thì hậu quả khó tránh khỏi là sự tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó FDI là cú huých đột phá cái vòng luẩn quẩn đó.
  • Mặt khác theo lý thuyết hai lỗ hổng của Cherery và Strout, có hai cản trở chính cho sự tăng trưởng của một quốc gia đó là: (1) Tiết kiệm không đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tư gọi là lỗ hổng tiết kiệm; (2) Thu nhập của hoạt động xuất khẩu không đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu gọi là lỗ hổng thương mại. Hầu hết ở các nước đang phát triển, hai lỗ hổng trên là rất lớn. Vì vậy FDI là nguồn quan trọng không chỉ bổ xung sự thiếu hụt về vốn nói chung mà cả sự thiếu hụt ngoại tệ nói riêng.
  • Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến của các nươc đi trước.
  • Đứng về lâu dài, đây là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư, FDI có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật, trong các nước nhận đầu tư như là góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành sản phẩm...thúc đẩy sự phát triển của các nghề mới đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng đối với quá trình công nghệ hoá - hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư.
  • FDI mang lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật cho các đối tác trong nước nhận đầu tư thông qua các chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI còn thúc đẩy các nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo ra những kỹ sư, nhà quản lý có trình độ chuyên môn để tham gia vào các công ty liên doanh với nước ngoài.
  • Lợi ích về công ăn việc làm
  • Thực ra đây là một tác động kép: tạo thêm công ăn việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ trong nước.
  • FDI ảnh hưởng trực tiếp tới cơ hội tạo việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo ra những cơ hội việc làm trong những tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước hoặc thuê họ qua các hợp đồng gia công chế biến. Thực tiễn ở một số nước cho thấy FDI đã góp phần tích cực tạo ra công ăn việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao động như may mặc, điện tử, chế biến.
  • Thông qua FDI các nước nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới.

Các nước đang phát triển nếu có khả năng sản xuất ở mức chi phí có thể cạnh tranh được thì lại rất khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Trong khi đó, thông qua FDI các nước này có thể thâm nhập vào thị trường thế giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty đa quốc gia thực hiện, mà các công ty này lại có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thanh thế và uy tín của họ về chất lượng và kiểu dáng của các sản phẩm, việc giữ đúng thời hạn...

Với những vai trò của FDI đã trình bày ở trên, một lẫn nữa khẳng định FDI là yếu tố cần thiết cho sự phát triển của mỗi quốc gia và được coi là nguồn lực quốc tế cần được khai thác để từng bước hội nhập vào cộng đồng quốc tế, góp phần giải quyết về vốn. Một cách tiếp cận thông minh để bước nhanh trên con đường phát triển.

Các nhân tố tạo nên sự hấp dẫn của các nước đang phát triển đối với FDI

Nhiều nghiên cứu gần đây đã đưa ra nhận xét: Thành công của các nước đang phát triển trong thu hút FDI có thể được đặc trưng bởi sự kết hợp hài hoà giữa các nhân tố về sự ổn định chính trị, kinh tế - xã hội. Nó bao gồm một loạt các yếu tố như tăng trưởng nhanh, sự phát triển của thị trường trong nước, những điều kiện thuận lợi và tiềm năng của các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tự nhiên và con người, điều kiện hoàn hảo về cơ sở hạ tầng

Vấn đề đặt ra là liệu các nhân tố như vậy có thực sự đóng góp vào việc thu hút đối với đầu tư nước ngoài hay không.

Trong thực tế không có một lý thuyết đơn nhất nào có khả năng khái quát một cách toàn diện hiện tượng FDI và các điều kiện cần thiết để thu hút nó. Trong một chuẩn mực nhất định, các yếu tố quyết định tính hấp dẫn đối với FDI của mỗi nước là khác nhau, mối liên hệ giữa các yếu tố này với sự vận động của từng nền kinh tế cũng khác nhau. Mặc dù không phải là lý thuyết chuyên về đầu tư quốc tế nhưng “hệ phương pháp luận về sản xuất quốc tế thuộc phái trung dung” (J.H Dunning 1988) đã nêu ra hai tiền đề quan trọng.

  • Đó là các yếu tố thuộc về tiền năng các nguồn lực của nền kinh tế và khả năng kết hợp một cách linh hoạt các nguồn lực đó.
  • Những nhân tố thuộc thị trường nhằm v 24;o việc tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một trong các nhân tố thuộc loaị này.

Đứng trên góc độ các nhà đầu tư, nhân tố này rất quan trọng bởi đó là chỉ dẫn đại thể về mức độ hấp dẫn của nước chủ nhà. FDI sẽ được đẩy mạnh khi có cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt, sự phát triển của FDI tại Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh duyên hải là một ví dụ. Điều này cũng phù hợp với các nghiên cứu gần đây đối với các thành phố duyên hải của Trung Quốc: chính vì hệ thống giao thông thuận lợi, khoảng cách đến các cảng lớn ngắn đã thu hút mạnh FDI vào khu vực này. ngược lại các nghiên cứu tại phía Nam Sahara cho thấy hệ thống đường xá kém phát triển, liên lạc viễn thôngxấu không có khả năng thu hút FDI vào khu vực này.

Qua việc nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến cơ sở hạ tầng và FDI chúng ta đã phần nào thấy được mối quan hệ giữa hệ thống cơ sở hạ tầng với quá trình thu hút FDI. Song để hiểu rõ hơn mối quan hệ này chúng ta cần phải nghiên cứu tiếp.




Nguồn: voer.edu.vn/m/khai-niem-ve-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai/09a1faee


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận