Tài liệu: Việc nghiên cứu bão ở Việt Nam như thế nào?

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

1.Thời kì trước năm 1980\r\nTrong thời kì này các công trình về bão chủ yếu là mô tả, thống kê trên cơ sở khí hậu, hình thế sinôp hoặc phân tích chì tiết cho từng cơn bão cụ thể ảnh hưởng đến Việt
Việc nghiên cứu bão ở Việt Nam như thế nào?

Nội dung

Việc nghiên cứu bão ở Việt Nam như thế nào?

1.Thời kì trước năm 1980

Trong thời kì này các công trình về bão chủ yếu là mô tả, thống kê trên cơ sở khí hậu, hình thế sinôp hoặc phân tích chì tiết cho từng cơn bão cụ thể ảnh hưởng đến Việt Nam cũng như nhận xét các yếu tố khí tượng do bão: mưa lớn, gió mạnh, nước dâng và sóng gió...

Các công trình đầu tiên được xuất bản chính thức ở Việt Nam về khí hậu Đông Dương nói chung và xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) trên Biển Đông nói riêng là thuộc về các nhà khí hậu người Pháp. Các công trình của Bruzon E; Carton P; Romer đã đề cập đến vấn đề này.

Tỉ số bão hình thành trên Biển Đông so với bão chung trên thế giới:

* Mưa bão

Về mưa bão các tác giả nhận xét rằng: ''Không nhất thiết những cơn bão ''sâu'' nhất là những cơn bão đem lại lượng mưa nhiều nhất. Những cơn bão đổ bộ vào bắc Trung Bộ cho mưa lớn hơn những cơn bão đổ bộ vào Bắc Bộ. Điều này có liên quan trước hết với đặc điểm địa hình của Trung Bộ - dãy Trường Sơn nằm song song với bờ biển có tác dụng chắn gió, hơn nữa những cơn bão vào Trung Bộ thường là những cơn bão vào thời kì cuối mùa bão (các tháng 9, 10, 11) kết hợp với không khí lạnh cực đới làm tăng cường quá trình hình mưa lớn”.

Nguyễn Vũ Thi được xem như tác giả công trình đầu tiên với một số kết luận đặc trưng khí hậu của bão của các nhà khí tượng Việt Nam. Tác giả đưa ra các nhận xét sau: ''Trung bình năng có khoảng 3 cơn bão đổ bộ vào miền bắc nước ta (từ Móng Cái đến Cửa Tùng); Năm nhiều bão nhất 6 cơn (1951) năm không có cơn bão nào (1940); Mùa bão ở miền bắc từ tháng 7 đến tháng 10, hai tháng nhiều bão nhất là 8 và 9 sau đó là tháng 7, năm bão sớm - xuất hiện vào tháng 5, 6; năm bão muộn tháng 11 báo đổ bộ vào miền Bắc chia làm 4 khu vực: Móng Cái - Hải Phòng (30%); Thái Bình - Ninh Bình (19%), Thanh Hoá - Nghệ An (27%); Hà Tĩnh - Vĩnh Linh (24%). Thống kế chi tiết bão đổ bộ vào từng khu vực theo tháng; Số cơn bão mạnh từ cấp 9 trở lên chiếm 50% và tần suất đối với 4 khu vực tương ứng là 40, 18, 17 và 5%.

Đỗ Kính nhận xét: ''Vị trí xuất phát của bão đổ bộ vào nước ta hoặc ảnh hưởng có hai nơi: một ở tây Thái Bình Dương vào khoảng 10-25oN, 125 - 145oE, một ở Biển Đông - khoảng 5 -100N; 110 - 1200E; Thời kì bão nhiều nhất là từ tháng 7 đến tháng 10 và được chia ra từ tháng 6 đến tháng 8 bão thường có hướng đi về phía bắc vịnh Bắc Bộ, các tháng 9 - 10 vàn khu Trung Bộ; trung bình mỗi năm có 3 - 4 cơn bão đổ bộ vào nước ta, có nằm nhiều bão nhất là tháng 8, sau là tháng 9; thời gian bão đổ bộ vào miền bắc chuyển dịch dần từ bắc vào nam; tần suất bão vào 4 khu vực: Móng Cái – Hải Phòng (30%), Thái Bình - Ninh Bình (19%), Thanh Hoá - Nghệ An (27%), Hà Tĩnh - Vĩnh Linh (24%); vùng ảnh hưởng của bão tới 500 – 600km''.

Nguyễn Văn Quý khi phân tích những vết đen mặt trời và số cơn bão trên Biển Đông có nhận xét: “Những năm có nhiều bão trên Biển Đông có thể xảy ra vào thời kì mặt trời hoạt động mạnh cũng như thời kì mặt trời hoạt động yếu. Những năm mặt trời hoạt động mạnh, trên Biển Đông có khá nhiều bão, còn những năm yếu - có khi nhiều, có khi ít”.

