Biên Niên Sử Xứ Prydain Chương 20

Chương 20
Món quà

Họ lại quay về nhà. Gwydion đã dẫn nhóm bạn về bờ biển phía tây nơi đoàn thuyền vàng đang đợi sẵn. Từ đó, với Quạc kiêu hãnh đậu trên đỉnh cột buồm cao nhất, những con thuyền lớn với cánh buồm sáng rực chở họ về bến cảng Avren. Tin về Annuvin bị hủy diệt đã truyền đi nhanh chóng; và khi nhóm bạn lên bờ, rất nhiều lãnh chúa và quân đội của mình đã tập trung lại để đi theo các Con Trai của Don, để tỏ lòng tôn kính Vua Gwydion, và để đón chào đội quân của Vùng đất Tự do cùng với Taran Người Lang Thang. Gurgi căng những gì còn lại của lá cờ hình Lợn Trắng ra và giương nó lên cao một cách tự hào.

Thế nhưng Gwydion vẫn im lặng một cách kỳ lạ. Và Taran, trong khi khu trại nhỏ dần dần hiện ra trong tầm mắt, lại cảm thấy đau buồn nhiều hơn là vui sướng. Mùa đông đã trôi qua; mặt đất tan băng đã bắt đầu cựa mình tỉnh giấc, và những vệt xanh lờ mờ, gần như không nhìn thấy được, đã phủ lên dãy đồi như một màn sương mỏng. Mắt Taran nhìn về phía khu vườn trống trải của bác Coll, và cậu lại thấy nhói đau khi nghĩ đến người trồng củ cải kiên cường, giờ đang nằm xa tít ở nơi yên nghỉ hiu quạnh của ông.

Cụ Dallben tập tễnh bước ra đón họ. Khuôn mặt vị pháp sư đã hằn sâu nhiều nếp nhăn hơn, vầng trán của cụ nom thật khô héo, làn da nhăn nheo gần như trong suốt. Nhìn thấy cụ, Taran cảm thấy rằng cụ Dallben đã biết trước là bác Coll sẽ không quay trở về nữa. Eilonwy lao vào hai cánh tay đang chìa ra của cụ. Taran nhảy từ trên lưng Melynlas xuống và bước theo sau cô. Quạc đập cánh và lấy hết hơi gào tướng lên. Fflewddur, Doli, và Gurgi, lông lá trơ từng mảng và bù xù hơn bao giờ hết, cũng vội vã đi tới chào hỏi và cùng một lúc cố kể cho cụ Dallben nghe những chuyện đã xảy ra với họ.

Hen Wen đang kêu lên eng éc, thở khò khè và gần như đã trèo qua những gióng chuồng. Khi Taran nhảy vào bãi quây nhốt để vòng tay ôm lấy cô lợn đang sung sướng, cậu bỗng nghe thấy những tiếng eng éc chói tai và miệng cậu há hốc ra kinh ngạc.

Eilonwy cũng vội chạy tới khu chuồng và reo lên một tiếng thích thú. “Lợn con!”

Sáu con lợn nhỏ, năm con trắng muốt giống Hen Wen và một con màu đen, đang đứng trên hai chân sau và kêu eng éc bên cạnh mẹ chúng. Hen Wen ủn ỉn lục khục trong họng vẻ tự hào.

“Chúng ta đã có vài người khách tới thăm,” cụ Dallben nói. “Một trong số chúng là một chàng lợn rừng rất bảnh bao. Trong suốt mùa đông vừa rồi, khi các loài thú hoang tỏ ra hết sức hỗn loạn, nó đã đến tìm thức ăn và chỗ trú, và thấy thích Caer Dallben hơn là khu rừng. Giờ thì chắc nó đang chạy lang thang đâu đó thôi, bởi vì nó vẫn còn chút tính hoang dã và không quen với nhiều người mới đến như thế này.”

“Ôi Belin Vĩ Đại!” Fflewddur kêu lên. “Bảy con lợn có tài tiên tri! Taran, anh bạn của tôi, công việc của cậu ở đây sẽ còn khó khăn hơn cả khi ở Dãy Đồi Bran-Galedd nữa đấy!”

