Khái niệm cơ bản.
Tiền lương và bản chất tiền lương.
Khái niệm tiền lương.
Theo giáo trình Quản Trị Nhân Lực của Đặng Kim Dung: Trong thực tế, khái niệm và cơ cấu tiền lương rất đa dạng ở các nước trên thế giới. Tiền lương có thể có nhiều tên gọi khác nhau như thù lao lao động, thu nhập lao động, v.v…Ở Pháp, “sự trả công được hiểu là tiền lương, hoặc lương bổng cơ bản, bình thường hay tối thiểu và mọi thứ lợi ích, phụ khoản khác, được trả trực tiếp hay gián tiếp bằng tiền hay hiện vật, mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo việc làm của người lao động”. Còn ở Châu Á, ví dụ như ở Đài Loan, “Tiền lương chỉ mọi khoản thù lao mà người công nhân nhận được do làm việc; bất luận là dùng tiền lương, lương bổng, phụ cấp có tính chất lương, tiền thưởng hoặc dùng mọi danh nghĩa khác để trả cho họ theo giờ, ngày, tháng, theo sản phẩm”. Ở Nhật Bản, “Tiền lương, bất luận được gọi là tiền lương, lương bổng, tiền được chia lãi hoặc bằng những tên gọi khác, là chỉ thù lao cho lao động mà người sử dụng lao động chi trả cho công nhân”.
Ở Việt Nam, hiện nay có sự phân biệt các yếu tố trong tổng thu nhập của người lao dộng từ công việc: tiền lương (dụng ý chỉ lương cơ bản), phụ cấp, tiền thưởgn và phúc lợi. Theo quan điểm của cải cách tiền lương năm 1993:
Bản chất tiền lương.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Tiền lương là một phần thu nhập quốc dân biểu hiện bằng tiền mà người lao động nhận được để bù đắp cho lao động đã bỏ ra, tuỳ theo số lượng và chất lượng của người lao động đó.
Trong bất kì một chế độ nào thì tiền lương cũng thực hiện chức năng kinh tế cơ bản là đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Người lao động tái sản xuất sức lao động thông qua các tư liệu sinh hoạt nhận được từ việc họ sử dụng khoản tiền lương của mình sao cho hợp lí nhất. Đây là yếu tố quan trọng kích thích vật chất đối với người lao động để họ hoàn thành nhiệm vụ được giao và làm tăng sức lao động. Như vậy, tiền lương, trươc hết là số tiền mà người sử dụng lao động (người mua sức lao động) trả cho người lao động (người bán sức lao động). Từ đó thấy rõ tiền lương và bản chất của nó là giá cả của sức lao động; được hình thành trên cơ sở giá trị của sức lao động, thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động. Đó là quan hệ kinh tế của tiền lương.
Ngoài ra, tiền lương còn thể hiện quan hệ xã hội, là nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến đời sống của người lao động. Khi tiền lương đảm bảo được đời sống của người lao động thì nó thúc đẩy người lao động có lối sống tích cực và làm việc ngày càng hiệu quả. Ngược lại, khi đời sống không ổn định thì xảy ra nhiều tệ nạn xã hội như: trộm cắp, buôn bán ma túy …để có nhiều tiền gây mất trật tự và là gánh nặng của toàn xã hội.
Một số khái niệm về các hình thức trả lương.
Khái niệm hình thức trả lương theo thời gian.
Trả lương theo thời gian: là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế:
Tiền công tháng là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở HĐLĐ;
Tiền lương tuần là tiền lương trả cho một tuần làm việc được xác đN 83;nh trên cơ sở tiền lương tháng nhân với 12 tháng và chia cho 52 tuần;
Tiền lương ngày là tiền lương trả cho một ngày làm việc được xác định trên cơ sở tiền lương tháng chia cho 26 ngày;
Tiền lương giờ là tiền lương trả cho một giờ làm việc được xác định trên cơ sở lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn (8 giờ trong 1 ngày là 40 giờ trong 1 tuần).
Khái niệm hình thức trả lương theo sản phẩm.
Trả lương theo sản phẩm: là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào số lượng chất lượng sản phẩm họ làm ra
Trả lương khoán: là hình thức trả lương cho người lao động theo khối lượng và chất lượng công việc phải hoàn thành. Người lao động được trả lương trực tiếp đầy đủ, đúng thời hạn và tại nơi làm việc. Trong trường hợp đặc biệt phải trả lương chậm, không được chậm quá một tháng và người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm do ngân hàng nhà nước công bố tại thời điểm trả lương.
Các hình thức trả lương
Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Ý nghĩa và điều kiện của trả lương theo sản phẩm.
