Quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán hàng nông sản mang tính thời vụ. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào, phong phú về chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá bán rẻ. Ngược lại, vào những lúc trái vụ hàng nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá bán thường cao. Chính vì vậy, đối với mối doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng nông sản, việc nghiên cứu thị trường (cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài) từ đó đưa ra những dự báo phục vụ cho quá trình thu mua dự trữ để đáp ứng những đơn đặt hàng vào lúc trái vụ là thực sự cần thiết. Nếu doanh nghiệp đáp ứng được đơn đặt hàng vào lúc trái vụ thì lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được so với lúc chính vụ sẽ lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra do đặc tính thu hoạch theo thời vụ nên hoạt động thu hoach hàng nông sản thường chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Với đặc tính này buộc doanh nghiệp phải có mạng lưới thu mua rộng khắp và phải chuẩn bị đủ vốn để thực hiện công tác thu mua có hiệu quả.
Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu, thời tiết. Nếu năm nào, khu vực nào có mưa thuận gió hoà, thì cây cối phát triển, cho năng suất cao, hàng nông sản sẽ tràn ngập trên thị trường và giá rẻ. Ngược lại, nếu năm nào, khu vực nào có khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên thì hàng nông sản sẽ khan hiếm và có chất lượng không cao, gía cao. Căn cứ vào đặc tính này các doanh nghiệp có thể tìm ra cơ hội kinh doanh cho mình. Chẳng hạn: Khu vực thị trường nào có các doanh nghiệp xuất khẩu cùng một mặt hàng với doanh nghiệp, là đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên thì khu vực ấy sẽ bị mất mùa hàng nông sản. Doanh nghiệp phải tận dụng ngay cơ hội này để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Chất lượng hàng nông sản sẽ tác động trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng. Chính vì vậy nó luôn là yếu tố đầu tiên được người tiêu dùng quan tâm. Tại các quốc gia phát triển nhập khẩu hàng nông sản, ngày càng có nhiều yêu cầu được đặt ra đối với hàng nhập khẩu về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh, an toàn toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất xứ.... Vì vậy để xâm nhập vào các thị trường khó tính này buộc doanh nghiệp phải đáp ứng được những yêu cầu mà họ đặt ra.
Đối với hàng nông sản, khâu bảo quản và chế biến rất quan trọng vì: Giá cả hàng nông sản xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào chất lượng. Chất lượng hàng nông sản không những phụ thuộc vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo quản và chế biến. Chính vì vậy, để nâng cao giá hàng nông sản xuất khẩu thì khâu bảo quản và chế biến phải được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Ngoài ra, với tính chất dN 77; ẩm, mốc, biến chất của hàng nông sản buộc các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải quan tâm tới điều khoản thời hạn giao hàng bởi điều khoản này sẽ quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng hàng nông sản khi có vấn đề phát sinh.
Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng nên chất lượng của cùng một mặt hàng cũng rất phong phú và đa dạng. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá về cùng một mặt hàng trên thị trường thế giới rất khác nhau. Chẳng hạn: Đối với mặt hàng gạo. Trên thị trường thế giới hiện nay có 6 loại gạo chính, mỗi loại gạo trên lại có thể phân chia thành hai hay nhiều nhóm. Mỗi nhóm thích ứng với từng thị trường riêng. Cụ thể: Thị trường Châu âu và quen tiêu dùng gạo ngon, hạt dài song thị trường Châu Á lại quen tiêu dùng gạo chất lượng trung bình, hạt dài. Thị trường Châu Phi quen tiêu dùng gạo hấp (luộc sơ) có chất lượng không cao song loại gạo này lại không được chấp nhận ở các thị trường còn lại. Thị trường Trung Đông quen tiêu dùng gạo thơm, thị trường Lào quen tiêu dùng gạo nếp...
