Theo thư mời ngày 16/02/2000 của Hội đồng Quốc gia GD, trước hết xin được gởi đến Hội đồng 3 bài viết kèm theo đây có tính chất là những kiến nghị của tôi về GDĐH:
Bài 1: 9 Đề nghị về GDĐH, 11/1996.
Bài 2: GDĐH “đại trà” và sự “phân tầng”, 05/1998.
Bài 3: Về thiết kế và tổ chức mạng lưới các trường ĐH, 11/1999.
Những bài viết này đều liên hệ trực tiếp đến các quan niệm về GDĐH, tổ chức các trường ĐH… và đã được gởi cho các đồng chí lãnh đạo có liên quan. Nói riêng, bài thứ 3 có nội dung liên quan trực tiếp đến việc tổ chức mạng lưới các trường ĐH (MLĐH) và việc tổ chức lại ĐH Quốc gia (ĐHQG) Tp. Hồ Chí Minh. Sau đây, xin được phát biểu thêm 3 ý kiến:
Trên thế giới trong khoảng 30-40 năm qua và ở Việt Nam trong khoảng 10 năm trở lại đây đã có hiện tượng “bùng nổ sĩ số ĐH” và đã làm cho nền GDĐH chuyển từ tính chất “tinh hoa” sang “đại trà” (mass). Ở Anh số trường ĐH (ĐH) tăng lên gấp đôi chỉ từ 1991 đến 1996. Thế giới cũng đã phát triển nhanh số sinh viên (SV) các trường ĐH kiểu “không truyền thống”. Ở Thái Lan, số SV ở 2 trường ĐH mở đã đông khoảng vài lần tổng số SV của gần 50 trường ĐH công, tư còn lại. Cách quản lý trường ĐH hoàn toàn thay đổi. Sự tôn trọng của công chúng đối với thầy giáo ĐH cũng đã giảm xuống. thầy giáo (TG) mất đi quyền lực và lợi thế trong công việc. Lương trung bình của thầy giáo ĐH so với lương trung bình của công nhân công nghiệp ở Anh năm 1929 khoảng 4 lần, đến năm 1989 chỉ còn khoảng 1,54 lần. TG trong biên chế chính thức (tenured) ở Úc và Anh trong vài mươi năm qua đã giảm từ 80 – 90% xuống còn khoảng 50 – 60%.
Trong bối cảnh đó, GDĐH buộc phải phân lớp. It nhất là có 3 lớp, phân lớp 1: tinh hoa (research oriented), phân lớp 2: nghề nghiệp (vocational/technical) và phân lớp 3: nghề nghiệp, trình độ cao đẳng. Bên cạnh cách nhìn truyền thống về chất lượng GDĐH còn có vài ba cách nhìn lạ hơn mà chúng ta có khi còn khó chấp nhận hoặc nhận ra như: Chất lượng là giá trị để làm ra tiền bạc (Quality is “value for money”) hay chất lượng là khả năng thay đổi từ một trạng thái này sang một trạng thái khác (Quality is a change from one state to another).
Như vậy, GDĐH trên thế giới cũng như ở nước ta đã và đang có những biến đổi rất cơ bản, sâu sắc, và GDĐH đang phải đứng trước rất nhiều “nghịch lý”.Những biến đổi này yêu cầu phải tái cấu trúc (reengineering) việc tổ chức GDĐH nói chung và tổ chức viện/ trường ĐH nói riêng. Nếu chúng ta vẫn sử dụng cách nhìn truyền thống, cái nhìn “tinh hoa”…, e rằng sẽ bị xa rời thực tiễn.
Theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 2, mục tiêu của việc lập các ĐH quốc gia là nhằm xây dựng những trung tâm đào tạo chất lượng cao đạt trình đọ quốc tế. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, cần thiết và hợp lý. Để có thể đạt dược ý đồ và mục tiêu đó, có lẽ cần sử dụng các nguyên tắc và tiêu chí (rất sơ bộ) sau đây:
(a) Trong điều kiện của Việt nam hiện nay, ĐHQG phải là một trường ĐH công lập, kiểu truyền thống, chú trọng nghiên cứu khoa học (research-oriented), thường có viện nghiên cứu trong trường ĐH, thuộc phân lớp 1 trong hệ thống phân lớp của nền GDĐH. Trường có tính chất một ĐH (University) đa lĩnh vực và tính chất đa lĩnh vực phải được thể hiện ngay trong chương trình đào tạo và các đề tài nghiên cứu lớn của nhà trường. Trường chỉ đào tạo 3 trình độ: Cử nhân, Thạc sĩ và Tiến sĩ, và có SV sau ĐH chiếm trên 20 – 30%, có thể có riêng trường đào tạo sau ĐH ở trong ĐHQG. Hầu hết số SV của trường thuộc nhóm 10-15% trên xuống trong sắp hạng tốt nghiệp phổ thông trung học.
(d) Nhìn trên tổng thể của nền GDĐH, tổng số SV ở các trường ĐH có tính chất quốc gia không nên chiếm một tỷ lệ quá lớn, ví dụ không quá 20–25% tổng số SVĐH hiểu theo nghĩa “Tertiary Education”. Số SV ở các chương trình đào tạo tinh hoa không nên vượt quá 10–12% tổng số SV ĐH chẳng hạn. Cũng chính vì vậy, cần có một sự “trùng lắp” về ngành nghề đào tạo giữa trường ĐHQG và các trường ĐH khác, nhưng khác về tính chất, sứ mạng.
ĐHQG Tp. HCM hiện có gần 150.000 SV nếu kể cả Đại học sư phạm (trong đó có khoảng trên 50.000 SV ĐH tại chức, chuyên tu và 12.000 SV cao đẳng) chiếm khoảng 90% tổng số SV trường ĐH công, gần ¾ tổng số SV ĐH các loại ở khu vực Tp. HCM. Không thể “tinh hoa” và ưu tiên cho một tỷ số lớn đến như vậy. Mặt khác, tỷ lệ SV/TG của ĐHQG Tp. HCM là 50/1, trong đó có trường ĐH thành viên có tỷ lệ SV/TG đạt mức kỷ lục 135/1. ĐHQG Tp. HCM lại được tổ chức thành 4 cấp và kiểu quản lý chủ yếu là “kiểu công ty”. Do vậy, xét về thực tế cũng như triển vọng, ĐHQG Tp. HCM không thể đạt được các mục tiêu, yêu cầu của một trung tâm đào tạo chất lượng cao như Nghị quyết Trung & #432;ơng 2 đã nêu.
Để tổ chức lại ĐHQG Tp. HCM, một mặt cần sơ bộ xác định và thống nhất các nguyên tắc, tiêu chí nói trên, mặt khác cần xem xét thêm thực trạng sau đây:
Từ những phân tích trên, xin đề nghị một số giải pháp sau đây:
Bên cạnh đó, từng bước xây dựng trường ĐHBK thành một trường ĐH công nghệ trọng điểm, có tính chất quốc gia, sau khoảng 10 năm sẽ đạt được các tiêu chí nói trên. Trong đó, nên giữ quy mô SV của ĐHBK không vượt quá con số hiện nay, khoảng 20.000 SV; từng bước giảm bớt số SV chuyên tu - tại chức và từng bước chuyển chức năng đào tạo nhân lực “đại trà” nặng về dạy nghề (Vocational) cho các trường ĐH khác. Phương án này dễ đạt hơn các mục tiêu như nghị quyết TƯ2 đã nói và phù hợp hơn với hoàn cảnh của một nước mới phát triển, cần chú trọng việc đổi mới và “thích hợp hoá” công nghệ.
Kính thưa Hội đồ 2bc7 ;ng, trên đây mới chỉ là một số ý kiến sơ bộ, kính trình hội đồng xem xét và tham khảo