Ý nghĩa.
Trả lương theo sản phẩm: là hình thức trả lương cho người lao động dựa trực tiếp vào số lượng và chất lượng sản phẩm (hay dịch vụ) mà họ đã hoàn thành. Đây là hình thức trả lương được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp.
Tác dụng của hình thức trả lương theo sản phẩm:
- Quán triệt tốt nguyên tắc trả lương theo lao động, vì tiền lương mà người lao động nhận được phụ thuộc vào số lượng và chất lượng sản phẩm đã hoàn thành. Điều này sẽ có tác dụng làm tăng năng suất lao động của người lao động.
- Trả lương theo sản phẩm có tác dụng trực tiếp khuyến khích người lao động ra sức học tập nâng cao trình độ lành nghề, tích luỹ kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng, phát huy sáng tạo…để nâng cao khả năng làm việc và năng suất lao động.
- Trả lương theo sản phẩm góp phần vào việc nâng cao và hoàn thiện công tác quản lý, nâng cao tính tự chủ, chủ động trong làm việc của người lao động.
Tuy nhiên để hình thức trả lương theo sản phẩm thực sự phát huy tác dụng của nó, các doanh nghiệp cần đảm bảo được các điều kiện.
Các điều kiện của trả lương theo sản phẩm.
- Phải xây dựng được các mức lao động có căn cứ khoa học. Đây là điều kiện rất quan trọng làm cơ sở để tính toán đơn giá tiền lương.
- Đảm bảo tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc. Tổ chức phục vụ nơi làm việc nhằm đảm bảo cho người lao động có thể hoàn thành và hoàn thành vượt mức năng suất lao động nhờ giảm bớt thời gian tổn thất do phục vụ tổ chức và phục vụ kỹ thuật.
- Làm tốt công tác kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm. Nhằm đảm bảo sản phẩm được sản xuất ra theo đúng chất lượng đã quy định, tránh hiện tượng chạy theo số lượng đơn thuần. Qua đó, tiền lương được tính và trả đúng với kết quả thực tế.
Các chế độ trả lương theo sản phẩm.
Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân.
Khái niệm và điều kiện áp dụng: Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân được áp dụng rộng rãi đối với người trực tiếp sản xuất trong điều kiện quá trình lao động của họ mang tính chất độc lập tương đối, có thể định mức nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể và riêng biệt.
* Ưu, nhược điểm :
+ Ưu điểm:
- Khuyến khích được công nhân tích cực làm việc nâng cao năng suất lao động tăng tiền lương một cách trực tiếp
- Tính tiền lương trực tiếp trong kì một cách đơn giản và dễ dàng.
+ Nhược điểm:
- Công nhân chỉ quan tâm đến số lượng, ít quan tâm đến chất lượng sản phẩm
- Không khuyến được công nhân tiết kiệm được vật tư vật liệu hay sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị.
Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể.
Khái niệm và điều kiện áp dụng: Chế độ này áp dụng để trả lương cho một nhóm người lao động (tổ sản xuất…) khi họ hoàn thành một khối lượng sản phẩm nhất định. Chế độ trả lương sản phẩm tập thể áp dụng cho những công việc đòi hỏi nhiều người cùng tham gia thực hiện, mà công việc của mỗi cá nhân có liên quan đến nhau.
* Ưu, nhược điểm:
+ Ưu điểm: Kích thích người lao động quan tâm đến kết quả chung của cả tổ.
+ Nhược điểm: Tiền lương mang tính bình quân, có những người làm việc không hoàn toàn tích cực nên khó có thể đánh giá chính xác kết quả lao động cho mỗi người.
Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng.
Khái niệm và điều kiện áp dụng: Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng gồm hai phần:
- Phần trả lương theo đơn giá cố định về số lượng và chất lượng sản phẩm thực tế đã hoàn thành.
- Phần tiền lương được tính dựa vào trình độ hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu thưởng cả về số lượng và chất lượng sản phẩm.
L Th = L+ (L (mh) /100)
Trong đó:
LTh: Tiền lương sản phẩm có thưởng.
L: Tiền lương trả theo sản phẩm với đơn giá cố định.
m: Tỉ lệ phần trăm tiền thưởng (tính theo tiền lương theo sản phẩm với đơn giá cố định).
h: Tỉ lệ phần trăm hoàn thành vượt mức sản lượng được tính thưởng.
* Ưu, nhược điểm:
+ Ưu điểm: Khuyến khích công nhân tích cực làm việc hoàn thành vượt mức sản lượng.
+ Nhược điểm: Việc phân tích tính toán xác định các chỉ tiêu tính thưởng không chính xác có thể làm tăng chi phí tiền lương, bội chi quỹ tiền lương.