Nguyễn Xiên, Phan Tất Đắc có các nhận xét và kết luận chủ yếu sau: ''Thống kê bão Biển Đông 1954 - 1964 thì tháng nhiều bão nhất lần lượt là: tháng 9 (24 cơn); tháng 8 (20 cơn), tháng 10 (16 cơn), tháng 7 (13 cơn) năm năm 1964 có 18 cơn bão ở Biển Đông trong đó 11 cơn hình thành từ Thái Bình Dương đi vào Biển Đông, còn 7 cơn hình thành ngay ở trên Biển Đông; năm 1964 bão xuất hiện nhiều nhất lần lượt theo các tháng: tháng 9 (6 cơn), tháng l0 (3 cơn), tháng 11 (4 cơn), tháng 8 (2 cơn). Tốc độ di chuyển của những cơn báo vào Biển Đông lớn, còn những cơn bão hình thành ngay trên Biển Đông nhỏ hơn. Khi bão chuyển hướng, tốc độ giảm đi rõ rệt; khi áp thấp nhất ghi được trong cơn bão Winnie (7/64) là 967,4mb, giá trị cực đại của biến  áp trong thời gian nửa giờ, 1 và 3 giờ đối với báo mạnh tương ứng là 6 - 7,l0 và 20mb''.

Nguyễn Xiên - Chủ biên, Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc ở mục bão đã nêu ra kết luận: ''Bão hay là một trong những nhiễu động sâu sắc nhất trong cơ chế gió.

Mùa mùa hạ, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với khí hậu miền bắc Việt Nam - đó là vùng áp thấp gần tròn, tương đối nhỏ (bán kính vào khoảng 200 – 300km). Những đường đẳng áp đồng tâm rất xít nhau gây nên gió mạnh trên 30m/s (trên cấp 11). Trong vùng bão không có frôn; theo số liệu từ 1911 - 1965, trên Biển Đông trung bình năm có 9,6 cơn bão hoạt động. Năm nhiều bão nhất 18 cơn (1964), năm ít nhất - 3 cơn (1925); Những cơn bão hoạt động trên Biển Đông một phần hình thành ở phía đông Philippin (60%), một phần hình thành ngay trên Biển Đông (40%); tần sô bão Biển Đông lớn nhất vào các tháng giữa và cuối mùa hạ là thời kì dải hội tụ nhiệt đới hoạt động mạnh ở Bán Cầu Bắc; tháng có tần suất bão cực đại ở Biển Đông là tháng 9 (1,9 cơn), sau đó là tháng 8 và 10 (1,5 cơn); ở khu vực Biển Đông ít khi thấy những dạng quỹ dạo parabol (3%) thường vào đầu mùa bão, về căn bản bão di chuyển theo đới tín phong. Vị trí trung bình của quỹ đạo bão trên Biển Đông có sự xê dịch theo mùa rõ rệt, phụ thuộc chủ yếu vào vị trí và cường độ của áp cao phó nhiệt đới. Các tháng 5, 6 thời kì áp cao chưa phát triển mạnh và chưa lấn sâu về phía tây, đường đi của bão hướng vào bờ biển đông bắc Bắc Bộ, tháng 8 - vào bờ biển đông bắc và đông bằng Bắc Bộ xấp xỉ các vĩ độ 20 - 21oN, tháng 9 đường trung bình chuyển vào phía nam khá đột ngột - xấp xỉ 18oN, tháng 10 - dịch vào phía nam, tháng 11 - 12 xấp xỉ 12 - 13oN. Theo chuỗi số liệu 55 năm nêu trên thì hàng năm có 2,5 cơn bão đổ bộ vào miền bắc Việt Nam. Năm nhiều nhất 6 cơn (1964), năm ít nhất không có cơn nào (1914, 1945), nếu kể cả những cơn bão ảnh hưởng trực tiếp (tuy không đổ bộ vào đất liền Việt Nam) thì trung bình năm bão ảnh hưởng đến miền bắc nước ta là 4,1 cơn. Tháng có bão đổ bộ nhiều nhất vào bờ biển miền bắc là tháng 9 (0,73 cơn), rồi đến tháng 8 (0,62 cơn), tháng 7 (0,47 cơn). Về hậu quả thời tiết và khí hậu do bão đổ bộ vào miên bắc các tác giả đã nêu: Sau khi đổ bộ vào đất liền, bão thường dầy lên nhanh chóng ngay cả trên vùng đồng bằng Bắc Bộ, trung tâm bão ít khi thâm nhập vào sâu quá 100km. Tuy nhiên ở vùng duyên hải khi vừa đổ bộ vẫn giữ cường độ mạnh. Theo số 1956 - 1964 trong số các cơn bão đổ bộ có 35% gió mạnh ở vùng trung tâm từ 30m/s trở lên, 3/% - có gió từ 20 - 30m/s, số còn lại dưới 35% - gió dưới 20m/s; Phạm vi gió bão vùng ven biển thường bao quát một vùng đường kính 200 - 300km. Ở phần tiếp giáp với cao áp cận nhiệt đới hoặc có ảnh hưởng của không khí lạnh từ phía bắc tràn xuống, phạm vi gió mạnh có thể đến 300 - 400km về phía bắc kể từ tâm bão; lượng mưa cực đại trong 24h có tần suất cao nhất ở cấp 200 - 300mm (45%); trên 300mm (20%) còn lại ở các cấp 100 - 150 và 150 – 200 tương ứng là 15 và 20%. Toàn đợt mưa thường kéo dài 2 - 4 ngày, tập trung vào 1- 2 ngày. Lượng mưa trong vùng bão đạt đến 200 - 400mm, có trường hợp tới 500 - 600mm và hơn nữa. Ở Phủ Liễn với cơn bão tháng 9 năng 1927, lượng mưa bão với các cấp 300 - 400mm (40%), trên 400mm (23%), 200 – 300mm (25%) và 100 - 150mm (12%). Nói chung những cơn bão đổ bộ vào bắc Trung Bộ cho mưa lớn hơn so với những cơn bão vào Bắc Bộ; Tỉ trọng mưa bão với tổng lượng mưa trong mùa mưa (từ tháng 5 - 10) chiếm khoảng 20 - 40%, cao nhất từ Nghệ An trở vào đến Vĩnh Linh tới 40 - 45% hoặc hơn nữa. Trong các tháng nhiều báo (8, 9, l0) lượng mưa bão chiếm gần chủ yếu trong lượng mưa tổng, tỉ trọng đạt đến trên 50% có nơi 60% - 80%; Mưa bão là nguyên nhân quan trọng gây nạn úng thuỷ và lũ lụt ở miền bắc và gây ra thiệt hại lớn hơn, rộng hơn so với gió bão''.