Như vậy, có thể thấy với một loại nông sản nó có thể được ưa thích ở thị trường này song lại không được chấp nhận ở thị trường khác, giá có thể cao ở thị trường này song lại rất thấp ở thị trường khác. Vì vậy, trong kinh doanh hàng nông sản đối với một doanh nghiệp vấn đề xác định thị trường mục tiêu, thị trường tiềm năng đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp.
Hầu hết các mặt hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu ăn, uống của con người. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhu cầu hàng nông sản có phẩm cấp cao ngày càng tăng, nhu cầu hàng có phẩm cấp thấp ngày càng giảm xuống. Tuy nhiên hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người vẫn giữ vai trò quan trọng và không thể thiếu được đối với sự tồn tại của con người.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia xuất khẩu hàng nông sản. nhưng các nước đang phát triển là những nước xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu. Tuy nhiên hàng nông sản được xuất khẩu từ các nước này chủ yếu là các mặt hàng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế nên có gía trị xuất khẩu chưa cao.
Những nước không có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp là những nước chính nhập khẩu hàng nông sản. Đây có thể là các nước chậm phát triển, đang phát triển hoặc phát triển. Tuy nhiên nhu cầu của mỗi nước đối với hàng nông sản rất khác nhau. Thông thường các nước chậm phát triển và đang phát triển có nhu cầu nhập khẩu một số lượng lớn sản phẩm lương thực. Những sản phẩm này có yêu cầu về chất lượng không cao, giá rẻ và chỉ cần một sự thay đối nhỏ về giá cả sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn trong hành vi tiêu dùng của người dân tại các nước này. Ngược lại, tại các nước phát triển, người tiêu dùng chỉ chấp nhận sản phẩm có chất lượng cao mặc dù giá đắt.
Thị trường nhập khẩu hàng nông sản đã và đang bị thu hẹp lại. Hiện tại các nước phát triển có nhu cầu nhập khẩu hàng nông sản lớn nhất thế giới. Tuy nhiên các nước này đã và đang thực hiện một cách phổ biến và sâu rộng chế độ trợ cấp cho sản xuất nông nghiệp ở mức độ cao, bảo hộ thị trường nông sản nội địa dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: Năm 1995,1996 số tiền trợ giá cho nông sản xuất khẩu chỉ riêng của EU đã bằng 80% tổng số tiền trợ giá của tất cả các thành viên thuộc WTO. Cơ chế trợ cấp và trợ giá quá cao cho hàng nông sản ở các nước đang phát triển đã gây sự bóp méo giá cả hàng nông sản xuất khẩu, hạn chế tác động của quy luật thị trường và giảm đi ưu thế cạnh tranh hàng nông sản của các nước đang ph át triển vốn nhờ vào lao động rẻ. Cơ chế này không những làm tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản của các nước này mà còn hạn chế nhập khẩu nông sản của các nước này. Đây thực tế là một bất lợi lớn đối với sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu khẩu nông sản của các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam).
Trước sức ép của xu hướng tự do hoá thương mại buộc các nước phát triển phải nhất trí sự cần thiết giảm trợ giá cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu, mở rộng tự do hoá thị trường nông sản thế giới ở một cuộc họp tại Mỹ vào tháng 11 năm 1999. Điều này dường như dẫn tới một tương lai sáng sủa hơn cho sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, giờ đây sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển lại phải đối mặt với những rào chắn khác, đó là những quy định chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường sinh thái mà trong nhiều trường hợp người ta xem đó là hình thức bảo hộ trá hình nhằm ngăn cản hàng nông sản của các nước đang phát triển tràn vào thị trường các nước phát triển.
Các nước Châu Phi cũng có nhu cầu nông sản lớn nhưng khả năng thanh toán hạn hẹp. Trong khi đó Liên Hợp Quốc chỉ còn hỗ trợ nhập khẩu lương thực cho những nước có khủng hoảng chính trị.
Tình hình trên làm cho thị trường nông sản bị thu hẹp trong khi nguồn cung cấp nông sản khá dồi dào ở các nước Châu Á, Mỹ La Tinh, Tây Âu, Bắc Mỹ đã đẩy kinh doanh nông sản trên thị trường thế giới vào tình trạnh cạnh tranh quyết liệt khiến cho giá nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm, gây bất lợi cho những người sản xuất nông nghiệp và cho những nước xuất khẩu nông sản.
