Thị trường thừa 26 triệu tấn
Hiệp hội Xi măng Việt Nam công bố, tính đến thời điểm này, tổng công suất ngành xi măng lên tới 86 triệu tấn, trong khi khả năng hấp thụ của cả nước trong cả năm dự kiến chỉ khoảng 60 triệu tấn, 26 triệu tấn còn lại phải tiêu thụ qua xuất khẩu.
Sở hữu 8 doanh nghiệp chuyên sản xuất xi măng, cộng thêm 2 đơn vị mới nhận về là Xi măng Hạ Long và Xi măng Sông Thao, Tổng công ty Xi măng Việt Nam (Vicem) đang oằn mình lo tiêu thụ khi nguồn cung hiện nay đang dư lớn.
Tính đến hết tháng 5/2017, lượng xi măng và clinker tồn kho của Vicem vào khoảng 1,4 triệu tấn, tương đương hơn 30 ngày sản xuất.
|
Ngành xi măng đang đau đầu lo tiêu thụ bởi dư thừa công suất |
Chủ tịch Hội đồng thành viên Vicem Lương Quang Khải cho biết, đối với Vicem, điều kiện tốt nhất cho tồn kho là 20 ngày sản xuất, tương đương 800.000 đến 1 triệu tấn, vừa đủ để dự phòng cho sự cố máy móc.
Dù Vicem có tiếng trên thị trường với thương hiệu và thị phần chiếm gần 35% nhưng lượng clinker, xi măng tồn trong kho của Vicem đã cho thấy một bức tranh khá tối màu.
Từ cuối năm 2016 đến nay, thị trường xi măng được bổ sung thêm khoảng 6-7 triệu tấn của các nhà máy mới đi vào hoạt động như Xi măng Sông Lam (Nghệ An), Xi măng Long Sơn (Thanh Hóa)… khiến việc tiêu thụ nội địa với tất cả các nhà sản xuất xi măng đều chật vật.
Ông Khải cho biết thêm: "Trong năm 2017, nhu cầu tiêu dùng xi măng nội địa dự kiến chỉ tăng 7-8%, nhưng trong bối cảnh có thêm vài triệu tấn từ các nhà máy mới, mà xi măng đã sản xuất ra kiểu gì cũng phải bán, dù hạ giá, để doanh nghiệp còn quay vòng vốn, đã khiến thị trường xáo trộn không nhỏ".
Trong 10 doanh nghiệp thành viên của Vicem, các doanh nghiệp gần khu vực miền Trung tiêu thụ vất vả nhất như Vicem Bỉm Sơn, Vicem Hoàng Mai do việc bổ sung nguồn cung từ cuối năm 2016 đều tập trung tại khu vực này.
Đại diện Vicem cho biết, tại miền Trung, tiêu thụ xi măng tăng không đáng kể. Điển hình như Nghệ An tiêu thụ chỉ khoảng 1,5-2 triệu tấn, nhưng riêng 1 nhà máy mới đưa vào hoạt động tại đây đã có công suất 4 triệu tấn, chưa kể các nhà máy xi măng đã hoạt động từ trước.
Xuất khẩu tăng nhưng giá giảm
Lượng xi măng dư thừa lớn được tiêu thụ qua con đường xuất khẩu. Ngành xi măng gặp thuận lợi khi tình hình xuất khẩu từ đầu năm đến nay duy trì được mức tăng trưởng dương về sản lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2016, nhưng mức giá xuất khẩu hiện rớt mạnh so với thời điểm năm 2014.
Số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, trong tháng 5/2017, xuất khẩu xi măng và clinker đã tăng 16,6% về lượng và tăng 10,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2016. Trong 5 tháng đầu năm 2017, lượng xuất khẩu xi măng và clinker của Việt Nam đạt 8,2 triệu tấn, trị giá 288 triệu USD.
Theo ông Nguyễn Tiến Đạt, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Xi măng The Vissai, đơn vị có nhà máy Xi măng Sông Lam (giai đoạn I mới hoạt động có công suất 4 triệu tấn), giá xuất khẩu xi măng, clinker đang giảm mạnh. So với năm 2014, hiện giá xuất khẩu xi măng giảm còn 45-50 USD/tấn so với mức 55-60 USD/tấn, FOB clinker ở quanh mức 29-30 USD/tấn, giảm 25%.
Năm 2014, giá xuất khẩu xi măng trên dưới 60 USD/tấn, FOB clinker từ 38-40 USD/tấn đã bắt đầu giảm từ năm 2015 đến nay.
Xuất khẩu xi măng của Việt Nam tăng trưởng liên tục từ năm 2010 đến năm 2014, với đỉnh cao năm 2014 xấp xỉ 20 triệu tấn xi măng và clinker, doanh thu đạt gần 1 tỷ USD, đứng nhất nhì trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, trong 2 năm 2015-2016, sản lượng xuất khẩu xi măng chỉ còn 16,2 triệu tấn và 14,7 triệu tấn.
Trong 5 tháng đầu năm 2017, dù sản lượng và giá xuất khẩu đã nhích lên, nhưng chưa thể nói trước tình hình từ nay đến hết năm, do cạnh tranh xuất khẩu với Trung Quốc, Thái Lan, Iran, Pakistan vẫn tiềm ẩn nhiều diễn biến khó lường. Hiệp hội Xi măng Việt Nam cho hay, giá xuất khẩu clinker, xi măng của Việt Nam với các nước trong khu vực chỉ chênh nhau 0,5-1 USD/tấn.
Đáng nói, từ khi Nghị định 122/2016/NĐ-CP và Nghị định 100/2016/NĐ-CP được áp dụng, mỗi tấn clinker và xi măng xuất khẩu của Việt Nam gánh thêm chi phí thuế từ 4-7 USD/tấn. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu đang phải oằn mình bù lỗ để giữ thị trường và uy tín với bạn hàng, đặc biệt là với những thị trường và bạn hàng có hợp đồng dài hạn.