Chế độ tiền lương theo sản phẩm lũy tiến.
Khái niệm và điều kiện áp dụng: Chế độ này thường được áp dụng ở những “khâu yếu” trong sản xuất. Đó là khâu có ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quá trình sản xuất.
Trong chế độ trả lương này dùng hai loại đơn giá:
- Đơn giá cố định: dùng để trả cho những sản phẩm thực tế đã hoàn thành.
- Đơn giá luỹ tiến: dùng để trả lương cho những sản phẩm vượt mức khởi điểm. Đơn giá luỹ tiến là đơn giá cố định nhân với tỷ lệ tăng đơn giá.
* Ưu điểm: Việc tăng đơn giá cho những sản phẩm vượt mức khởi điểm làm cho công nhân tích cực làm việc tăng năng suất lao động.
* Nhược điểm: Áp dụng chế độ này dễ làm cho tốc độ tăng của tiền lương lớn hơn tốc độ tăng năng suất lao động của những giai đoạn áp dụng trả lương sản phẩm luỹ tiến.
Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp.
Khái niệm và điều kiện áp dụng: Chế độ trả lương sản phẩm gián tiếp được áp dụng để trả lương cho những lao động làm các công việc phục vụ hay phụ trợ, phục vụ cho hoạt động của công nhân chính.
Tiền công của công nhân phụ nhận được phụ thuộc vào kết quả sản xuất của công nhân chính vì vậy nó khuyến khích công nhân phụ phục vụ tốt hơn công nhân chính.
* Ưu điểm: Chế độ trả lương này khuyến khích công nhân phụ, phụ trợ phục vụ tốt hơn cho hoạt động của công nhân chính góp phần nâng cao năng suất lao động của công nhân chính.
* Nhược điểm: Tiền lương của công nhân phụ, phụ trợ phụ thuộc vào kết quả thực tế của công nhân chính, mà kết quả này nhiều khi chịu tác động của các yếu tố khác, do vậy làm hạn chế sự cố gắng làm việc của công nhân phụ.
Chế độ trả lương khoán.
Khái niệm và điều kiện áp dụng: Chế độ này áp dụng cho những công việc được giao khoán cho công nhân. Chế độ này được áp dụng phổ biến trong các ngành nông nghiệp, xây dựng cơ bản, hoặc trong một số ngành khác khi công nhân làm các công việc mang tính đột xuất, công việc không thể xác định một định mức lao động ổn định trong thời gian dài.
* Ưu điểm: Trả lương theo sản phẩm khoán có tác dụng làm cho người lao động phát huy sáng kiến và tích cực cải tiến lao động để tối ưu hoá quá trình làm việc, giảm thời gian lao động, hoàn th ành công việc giao khoán.
* Nhược điểm: Việc xác định đơn giá khoán phức tạp, khó chính xác, việc trả sản phẩm khoán có thể làm cho công nhân bi quan hay không chú ý đầy đủ đến một số việc bộ phận trong quá trình hoàn thành công việc giao khoán.
Hình thức trả lương theo thời gian
Điều Kiện áp dụng: Hình thức này áp dụng cho lao động gián tiếp là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lí văn phòng và bộ phận phục vụ trong công ty. Và việc xác định tiền lương thời gian dựa trên cơ sở độ dài thời gian làm việc, mức độ phức tạp của công việc và hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Hình thức trả lương theo thời gian được áp dụng cho đối tượng này là do công việc của họ không thể tiến hành định mức một cách chính xác và chặt chẽ và nếu thực hiện trả công theo sản phẩm sẽ không bảo đảm chất lượng của sản phẩm, không đem lại hiệu quả thiết thực…
Có 2 chế độ trả lương theo thời gian:
Chế độ trả lương theeo thời gian đơn giản.
Khái niệm và điều kiện áp dụng: Chế độ trả lương theo thời gian đơn giản là chế độ trả lương mà tiền lương nhận được của mỗi người công nhân do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gian thực tế làm việc nhiều hay ít quyết định.
Chế độ trả lương này chỉ áp dụng ở những nơi khó xác định mức lao động chính xác, khó đánh giá công việc chính xác.
* Ưu điểm: Đơn giản, dễ tính và áp dụng được ở những nơi khó xác định mức lao động chính xác, khó đánh giá công việc chính xác.
* Nhược điểm: Tiền lương mang tính bình quân cao, không khuyến khích người lao động sử dụng hợp lí thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên vật liệu nhằm tăng năng suất lao động.
Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng.
Đây là sự kết hợp giữa chế độ trả lương theo thời gian đơn giản với tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng đã quy định.
