Khái niệm
- Theo điều VI của Hiệp định chung về buôn bán và thuế quan (GATT) năm 1947 xác định:
Bán phá giá là hành động mang sản phẩm của một nước sang bán thành hàng hoá ở một nước khác, với mức giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó khi bán ở trong nước.
Một sản phẩm được coi là bán phá giá khi nó được đưa vào hoạt động thương mại tại nước nhập khẩu với giá xuất khẩu thấp hơn giá có thể so sánh được trong tiến trình buôn bán thông thường đối với sản phẩm tương tự khi đưa tới người tiêu dùng ở trong nước xuất khẩu.
Như vậy, trung tâm của khái niệm bán phá giá là có sự tách biệt về giá, khi giá xuất khẩu thấp hơn gía trị thông thường của hàng hóa đó ở trong nước xuất khẩu.
Bán phá giá hàng hoá không đồng nghĩa với hàng hoá bán rẻ. Một nước có thể xuất khẩu hàng hoá đó sang nước khác, bán với giá rẻ hơn hàng hoá cùng loại đang bán trên thị trường nước nhập khẩu, nếu giá bán không thấp hơn gía bán của hàng hoá đó trên thị trường nước xuất khẩu thì hành động đó không phải là bán phá giá.
Ví dụ về việc bán phá giá hàng hoá như sau:
Một người sản xuất TV lâu năm bán mặt hàng tivi PANASONIC với giá 300USD/chiếc, nếu người đó xuất khẩu TV cùng loại PANASONIC tới nước khác và bán với giá 230USD /chiếc thì người đó đã thực hiện hành động bán phá giá.
- Từ điển Tiếng Việt- do Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam- Bộ giáo dục và đào tạo phát hành năm 1999 quy định: “ Bán phá giá là bán với giá thấp hơn giá chung của thị trường để nhằm cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường”.
- Theo điều 4 của “Pháp lệnh giá” của nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa:
“Bán phá giá là hành vi bán hàng hoá, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường , hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và lợi ích của Nhà nước.”
Với định nghĩa này, Phạm vi điều chỉnh của nó chỉ đặt ra đối với việc chống phá giá trong quan hệ thương mại tại thị trường nội địa nhưng xét về bản chất không có gì trái, mâu thuẫn so với những giải thích mang tính chuẩn mực của Từ điển, với những quy định của GATT, WTO. Nó đã vận dụng và điều chỉnh một cách tương đối hợp lý vấn để chống bán phá giá trong quan hệ thương mại quốc tế vào quan hệ thương mại nội địa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Khái niệm trên đã làm sáng tỏ ba nội dung cơ bản để tiến hành các giải pháp chống bán phá giá phải chú ý, đó là:
- Thứ nhất: Xác định hành vi (Bán phá giá là hành vi bán hàng hoá, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường…).
- Thứ hai: Xác định mục tiêu của hành vi ( …để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật).
- Thứ ba: Xác định hệ quả xảy ra của hành vi và việc thực hiện mục tiêu của hành vi ( Gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức , cá nhân sản xuất kinh doanh khác và lợi ích Nhà nước).
Một khái niệm với ba nội dung nêu trên có liên quan mật thiết với nhau và nó là quan hệ nhân quả; nếu cắt bỏ bất kỳ vế nào củakhái niệm trên thì khái niệm sẽ mãi mãi không thể là một khái niệm hoàn chỉnh.
Điều kiện bán phá giá hàng hoá
Theo điều 23- “Pháp lệnh giá” của Việt Nam ngày 8/5/2002
Các hành vi sau không bị coi là hành vi bán phá giá:
- Hạ giá bán hàng tươi sống
- Hạ giá bán hàng tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình thức, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
- Hạ giá bán hàng hoá theo mùa vụ
- Hạ giá bán hàng hoá để khuyến mại theo quy định của pháp luật
- Hạ giá bán hàng hoá trong trường hợp phá sản, giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển hướng sản xuất, kinh doanh.
Điều kiện bán phá giá hàng hoá là phải lũng đoạn được mặt hàng đó ở thị trường trong nước để tránh nguồn hàng nhập khẩu trở lại.
Có thể nói bán phá giá hàng hoá là một trong những biểu hiện trực tiếp lớn nhất của sự can thiệp của Nhà nước trong lĩnh vực Ngoại thương, đồng thời là thủ đoạn quan trọng để mở rộng khả năng tiêu thụ hàng hoá trên thị trường ngoài nước. Đặc điểm của bán phá giá hiện nay là phần lớn do Nhà nước tiến hành và tổn thất do Ngân sách Nhà nước gánh chịu.