Thuốc Bắc là cách gọi ở Việt Nam đối với các loại thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền của Trung Quốc. Gọi là thuốc Bắc để phân biệt với thuốc Nam là thuốc theo y học cổ truyền Việt Nam. Ở Trung Quốc gọi thuốc này là Trung dược (中药 - zhōngyào), Hán dược (汉药, 漢藥), v.v... Thuốc Bắc được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc khu vực văn hóa Trung Hoa và trong cộng đồng người Hoa.
Sử dụng thuốc
Người bệnh thường được đề nghị dùng nhiều thang, nhiều phuơng thang cho một đợt điều trị. Nhìn chung, điều trị bằng thuốc Bắc thường mất thời gian hơn so với điều trị bằng y học hiện đại đối với cùng một loại bệnh.
Thuốc Bắc được dùng qua đường miệng là chủ yếu. Thuốc đem luộc, hãm, ninh trong nước (sắc thuốc) theo tỷ lệ do thầy thuốc đề nghị, chẳng hạn như một thang thuốc với bao nhiêu bát nước và đun trong khoảng thời gian bao lâu để còn bao nhiêu bát thuốc nước. Đối với người bệnh không có điều kiện sắc thuốc, thầy thuốc có thể cho dùng thuốc đã bào chế thành viên. Đối với thuốc Bắc ngâm rượu bao gồm cả bộ phận động vật ngâ m rượu hay cao đem ngâm rượu, thầy thuốc cũng huớng dẫn cách sử dụng chặt chẽ về thời gian, thời điểm, khối luợng, đối tuợng dùng, chỉ định và chống chỉ định.
Ngoài ra, thuốc Bắc cũng có thể dùng để chườm, đắp, bôi, bó, xông hoặc để trong gối dùng khi đi ngủ.
Thuốc Bắc còn có thể dùng làm thực phẩm trị liệu như tiềm (hầm) với gà, gân, nấu canh với cá, xuơng, nạc, nẫu lẩu, làm kẹo ngậm...
Các vị thuốc Bắc
Trung Hoa dược điển - từ điển vị thuốc Bắc
Các vị thuốc Bắc được cất riêng theo vị tại một cửa hàng thuốc Bắc ở Vancouver, Canada. Thuốc Bắc có rất nhiều vị. Người ta hay nói có 108 vị thuốc Bắc, nhưng con số này không chính xác. Trung Hoa dược điển của Trung Quốc cho biết có tới vài trăm vị.
Dân gian Việt Nam có bài thơ về mối tính nam nữ trong đó có nhiều từ mang đồng âm khác nghĩa trong đó có nghĩa các loại thuốc Bắc.
Trước kính lạy trông ơn bối mẫu,
Sau tỏ lòng thục nữ hồng hoa.
Đôi ta từ bán hạ giao hòa,
Lòng những ước liên kiều hai họ.
Duyên xích thược anh đà gắn bó,
Nghĩa quế chi em khá ghi lòng.
Mặc dù ai trỗi tiếng phòng phong,
Đôi ta nguyện cùng nhau cát cánh.
Ngồi nhớ tới đào nhơn cám cảnh,
Nỡ để cho quân tử ưu phiền.
Muốn sao cho nhơn nghĩa huỳnh liên,
Thì mới đặng vui vầy viễn chí.
Ngồi buồn chốn mạch môn thăn thỉ,
Nhớ thuyền quyên tục đoạn gan vàng.
Ơn cha mẹ nghĩa tợ hoài san,
Công song nhạc tình đà đỗ trọng.
Ngày vái tới thiên môn lồng lộng,
Đêm nguyện cùng thục địa chiếu tri.
Dạ muốn cho trọn chữ đương quy,
Vậy nên phải cạn lời bạch truật.
Bấy lâu tưởng linh tiêu phục dực,
Nay mới tường độc hoạt loan phòng.
Trách dạ em nhiều nỗi xuyên khung,
Chạnh tủi phận lòng này cam toại.
Vì nhẫn nhục không trông trái phải,
Nỡ phụ người bạch chỉ chi nhân.
Tưởng cùng nhau tụ hội châu trần,
Hay đâu bậu ký sanh viễn địa.
Này kinh giới chẳng toàn nhơn nghĩa,
Chốn tiền hồ nguyệt kết liễu châm.
Tai vẳng nghe nổi tiếng huỳnh cầm,
Chạnh tủi phận đằm đằm trạch tả.
Nhớ trinh nữ lòng dao cắt dạ,
Quặn nhơn bào tựa muối xát lòng.
Ngùi châu sa lụy ngọc ròng ròng,
Đoạn thần khúc đề thơ trách bậu.
(Vô danh)
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng có bài thơ nổi tiếng trong đó có các từ đồng âm khác nghĩa mà có nghĩa chỉ các loại thuốc Bắc.
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì?
Thương chồng nê n nỗi khóc tì ti!
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng chàng ơi vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì sao để lại,
Qui thân, liên nhục tẩm mang đi.
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ.
Sinh ký chàng ôi tử tắc quy.