TL TTtháng = T tt + Tiền thưởng
* Ưu điểm: Chế độ này phản ánh được trình độ thành thạo và thời gian làm việc thực tế của người lao động, đồng thời nó gắn chặt thành tích công tác của từng người thông qua các chỉ tiêu xét thưởng đã đạt được. Vì vậy nó khuyến khích người lao động quan tâm đến trách nhiệm và kết quả công tác của mình.
* Nhược điểm: Nó chưa gắn chặt thu nhập của mỗi người với kết quả lao động mà họ đã đạt được trong thời gian làm việc.
Các nhân tố ảnh hưởng tới các hình thức trả lương.
Các nhân tố ảnh hưởng tới hình thức trả lương theo sản phẩm
Định mức lao động.
- Công cụ lao động.
- Thời gian làm việc của công nhân.
- Thời gian làm việc của máy thi công.
- Chất lượng vật liệu: ảnh hưởng đến chất lượng của công trình. Do sự thay đổi giá vật liệu.
- Trình độ tay nghề công nhân.
- Phương pháp tổ chức sản xuất.
- Hệ thống trả lương (lương khoán, lương công nhật).
- Trình độ tự giác của công nhân.
Điều kiện nơi làm việc.
- Giải phóng mặt bằng.
- Mở đường vận chuyển.
- Chuẩn bị phương ti 3b34 ện vận chuyển.
- Cung cấp nguyên vân liệu, máy móc, thiết bị.
- Bố trí nơi bốc dỡ, lưu trữ nguyên vật liệu.
- Quy định rõ khu vực đổ đất, đá, phế liệu.
- Trang bị đầy đủ các thiếp bị an toàn, vệ sinh công nghiệp phục sinh hoạt.
- Lực lương lao động.
Kiểm tra nghiệm thu sản phẩm.
Các nhân tố ảnh hưởng tới hình thức trả lương theo thời gian.
- Thời gian làm việc thực tế.
- Hệ số lương.
- Chất lượng lao động.
Sự cần thiết phải hoàn thiện các hình thức trả lương cho người lao động.
Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tiền lương là một trong những yếu tố đầu vào của doanh nghiệp, nó là một phần chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm. Để doanh nghiệp làm ăn có lãi, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì bất kì một doanh nghiệp nào cũng quan tâm đến vấn đề tiết kiệm chi phí nhằm hạ giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp cần hạch toán một cách chi tiết và cẩn thận sao cho sử dụng hợp lí nhất mọi chi phí bỏ ra trong đó có chi phí cho tiền lương, đồng thời đảm bảo được tính quy luật của nó, tuân thủ pháp luật, lựa chọn hình thức trả lương phù hợp với từng ngành nghề, đặc biệt sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt, các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Một trong những cách để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là phải thu hút được đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, vì vậy họ phải hoàn thiện các chính sách ở doanh nghiệp mình trong đó có chính sách trả công trả lương.
Hiện nay vấn đề tiền lương đang được nhà nước đặc biệt quan tâm và trong những năm gần đây nhà nước luôn có những thay đổi về chính sách tiền lương để bảo đảm sự công bằng cho người lao động và doanh nghiệp; chính vì vậy các doanh nghiệp cũng phải tìm hiều thay đổi chính sách tiền lương để phù hợp với điều kiện của đơn vị mình và đảm bảo đúng những quy định của nhà nước.
Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đã không còn được sự bao cấp của nhà nước mà họ phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Vì vậy những thay đổi trong các chính sách (trong đó chính sách về tiền lương) nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh càng có ý nghĩa lớn đối với các doanh nghiệp nhà nước. Trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, vấn đề tiền lương tại cơ quan văn phòng mặc dù đã có những thay đổi nhưng vẫn chưa thực sự hoàn thiện và còn những bất hợp lý. Vì vậy việc hoàn thiện công tác trả lương tại cơ quan văn phòng thuộc các doanh nghiệp nhà nước hiện nay là một trong những vấn đề cần phải quan tâm.
Đối với người lao động.
Đối với người lao động, tiền lương có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ nuôi sống bản thân người lao động mà còn nuôi sống gia đình họ. Tiền lương quyết định sự tồn tại của mỗi người và là phương tiện cần thiết để tái sản xuất sức lao động. Người lao động sau một thời gian làm việc, nếu không được bù đắp xứng đáng với công sức đã bỏ ra, họ sẽ rất dễ chán nản, bi quan với công việc, sức khoẻ giảm sút và điều đó ảnh hưởng tới năng suất lao động, ảnh hưởng tới kết quả làm việc và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của toàn công ty. Như vậy tiền lương có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng và thái độ của người lao động.