Có thể nói Trung Quốc là một nước đạt được những thành tựu to lớn trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính điều đó đã góp một phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Để đạt được những thành tựu đó, Đảng Cộng Sản và Nhà nước Trung Quốc đã quyết định thực hiện đẩy nhanh tốc độ cải cách và mở cửa với những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc. Đó là:
Mở rộng địa bàn thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từng bước, nhiều tầng, ra mọi hướng.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc chủ trương mở cửa vùng ven biển là nơi có vị trí thuận lợi trong giao lưu buôn bán quốc tế. Từ mở cửa v en biển sẽ dần dần mở sâu vào nội địa. Những bước đi như vậy đã dần hình thành khinh tế mở cửa nhiều tầng nấc, ra mọi hướng theo phương châm mơ cửa từ điểm, đến tuyến, đến diện. Với những bước đi thận trọng nhưng khẩn trương, Trung Quốc đã tiến hành mở cửa từng khu vực, bắt đầu từ việc thành lập 5 đặc khu kinh tế, sau đó là việc mở cửa 14 thành phố ven biển, 13 thành phố ven biên giới nhằm mở rộng thương mại và đầu tư vùng biên.
Tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính sách biện pháp trên nhiều lĩnh vực để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các chủ trương, biện pháp được hướng vào cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện các ưu đãi (như ưu đãi thuế với khu vực đầu tư, ưu đãi thuế theo kỳ hạn kinh doanh và ưu đãi thuế trong tái đầu tư), đa dạng hoá các hình thức đầu tư và các chủ đầu tư, đặc biệt là giữa Hoa và Hoa Kiều, mở rộng các lĩnh vực đầu tư.
Từ thực tế tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc trong thời gian qua. Chúng ta có rút ra được một số bài học kinh nghiệm:
- Mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dần từng bước theo khu vực.
Thực hiện tư tưởng của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã thực hiện mở cửa dần từng bước theo liệu pháp “ dò đá qua sông”, để trước khó sau, tiến dần từng bước, giảm bớt rủi ro nên đã tránh được những va chạm xã hội lơn và sự phan hoá hai cực quá nhanh như đã xảy ra ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu do thực hiện “liệu pháp xốc”.
- Phương pháp thu hút công nghệ tiên tiến của nước ngoài.
Phương châm “ dùng thị trường đổi lấy công nghệ” của Trung Quốc là một con dao hai lưỡi bởi lẽ với phương pháp này, trình độ kỹ thuật của Trung Quốc chỉ tang một thời gian ngắn đã có những bước tiến đáng kể so với các nước đang phát triển khác. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, Trung Quốc cũng đã gặp phải những khó khăn hết sức to lớn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách, bước đi phù hợp để phát huy tt mặt tích cực, hạn ché mặt tiêu cực trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Về quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phát triển mạnh công nghiệp quốc gia trên cơ sở vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các công ty xuyên quốc gia, làm tốt công tác kiểm tra, kiểm toán trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phấn đấu từng tỷ lệ vốn góp của đối tác thuộc quốc gia tiếp nhận đầu tư để hạn chế các thua thiệt trong đầu tư nước ngoài.
- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của quản lý Nhà nước đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để mở rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cần thiết phải có chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng cần phải nghiên cứu để có chính sách ưu dãi thích hợp nhằm tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tránh gây thua thiệt cho các doanh nghiệp trong nước.
Về cải cách thủ tục hành chính, Trung Quốc thực hiện chế độ phân cấp ra quyết định đầu tư cho các tỉnh, thành phố, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư về thời gian, chi phí trong việc làm các thủ tục xin đầu tư. Mặt trái của sự phân cấp này là phát sinh mâu thuẫn giữa lợi ích địa phương và lợi ích quốc gia, tạo nên nạn quan liêu trì trệ, hối lộ tham những trong hàng ngũ cán bộ làm công tác đầu tư. Vì vậy, cần nâng cao vai trò hiệu lực và hiệu quả của Nhà nước trong việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát mọi hoạt động liên quan đến đầu tư nước ngoài.