Theo như đã phân tích ở trên, thị trường nông sản thế giới đang bị thu hẹp, nguồn cung cấp hàng nông sản trên thị trường thế giới ngày càng dồi dào, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu nông sản nguyên liệu diễn ra ngày càng gay gắt buộc các nước đang phát triển phải xuất khẩu nông sản nguyên liệu cho các nước phát triển với giá thấp (các nước đang phát triển sẽ chế biến lại để xuất khẩu). Mặt khác hàng nông sản chế biến sâu của các nước đang phát triển lại phải cạnh tranh với hàng nông sản xuất khẩu cùng loại của các nước phát triển ở thế yếu hơn do hạn chế về công nghệ chế biến và khả năng đầu tư cho công nghệ chế biến nông sản xuất khẩu. Trong những điều kiện này, ưu thế cạnh tranh trên thị trường thế giới thuộc về các nước phát triển. Các nước này đã trở thành người chi phối và chiếm ưu thế trong quan hệ buôn bán nông sản trên thị trường.
Hiện tại thiệt thòi đang thuộc về các nước đang phát triển. Tuy nhiên theo đánh giá của tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO) với tốc độ phát triển như hiện nay (dân số thế giới tăng trưởng với tốc độ cao nhưng đất đai sử dụng cho nông nghiệp lại giảm cùng với quá trình công nghiệp hoá làm cho tốc độ tăng bình quân nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp lớn hơn tốc độ tăng bình quân sản lượng nông sản trên thị trường thế giới) thì đến năm 2010 cầu về hàng nông sản trên thị trường thế giới sẽ vượt xa cung. Điều này mở ra một cơ hội mới cho các nước đang phát triển xuất khẩu nông sản nói chung và Việt Nam nói riêng có thể đẩy mạnh xuất khẩu nông sản trong tương lai.
Việt Nam có tiềm năng khá lớn trong việc sản xuất hàng nông sản, nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, lâu dài, khắc phục những yếu kém trong khâu thu mua, chế bi& #7871;n thì Việt Nam có thể trở thành một trung tâm sản xuất hàng nông sản lớn. Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam thể hiện ở các điểm sau:
Việt Nam có diện tích 330.363 km2, tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta là 10 - 11,157 triệu ha với 8 triệu ha cây trồng hàng năm (đất trồng lúa khoảng 5,4 triệu ha, 2,3 triệu ha trồng cây lâu năm) hiện nay nước ta mới chỉ sử dụng 65% quỹ đất nông nghiệp. Trong đó 5,6 triệu ha cho cây trồng hàng năm, cây lâu năm là 0,86 triệu ha, 0,33 triệu ha đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước. Chúng ta có một diện tích lớn đất bị xói mòn, thoái hoá. Cụ thể: Vùng Bắc Bộ 5% tổng diện tích, Khu 4 cũ 35% tổng diện tích, Đồng Bằng Nam Bộ 34% tổng diện tích. Nếu chúng ta đầu tư cải tạo diện tích này sẽ rất thuận tiện cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như Cao su, hạt tiêu, cà phê.
Vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long có diện tích đất đưa vào sử dụng khá cao lần lượt là 93% và 82% tổng diện tích của cả vùng nhưng hệ số sử dụng đất mới chỉ đạt 1,5 lần do tình trạng thâm canh trong nông nghiệp còn lạc hậu với sự yếu kém về hệ thống thuỷ lợi. Do vậy chúng ta vẫn có thể khai thác được vùng Đồng Bằng màu mỡ này nếu biết đầu tư phát triển sản xuất theo chiều sâu. Đặc biệt những vùng đất còn hoang hoá ở các vùng khác cũng cần tích cực đầu tư tạo tiềm lực cho sản xuất nông nghiệp.