Nguyễn Ngọc Thái nhận xét: Tổng số bão đã trực tiếp ảnh hưởng đến bờ biển Việt Nam trung bình mỗi năm khoảng 4 - 5 cơn, trong đó có 2 năm không có bão ảnh hưởng (1885,1976). Các năm 1909, 1910, 1959, 1964 và 1973 có trên l0 cơn, riêng năm 1910 tới 13 cơn. Mùa bão là từ tháng 7 đến tháng 9, số cơn bão đổ bộ vào trong thời gian này chiếm 90% của cả năm.

Tháng nhiều bão nhất là tháng 9, sau đến tháng 8. Bờ biển nước ta được chia ra làm 5 khu vực bão đổ bộ: Móng Cái - Ninh Bình 31%;  Thanh Hoá - Hà Tĩnh 19%; Quảng Bình - Thừa Thiên Huế 18%; Đà Nẵng - Quảng Ngãi 24%; Đào Cả trở vào 8%. Tác giả còn phân chia tần suất bão đổ bộ vào các khu vực theo tháng''.

2. Năm 1980.

Trần Đình Bá, sử dụng ảnh mây vệ tinh để xác định cường độ, vị trí và hướng đi của bão.

3. Thời kì từ 1981 - 2000

Mô tả, đặc trưng thống kê khí hậu, hình thế sinốp của bão.

Nguyễn Văn Khánh đã phân tích và thống kê theo số liệu 1954 – 1980 về: hoạt động của bão ở Biển Đông và ATNĐ ảnh hưởng đến Việt Nam qua các tháng; bão đổ bộ vào nước ta. Các kết luận chính của tác giả: ''Biển Đông là một trong những khu vực nhiều bão nhất, hàng năm có tới 12,4 cơn bão và ATNĐ. Năm nhiều nhất có tới 18 cơn. Thời gian hoạt động chủ yếu của bão từ tháng 5 đến tháng 12; Bão và ATNĐ hoạt động ở Biển Đông hàng năm có tới 2/3 số cơn ảnh hưởng đến Việt Nam, trung bình có tới 7,5 cơn, trong đỏ đổ bộ vào đất liền 5,4 cơn. Mùa bão được xem từ tháng 6 đến tháng 11''.

Nguyễn Đăng Khoa có những nhận xét sau: ''Theo số liệu 1884 - 1990, bão ở Bắc Bộ chiếm 30% số bão trong cả nước và trung bình năm là 1,4 cơn. Mùa bão ở Bắc Bộ là từ tháng 6 đến tháng 10 và sớm hơn so với nơi khác. Từ 1971 – 1980 bão xảy ra nhiều hơn. Bão có xu thế tăng theo từng thập kỉ.

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1792-02-633470613689375000/Moi-tuong-tac-giua-khi-quyen-va-dai-duong...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận