Đường Thiệu Nghĩa không trả lời, đem túi nước buộc lên bên yên ngựa, rồi xoay người lại lẳng lặng nhìn A Mạch lúc, hỏi: “Ngươi muốn đi cứu Dự Châu sao?”
A Mạch cúi đầu cân nhắc một lát, rồi nhìn thẳng Đường Thiệu Nghĩa, ánh mắt thản nhiên đáp: “Về cả công lẫn tư, ta đều không muốn đi Dự Châu.”
Thần sắc Đường Thiệu Nghĩa có chút biến đổi, trong mắt không dấu được sự thất vọng, yên lặng giữ nguyên tầm mắt, lại nghe A Mạch thấp giọng nói: “Nhưng Từ cô nương cùng tiểu Lưu Minh còn ở lại trong thành phủ.”
Sau khi Từ Tú Nhi và Đường Thiệu Nghĩa cùng nhau chạy trốn tới Dự Châu, liền được an bài ở lại bên trong thành thủ để chiếu cố tiểu Lưu Minh. Khi A Mạch đến Dự Châu, khi đi theo Đường Thiệu Nghĩa có gặp qua nàng ấy một lần, ba người gặp lại nhau đều thổn thức không thôi. Về sau, A Mạch tuy rằng theo Thương Dịch Chi lưu tại thành phủ, nhưng thật ra không thế nào nhìn thấy Từ Tú Nhi. Nhất là từ khi Từ Tú Nhi theo phu nhân của Thạch Đạt Xuân vào bên trong viện, trong ngoài có khác biệt, A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa không thể tùy tiện đi vào. Hơn nữa, A Mạch vốn không nguyện ý muốn gặp Từ Tú Nhi, nguyên nhân là do Từ Tú Nhi mỗi lần thấy nàng đều thập phần mất tự nhiên, như là thầm yêu mà vụng trộm ngắm nàng, mỗi khi nàng đưa tầm mắt nhìn qua, Từ Tú Nhi dường như lại chột dạ vội tránh đi.
A Mạch cười khổ một tiếng, nói tiếp: “Nàng gọi ta một tiếng nhị ca, chúng ta ba người cùng nhau trốn khỏi thành Hán Bảo, đâu thể nào bỏ mặc, cho nên vẫn là nên đi, cho dù cứu không được nàng ấy, ít nhất cũng coi như đã tận lực, hết thảy mặc cho số phận vậy!”
Xa xa, quân đội đã nghỉ ngơi xong, quan quân bắt đầu hò hét lính tráng xếp thành hàng. A Mạch liếc mắt nhìn đội ngũ, nói: “Đại ca, ta phải về trước.”
Đường Thiệu Nghĩa lại trầm mặc không nói gì khiến A Mạch không hiểu lắm, thấy ở đằng xa, đội ngũ của mình đã xếp thành hàng xong xuôi, liền có chút sốt ruột, lại nói một tiếng: “Đại ca? Nếu không có gì phân phó, ta đi trước nhé.”
A Mạch nói xong liền chạy đi, Đường Thiệu Nghĩa lúc này mới bừng tỉnh, gọi A Mạch lại, lúc này mới nói:“A Mạch, ta còn có nhiệm vụ khác, sau này sẽ không tiện gặp, ngươi chiếu cố bản thân cho tốt nhé.”
A Mạch mặc dù cảm thấy nghi hoặc, không biết nhiệm vụ mà Đường Thiệu Nghĩa nói là nhiệm vụ gì, nhưng cũng không có thời gian để hỏi lại, chỉ đành gật gật đầu, liếc mắt thấy đội ngũ đằng xa đã bắt đầu chậm rãi chuyển động.
Đường Thiệu Nghĩa giống như vẫn còn có chuyện chưa nói xong, lại dặn tiếp: “Nếu muốn bọn chúng nể phục, chỉ thân thiện thôi chưa đủ, ân uy đều phải xem trọng, phải có nguyên tắc của mình thì mới quản tốt được đám lính dày dạn đó được.”
A Mạch trong lòng nghi hoặc càng sâu, Đường Thiệu Nghĩa khi làm việc đều lưu loát, rõ ràng, rất ít khi thấy anh ta lại giống bà mẹ già như vậy.
Thần sắc Đường Thiệu Nghĩa có chút phức tạp, nhìn A Mạch, vẫn còn muốn nói tiếp, nhưng thấy A Mạch bồn chồn đứng không yên, rốt cục mỉm cười lắc lắc đầu, phất tay nói: “Được rồi, mau về đi!”
A Mạch cuối cùng cũng đợi được anh ta nói những này, không kịp trả lời, vội vàng hướng về phía đội ngũ chạy tới. Về đến nơi đã bị chậm một chút, Lục Cương lập tức hung hăng trừng mắt nhìn nàng một cái, không thèm nói câu nào. A Mạch nhân cơ hội chạy về ngũ của mình, Vương Thất trả lại binh khí cho nàng, thấy nàng thở hồng hộc chạy về, có chút lòng tốt hỏi: “Ngũ trưởng, chuyện gì vậy?”
A Mạch cầm trường thương trong tay anh ta, thản nhiên nhìn anh ta một cái, không nói gì.
Ngày 16 tháng 11, Thương Dịch Chi suất lĩnh liên quân Thanh Dự tới phía bắc thành Dự Châu, không hẹn mà gặp sự ngăn trở của kỵ binh Bắc Mạc. Kỵ binh Bắc Mạc một kích phóng tới, quân Nam Hạ hướng về phía thành mà phá vây, trước mắt đã thấy sắp phá được điểm xung yếu trong phòng tuyến của đại quân Bắc Mạc thì trong thành Dự Châu đột nhiên có đám cháy, khói đặc bốc cao đến tận trời. Đồng thời, trong thành thả lên mấy con diều, trên có viết mấy chữ rất lớn: Thạch đi theo địch, trong thành có trá!
Thấy vậy, trận địa quân Nam Hạ đại loạn, không nghĩ tới chính chủ tướng Thương Dịch Chi mới hai mươi ba tuổi lại gặp nguy không loạn, bình tĩnh biến hóa trận hình, đổi tiên phong biến thành hậu vệ, đại quân quyết đoán đi theo phía tây. Lúc này, vòng vây của người Bắc Mạt chưa kịp khép lại, chỉ đành trơ mắt nhìn quân Nam Hạ theo lỗ hổng mà đi.
Chu Chí Nhẫn không cam tâm, phái kỵ binh truy kích, lại lọt vào phục kích của kỵ binh Nam Hạ, không ai ngờ được rằng Thương Dịch Chi lại có thể đem kỵ binh mai phục ở vị trí này, Kỵ binh Bắc Mạc thương vong thảm trọng, đành để cho Thương Dịch Chi mang theo đại quân thong dong lui vào dãy núi Ô Lan. Vừa vào núi, ưu thế của kỵ binh Bắc Mạc không thể phát huy liền lập tức chậm lại, hơn nữa thế núi hiểm yếu, địa hình phức tạp, rơi vào đường cùng, Chu Chí Nhẫn đành phải tạm thời buông tay, tập trung toàn lực tiếp quản thành Dự Châu.
Lui vào trong dãy núi Ô Lan, quân Nam Hạ mới biết được, từ lúc người Bắc Mạt vây thành đến ngày thứ bảy, thủ thành Dự Châu, tướng Thạch Đạt Xuân thấy tình thế không thể chống đỡ được liền phản quốc đi theo địch, nghênh đón đại quân Bắc Mạc vào thành. Về sau lại giả để Bắc Mạc vây thành nhằm dẫn dụ Thương Dịch Chi đến, một khi Thương Dịch Chi lĩnh quân đến dưới thành, sẽ bị đại quân Bắc Mạc trong, ngoài giáp công, khi đó anh ta cho dù có là thần tiên hạ phàm cũng không thể có biện pháp xoay chuyển. May mắn là quan thư ký thành Dự Châu là một trung liệt chi sĩ, đối với hành vi theo địch bán nước của Thạch Đạt Xuân thập phần khinh thường, đáng tiếc trong tay không có binh quyền, không thể ngăn trở. Về sau lại thấy Thương Dịch Chi lĩnh liên quân hai châu sắp trúng kế, trong lúc vội vàng liền nghĩ ra một diệu kế, phóng hỏa đốt cháy thủ phủ trong thành, rồi thả vài con diều cảnh báo Thương Dịch Chi.
Trong trận đánh này, quân Dự Châu xung phong đi đầu nên thương vong nghiêm trọng, ước chừng tổn hại khoảng bảy, tám ngàn người, nhưng bên quân Thanh Câu của A Mạch hầu như không có thương vong gì. Sau khi rút lui an toàn, không nói đến những binh lính Dự Châu bình thường, mà ngay cả các tướng lĩnh Dự Châu nghị sự bên trong quân trướng của Thương Dịch Chi cảm xúc đều cực kỳ tồi tệ. Bọn họ như thế nào cũng không thể tin được, trưởng quan của mình thế mà lại theo địch phản quốc, sau khi mở cửa thành mời địch nhân vào, lại phối hợp với địch nhân thiết kế phương pháp hại chính quân sĩ của mình. Bọn họ không để ý đến sinh tử mà quay về hồi cứu Dự Châu, ai có thể ngờ được chủ tướng thành Dự Châu đã bán đứng tất cả bọn họ, như thế này thì bảo bọn họ làm sao mà chịu nổi.
Khuôn mặt Thương Dịch Chi rất bình tĩnh, vẻ mặt bình thản nhìn các tướng lãnh trong trướng. Các tướng lĩnh Thanh Châu có chút tức giận, mặc dù ngại Thương Dịch Chi áp chế không nói gì thêm, nhưng vẻ m t kia rõ ràng là muốn mắng người Dự Châu không biết phân biệt đông tây(1)! Mấy tướng lãnh Dự Châu sắc mặt xanh, trắng hỗn loạn, đều lộ ra vẻ ủy khuất và xấu hổ, chính là do bọn họ la hét ầm ĩ phải về cứu Dự Châu, ai ngờ thiếu chút nữa khiến cho toàn quân bị diệt vong.
Phó tướng cầm đầu quân Dự Châu cắn chặt hàm răng, xốc chiến bào quỳ gối xuống. Thương Dịch Chi vội vàng tiến đến, vội la lên: “Trương phó tướng, sao lại làm thế? Mau đứng lên đi.”
Trương phó tướng quỳ trên mặt đất không chịu đứng dậy, những tướng lãnh Dự Châu cũng quỳ xuống theo anh ta. Thương Dịch Chi đỡ được người này thì người kia lại quỳ xuống, trong khoảng thời gian ngắn thật là chật vật, vội vàng giục mấy người bên cạnh: “Còn thất thần ra đấy làm gì! Không mau đỡ các vị đại nhân dậy!”
Mấy người đang quỳ cũng không chịu đứng dậy, Trương phó tướng nói: “Tướng quân, ta đi theo Thạch Đạt Xuân đã nhiều năm, có chết cũng không thể ngờ được ông ta lại là một gian tặc theo địch bán nước, nếu như không phải tận mắt nhìn thấy, đánh chết chúng ta cũng sẽ không tin. Là tại chúng ta la hét ầm ĩ muốn đi cứu Dự Châu, thiếu chút nữa hại mọi người mất mạng. Chuyện tới nước này chúng ta cũng không có gì để nói, thỉnh tướng quân miễn quân chức của chúng ta. Chúng ta muốn quay trở lại thành Dự Châu, nhất định phải giáp mặt hỏi Thạch Đạt Xuân cho rõ ràng, sau đó trước thì giết lão tặc kia, sau lấy cái chết để tạ tội.”
Thương Dịch Chi trầm mặc một lát, hỏi: “Trương phó tướng, ngươi là quân nhân của Đại Hạ, hay là quân nhân của Thạch Đạt Xuân?”
Mấy người kia trăm miệng một lời nói: “Tất nhiên là quân nhân của Đại Hạ!”
Thương Dịch Chi mày kiếm khẽ nhếch lên, ánh mắt sáng quắc, nói: “Nếu là quân nhân của Đại Hạ ta thì cùng với Thạch Đạt Xuân đâu có quan hệ gì? Ông ta phản quốc cũng không có nghĩa là đại diện cho quân Dự Châu phản quốc, như vậy thì cùng với các ngươi và toàn bộ quân Dự Châu đâu có liên quan gì đến nhau? Chúng ta ngàn dặm bôn tập, đồng sinh cộng tử, không nói đến tình riêng giữa Dịch Chi cùng các vị, chúng ta chỉ nói đến đại nghĩa, tuy rằng tướng sĩ Thanh Châu, Dự Châu là hai quân hệ(2), thì với thân phận của chúng ta, đầu tiên phải là binh sĩ Đại Hạ, quân nhân Đại Hạ. Chúng ta giữ, không phải chỉ một thành trì, bảo vệ cũng không phải là dân chúng của một thành trì, cái chúng ta giữ chính là giang sơn xã tắc Đại Hạ, cái chúng ta bảo vệ chính là ngàn vạn con dân Đại Hạ! Chẳng lẽ đơn giản chỉ là một Thạch Đạt Xuân, sẽ khiến liên quân Thanh Dự phải phân chia hay sao? Ai chẳng biết là cho dù ở bất cứ đâu, các tướng sĩ chết trận ở ngoài thành đều là những chàng trai ưu tú, là những người con trung nghĩa của Đại Hạ!”
Nói xong một phen, chư tướng trong trướng đều đã lệ nóng dâng đầy trong mắt. Trương phó tướng run run miệng, cúi người bái một lễ, nói không nên lời: “Có những lời này của tướng quân, các huynh đệ đã hy sinh trong trận đánh này cũng không uổng phí.”
Thương Dịch Chi vội vàng nâng Trương phó tướng dậy, rồi đưa mắt sang nhìn người bên cạnh một cái, mọi người vội vàng đỡ những tướng lĩnh đang quỳ trên mặt đất đứng lên. Thương Dịch Chi nói: “Trương phó tướng, nếu như tín nhiệm Dịch Chi, vậy thì không nên phân chia liên quân Thanh Dự nữa, mặc kệ là quân Thanh Châu hay quân Dự Châu, chúng ta đều là tướng sĩ Đại Hạ, không có gì phân biệt.”
Trương phó tướng ra sức gật đầu. Vẫn đứng ở một bên không nói gì, Từ Tĩnh đột nhiên cười nói: “Nếu hai quân kết hợp làm một không chia tách, như vậy thì cũng không nên gọi cái gì là quân Thanh Châu hay quân Dự Châu nữa.”
Bên cạnh, một gã tướng lĩnh Thanh Châu hỏi: “Không gọi là quân Thanh Châu và quân Dự Châu thì nên gọi là gì?”
Từ Tĩnh vuốt râu nhìn về phía Thương Dịch Chi, cười nói:“Cái này cứ nghe theo chủ kiến của tướng quân là được.”
“Điều này……” Thương Dịch Chi vẫn là có chút do dự.
Mấy tướng lĩnh quân Dự Châu thấy thế, nhất tề ôm quyền nói: “Ta về sau sẽ chỉ nghe theo tướng quân, thỉnh tướng quân vì hai quân mà thay tên!”
Thương Dịch Chi thoáng cân nhắc một lát, rồi nói một cách rành mạch: “Được, nếu mọi người đã xem trọng Dịch Chi, vậy thì gọi là quân Giang Bắc đi! Từ nay về sau sẽ không còn quân Thanh Châu và quân Dự Châu nữa, chỉ có quân Giang Bắc.”
Chúng tướng cùng đồng thanh nhất trí.
Thương Dịch Chi sắc mặt nghiêm túc, hướng mọi người ôm quyền thi lễ, nghiêm mặt nói: “Thu phục lại đất đai Đại Hạ đã mất hoàn toàn dựa vào các chư quân !”
Ban đêm, bên trong thành phủ Dự Châu, phu nhân của Thạch Đạt Xuân bưng bát cháo nhỏ đi vào thư phòng của trượng phu, thấy trượng phu vẫn còn ngồi ngẩn người ở trước bàn, liền đặt bát cháo xuống, ôn nhu nói: “Lão gia, ăn một chút đi, mặc kệ như thế nào cũng phải ăn một chút gì đi.”
Thạch Đạt Xuân chậm rãi lắc lắc đầu, hai mắt Thạch phu nhân đỏ hoe, cố gắng kìm giữ giọt lệ trong hốc mắt, thấp giọng năn nỉ: “Lão gia, thân thể ngài sắp không chịu được nữa rồi, ngài ăn một chút đi, cho dù là vì…… Ngài cũng phải ăn một chút đi, ngài……”
Thạch Đạt Xuân chậm chạp hé môi, liếc mắt đề phòng nhìn ra ngoài cửa, rồi hỏi: “Người phóng hỏa kia thế nào rồi?”
“Khâu đại nhân…… tự sát rồi, phòng hồ sơ đều bị cháy hết, lửa còn lan đến khố phòng(3), khiến quần áo mùa đông đều bị đốt thành tro.”
“Chết là đáng lắm!” Thanh âm của Thạch Đạt Xuân lạnh lùng, cứng rắn, trên mặt cũng là một vẻ bi phẫn, thân hình run rẩy, nói: “Ông ta chỉ dùng một cây đuốc mà đã đem tất cả văn kiện quan trọng của thành Dự Châu ta đốt sạch sẽ, chết đi thật ra lại quá tiện nghi cho ông ta.”
Thạch phu nhân cuống quít nắm lấy bả vai run rẩy của trượng phu, ghé vào tai ông ta thấp giọng nói: “Lão gia, ta đều biết, đều biết cả mà, ngài đã phải chịu ủy khu ất, phải chịu khổ rồi.”
Thạch Đạt Xuân ảm đạm lắc lắc đầu, không nói gì, ông ta không khổ, so với việc hy sinh vì nghĩa của quan thư ký mà nói, ít nhất ông ta vẫn còn sống, tuy rằng phải mang cái mũ Hán gian(4) trên đầu, tuy rằng bị dân chúng trong thành mắng là lão tặc, nhưng ông ta không khổ, bởi tất cả đều là vì Đại Hạ. Ông ta hiện lo lắng chính là, không biết những thứ vật tư kia có an toàn đưa lên núi hay không, không biết Thương Dịch Chi có thể thu phục được tướng lĩnh Dự Châu của mình hay không.
Ẩn quân vào núi, đây là chuyện ông ta chưa từng nghĩ tới. Đưa quân lên núi chẳng phải là thành thổ phỉ hay sao? Bọn họ có thể thật sự trở thành quân trộm cướp hay sao? Bọn họ thật sự có thể thu phục lại Dự Châu, thậm chí là toàn bộ vùng Giang Bắc sao? Thạch Đạt Xuân không phải là không hoài nghi, nhưng ông ta không có sự lựa chọn nào khác.
—————————————–
Mùa đông năm Thịnh Nguyên thứ hai, Thành Tổ đưa quân lui vào trong dãy núi Ô Lan, tự xưng là quân Giang Bắc. Ban đầu, trong triều không hiểu, răn dạy rằng: Dẫn binh vào núi, chiếm núi xưng vương, binh tướng thành phỉ. Khiến người người dị nghị. Thành Tổ chỉ cười: Đúng là kẻ nông cạn, thiển cận, gian thần!–
[ hạ thư - thành bản gốc kỉ ]
[ thứ nhất cuốn hoàn ]
—————————
Chú thích:
1- Không phân biệt đông tây: ý nói làm việc không phân rõ nặng nhẹ, chỉ theo cảm tính.
2- Quân hệ: chỉ quân Thanh Châu và quân Dự Châu là hai đội quân độc lập thuộc hai đơn vị khác nhau.
3- Khố phòng: nhà kho
4- Hán gian: nghĩa cũng tương tự như Việt gian của ta trong thời chiến vậy, dùng để chỉ những kẻ theo giặc bán nước.