Đất Việt Nam có tầng dầy tơi xốp với chất dinh dưỡng cao kết hợp với sự đa dạng và phong phú về chủng loại (có 64 loại thuộc 14 nhóm) đây là một điều kiện rất tốt cho nhiều loại cây trồng phát triển.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa Châu Á. Khí hậu Việt Nam rất đa dạng, phân biệt rõ rệt từ miền Bắc vào miền Nam. Miền Bắc có mùa đông lạnh. Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long có khí hậu kiểu Nam Á. Đây là điều kiện khí hậu thuận lợi để đa dạng hoá các loại cây trồng. Ngoài ra tiềm năng nhiệt độ, độ ẩm và gió dồi dào phân bổ khá đồng đều trên phạm vi cả nước. Tiềm năng nhiệt của nước ta được xếp vào dạng giàu có với số giờ nắng cao, cường độ bức xạ lớn, độ ẩm tương đối trong năm lớn hơn 80%, lượng mưa khoảng 1800 - 2000 Mỹ/nămlà điều kiện lý tưởng cho nhiều loại cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Từ trước đến nay, một khối lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đường sắt, đường ống và đường hàng không thì phương thức vận tải này có nhiều thuận lợi hơn, thông dụng hơn và có mức cước phí rẻ hơn.
Trong thực tiễn chuyên chở bằng đường biển, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều thuận lợi nổi bật. Đường biển nước ta có hình chữ “S”, hệ thống cảng biển nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế trải dọc từ Bắc, Trung, Nam, có thể hành trình theo tất cả các chuyến đi Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung cận Đông, Châu Phi, Châu Mỹ. Một số cảng có khả năng bốc xếp hàng xuống tàu lớn, có hệ thống kho bảo quản tốt. Và gần đường hàng hải quốc tế.
Dân số nước ta là gần 80 triệu người, cơ cấu dân số trẻ với trên 80% sống bằng nghề nông. Đây là một lực lượng lao động hùng hậu cung cấp cho khu vực nông nghiệp. Mặc dù chất lượng lao động của Việt Nam còn thấp h& #417;n so với nhiều quốc gia khác trên thế giới nhưng con người Việt Nam với bản chất cần cù sáng tạo, ham học hỏi là tiềm năng lớn góp phần vào chất lượng lao động ngành nông nghiệp Việt Nam.
Với mục đích hoà nhập vào đời sống kinh tế thế giới và tiến tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa xuất khẩu, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực.
Tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và đã ký kết các văn kiện của hiệp hội như hiệp định khung về tăng cường hợp tác ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), gia nhập WTO. Ngoài ra Việt Nam còn tiến hành các cơ quan xúc tiến thương mại nhằm cung cấp cho các nhà sản xuất những thông tin đầy đủ về thị trường xuất khẩu như trung tâm xúc tiến thương mại OSAKA và ROMA.
Ngoài những điều kiện thuận lợi trên, với quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam, xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu nên việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản cũng được chú trọng và quan tâm. Việc ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước nước vào lực lượng sản xuất nông sản đã và đang tạo được động lực mới cho sự phát triển của ngành này. Việc đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng tạo được những bước đột phá.
Tóm lại, với những lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động kết hợp với đường lối, chủ trương đúng đắn của nhà nước hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong những năm tới chắc chắn sẽ đạt được những bước lớn góp phần quan trọng của sự phát triển đất nước.
Sau hơn 15 năm thực hiện theo đường lối đổi mới, ngành nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Trong sự phát triển chung ấy nổi bật nhất là sự phát triển trong sản xuất lương thực. Những năm qua sản xuất lương thực có tốc độ tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng trưởng bình quân là 5%/năm do vậy không những đáp ứng được đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo giữ vững an ninh lương thực quốc gia mà còn biến nước ta từ một nước nhập khẩu gạo thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới.
Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, việc đa dạng hoá cây trồng, mở rộng diện tích trồng trọt, thực hiện theo phương châm đất nào trồng cây ấy trong những năm qua đã mang lại hiệu quả kinh tế cao trong nông nghiệp. Chẳng hạn: Đối với cây cà phê năm 1986 diện tích trồng mới là 65,6 nghìn ha trong đó chỉ có 19 nghìn ha cho sản phẩm có sản lượng là 18,5 nghìn tấn thì các năm sau đó sản lượng tăng rất nhanh. Năm 1990 sản lượng mới chỉ đạt 92 nghìn tấn, năm 1995 sản lượng đạt 218 nghìn tấn thì đến năm 1997 sản lượng đã đạt 400 nghìn tấn; Đối với cây cây cao su. Năm 1986 sản lượng mới chỉ đạt 50 ngìn tấn thì năm 1998 sản lượng đã là 190 nghìn tấn, tăng gấp 3,8 lần so với năm 1986; Đối với cây chè năm 1997 diện tích đạt 78,6 nghìn ha cho sản lượng 47000 tấn chè búp khô thì năm 1998 sau khi thanh lý 7982 ha, trồng mới 26000 ha thì diện tích chè còn khoảng 73000 ha, cho sản lượng trên 50.000 tấn chè búp khô.
Trình độ thâm canh, ứng dụng khoa học vào trong sản xuất nông nghiệp đã được cải thiện do vậy năng suất cây trồng đã tăng đáng kể. Rõ ràng nhất là đối với cây lúa. Năm 1986 năng suất lúa mới chỉ đạt 28,1 tạ/ha thì năm 1998 năng suất đã là 39,6 tạ/ha, cao hơn năng suất trung bình 3 756c 8,05 tạ/ha của thế giới và 23tạ/ha của Thái Lan. Năng suất cao su của Việt Nam năm 1998 đạt 1tấn/ha cao hơn mức 916 tạ/ha của thế giới, gấp 1,3 lần năng suất của Indonexia. Năng suất cà phê của Việt Nam cao gấp 1,5 lần của Brasin, gấp 1,7 lần Colombia và gấp 2,17 lần Indonexia.
Tuy đã có những tiến bộ như đã nêu ở trên song ngành sản xuất nông nghiệp ở nước ta vẫn còn không ít hạn chế. Điển hình là: Chất lượng hàng nông sản của ta chưa cao, hiện nay còn nhiều vùng, nhiều địa phương nông dân còn chạy theo năng suất, số lượng, chưa chú ý đến chất lượng sản phẩm. Việc mở rộng quá mức diên tích trồng lúa vụ 3 ở Đông Bằng Sông Cửu Long, cũng như sử dụng lúa lai ở Trung Quốc cho năng suất cao nhưng chất lượng thấp ở các tỉnh phía Bắc, sử dụng quá nhiều phân bón hoá học và thuốc kích thích tăng trưởng trong sản xuất cũng là một trong những lý do làm cho chất lượng hàng nông sản của Việt Nam chưa cao.
Chế biến đang là một lĩnh vực còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Trong thời gian qua, hoạt động chế biến hàng nông sản phục vụ cho xuất khẩu chủ yếu được thực hiện bởi những người sản xuất với phương tiện chế biến thô sơ lạc hậu, nên có năng suất thấp. Hoạt động này chưa được thực hiện một cách hợp lý, đồng bộ, chưa được quan tâm một cách đúng mức nên sản phẩm tạo ra thường có phẩm cấp thấp do tạp chất nhiều, ngoại hình không hấp dẫn, chất lượng không cao. Những yếu kém trong khâu chế biến được xem là nổi cộm nhất hiện nay và là một trong những nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
Có thể nói rằng từ năm 1990 trở lại đây, hơn 10 thực hiện chủ trương phát triển xuất khẩu, ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng nông sản nói riêng đã có những chuyển biến lớn. Điều đó được thể hiện ở một số nét sau:
Hoạt động xuất khẩu nông sản có tốc độ tăng trưởng khá nhanh và ổn định. Đặc biệt là ở các mặt hàng Gạo, cà phê, cao su. Sản lượng xuất khẩu của các mặt hàng này được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 1995 - 2000
ĐV: 1000 tấn
Nguồn: Vụ Thương Mại - Dịch vụ, Bộ KH&ĐT, 2000.
Hiện nay các mặt hàng này đã vươn lên trở thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. So với tốc độ phát triển bình quân trên thế giới thì ba mặt hàng trên của Việt Nam có tốc độ phát triển cao và có nhiều mặt hàng đã vươn lên đứng vị trí cao trong số các nước tham gia xuất khẩu trên thị trường thế giới. Chẳng hạn: từ năm 1997, Việt Nam đã vươn lên vượt Mỹ về xuất khẩu gạo, chỉ đứng sau Thái Lan. Cà Phê Việt Nam hiện nay đang vượt Indonexia về số lượng xuất khẩu, vươn lên đứng vị trí số 3 trong số các nước xuất khẩu, chỉ đứng sau Brasin và Colombia. Cao su cũng đứng vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng đầu của thế giới.
Cùng với sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua cũng tăng lên rõ rệt. Tỷ trọng gạo 25% tấm giảm từ 60% như trước đây xuống còn 30% như hiện nay, gạo chất lượng cao 5% tấm tăng từ 20% lên 50-60% trong thời gian tương ứng, cà phê loại một tăng từ 15% năm 1994 lên 72% năm 1998. Chất lượng hàng xuất khẩu tăng lên làm cho gía hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua cũng tăng. Chênh lệch giữa giá gạo Việt Nam với Thái Lan giảm từ 50 đến 60 USD/tấn năm 1995 xuống còn xuống còn 10 đến 15 USD/tấn năm 1998, chênh lệch giá với cà phê Braxin từ 600 USD/tấn năm 1995 xuống còn 150 USD/tấn năm 1998.
Trong những năm qua số lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng, chất lượng hàng xuất khẩu ngày càng được cải thiện tuy nhiên do chịu sự tác động lớn của tình hình cung, cầu hàng nôngsản trên thị trường thế giới nên kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam tăng, giảm không ổn định.
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu giai đoạn 1995 - 2000.
ĐV: triệu USD
Nguồn: Vụ Thương Mại - Dịch vụ, Bộ KH&ĐT.
Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam ngày càng mở rộng. Nếu những năm trước đây hàng nông sản của Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô và các nước Đông Âu thì nay hàng nông sản của Việt Nam đã có mặt ở khắp các châu lục. Hàng nông sản của Việt Nam đã gây được sự chú ý và đã bắt đầu thâm nhập vào những thị trường khó tính như Anh, Thuỵ Sĩ, Nhật Bản, Pháp, Hồng Kông...và những thị trường xa lạ như Mỹ la tinh và Châu Phi. Ngoài ra một số mặt hàng nông sản của Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác, liên doanh, liên kết được với một số cơ sở chế biến nông sản nổi tiếng trên thế giới. VD: Cà phê đã xây dựng được mối quan hệ với 60 khách hàng thuộc 40 quốc gia, trong đó có sự hiện diện của các hãng cà phê nổi tiếng như Nestle (Mỹ), Newman (Đức), ED và Fman (Anh), Vocate (Thuỵ Sĩ), Adirat (Pháp), Itochu (Nhật Bản); cao su đã xây dựng thành công mối quan hệ truyền thống với 20 khách hàng từ các quốc gia Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Trên đây là những thành tựu mà ngành nông sản xuất khẩu Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua. Tuy nhiên ngành vần còn không ít những tồn tại trong quá trình hoạt động của mình. Những tồn tại gồm:
Tuy tốc độ tăng trưởng ở một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tương đối cao nhưng so với tiềm năng phát triển của ngành và so với kết qủa xuất khẩu hàng nông sản của một số quốc gia khác trên thế giới thì kết quả đạt được như trên còn quá khiêm tốn. Chẳng hạn: Năm 1998. Đối với mặt hàng Cà phê lượng xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ bằng 38,35% lượng xuất khẩu của Braxin và bằng 60% lượng xuất khẩu của Colombia; Đối với Cao su lượng xuất khẩu mới chỉ bằng 12% của Indonexia và bằng 10,75% lượng xuất khẩu của Thái Lan.
Nam nhưng số lượng thị trường nhập khẩu truyền thống chỉ khoảng 10 quốc gia trong đó hầu hết là các quốc gia Châu Á. Đa số thị trường nhập khẩu hàng nông sản Việt Nam là những thị trường nhập khẩu với khối lượng nhỏ, không ổn định.
Trên thị trường thế giới hàng nông sản Việt Nam chủ yếu tồn tại ở dạng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế, bao bì, mẫu mã lạc hậu, thiếu sức hấp dẫn nên gía hàng nông sản Việt Nam không cao, hàng nông sản Việt Nam còn phải chấp nhận lấy mức giá trung bình trên thị trường thế giới làm tiêu chuẩn và mức phấn đấu của mình. Thêm và đó, hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam rất yếu nên khả năng thâm nhập vào những thị trường chính ngạch (thị trường đòi hỏi chất lượng cao, tiêu chuẩn vệ sinh nghiêm ngặt) của hàng nông sản của Việt Nam rất thấp, hàng Việt Nam chưa có chỗ đứng trong siêu thị của các thị trường này. Chình vì vậy, trong thời gian qua hàng nông sản Việt Nam chủ yếu phải xuất khẩu qua môi giới trung gian, tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp rất thấp.
Hoạt động thu thập thông tin, tìm kiếm thị trường còn bộc lộ nhiều yếu kém. Thông tin thu thập được chưa cập nhật, biến động giá cả, tình hình cung, cầu trên thị trường chưa nắm được nên lúc giá trên thị trường cao thì lại không có hàng xuất khẩu còn khi giá thị trường xuống thấp thì hàng lại dư thừa dẫn đến việc bị hách hàng ép giá, phải xuất khẩu với giá thấp, hiệu quả xuất khẩu không cao.
Qua phân tích tình hình sản xuất, chế biến, xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam thời gian qua ta thấy những thành tựu mà ngành đạt được trong thời gian qua thật đáng khích lệ ... Tuy nhiên vẫn còn không ít các vấn đề tồn tại cần được giải quyết. Chính vì vậy, trong thời gian tới để tiếp tục phát triển Việt Nam phải phát huy những thành tựu đã đạt được và tìm ra giải pháp cho những tồn tại của mình.
Trong hơn 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội, nông nghiệp nước ta đã đóng vai trò quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới, là nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển trong những năm tiếp theo. Vai trò của hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của nước ta trong những năm qua được thể hiện ở một số điểm sau:
Hoạt động sản xuất nông sản góp phần quan trọng vào việc đảm bảo nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đóng góp phần đáng kể vào việc tích luỹ vốn cho quá trình công nghiệp hoá đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt nhập siêu, giảm bớt căng thẳng trong cán cân thanh toán cũng như nhu cầu ngoại tệ.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đã tác động trực tiếp đến đời sống của người nông dân trên nhiều phương diện. Khi thực hiện xuất khẩu, một lượng hàng nông sản dư thừa trên thị trường nội địa sẽ được giải quyết, lập lại quan hệ cung cầu ở mức giá cao hơn, nông dân không những bán được nông sản mà còn bán được giá. Hoạt động này làm cho nông dân có thu nhập cao hơn từ đó làm tăng sức mua của dân cư trong thị trường nông thôn rộng lớn với 80% dân số. Đây chính là một động lực thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản sẽ khai thác tối đa lợi thế của Việt Nam về điều kiện khí hậu, tài nguyên đất nước, nguồn nhân lực... Hơn nữa hiện nay Đảng và nhà nước ta đang thực hiện xây dựng các mô hình kinh tế mới như kinh tế trang trại, cao su tiểu điền, tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới ... thì hoạt động xuất khẩu nông sản càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, hoạt động này sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy các mô hình kinh tế mới phát triển.