Cụ Dallben lắc đầu. “Chúng rất cứng cáp và mạnh khỏe, và là một lứa lợn con rất tốt, nhưng chúng không có quyền phép gì mạnh mẽ hơn những con lợn bình thường-và chúng cũng chỉ cần có thế thôi. Ngay cả quyền lực của Hen Wen cũng đã bắt đầu yếu dần đi khi các tấm thẻ bài bị vỡ và giờ thì nó đã biến mất không còn lấy lại được nữa. Như thế càng tốt hơn; một quyền lực như thế thì là một gánh nặng quá lớn, đối với cả con người cũng như lợn, và ta đoán là giờ nó sung sướng hơn nhiều.”

 

Suốt hai ngày, mọi người nghỉ ngơi một cách biết ơn và vui lòng được lại ở bên nhau trong cái trang trại nhỏ yên tĩnh. Bầu trời chưa bao giờ nom trong trẻo hơn, tràn đầy những lời hứa hẹn vui vẻ hơn về một mùa xuân chứa đựng những niềm hạnh phúc to lớn hơn. Vua Smoit cũng đã tới cùng với đội quân danh dự của mình, và suốt buổi yến tiệc đêm đó, gian nhà tranh đầy tiếng cười đùa vui vẻ.

Ngày hôm sau cụ Dallben cho gọi nhóm bạn vào phòng mình, nơi Gwydion và Taliesin đang đứng đợi. Cụ chăm chú nhìn tất cả những người đứng đó với vẻ hiền hậu, và khi cụ lên tiếng, giọng cụ thật nhẹ nhàng.

“Những ngày vừa qua là những ngày để đón chào,” cụ nói, “nhưng cũng là những ngày để từ biệt nữa.”

Một tiếng xì xào dò hỏi vang lên giữa nhóm bạn. Taran hốt hoảng dõi mắt nhìn cụ Dallben. Nhưng Fflewddur thì lại đưa tay chộp lấy thanh gươm của mình và kêu lên, “Tôi đã biết trước mà! Còn sứ mệnh gì cần được hoàn thành nữa? Bọn quái điểu đã quay trở lại chăng? Một đội Thợ Săn vẫn còn sống sót ư? Đừng lo lắng! Đã có một người họ Fflam đang sẵn sàng đây!”

Gwydion buồn bã mỉm cười với chàng ca sĩ đang phấn khích. “Không phải vậy, anh bạn can đảm ạ. Cũng như bọn Thợ Săn, bầy quái điểu đã bị tiêu diệt. Nhưng đúng là còn một sứ mệnh phải được hoàn thành. Các Con Trai của Don, cùng với tất cả họ hàng, phải bước lên đoàn thuyền vàng và trở về Vương Quốc Mùa Hè, nơi xuất xứ của chúng ta.”

Taran quay sang Gwydion như thể cậu không hiểu rõ những lời mà Đức Thượng Hoàng vừa thốt ra. “Thế là thế nào,” cậu vội hỏi, không dám tin rằng mình đã nghe đúng, “các Con Trai của Don sẽ rời khỏi Prydain ư? Ngài phải lên đường ngay bây giờ sao? Để làm gì kia chứ? Khi nào thì ngài sẽ quay trở lại? Ngài không định ăn mừng thắng lợi của mình trước sao?”

“Chiến thắng của chúng ta chính là lý do của cuộc hành trình này,” Gwydion trả lời. “Đó là số phận đã định sẵn cho chúng ta từ lâu: Khi Chúa Tể xứ Annuvin bị đánh bại, thì các Con Trai của Don phải vĩnh viễn rời khỏi Prydain.”

“Không!” Eilonwy phản đối. “Tại sao phải là lúc này chứ không phải là bất kỳ lúc nào khác!”

“Chúng ta không thể chống lại định mệnh xa xưa ấy được,” Gwydion trả lời. “Cả Vua Fflewddur Fflam cũng phải đi cùng với chúng ta, bởi vì anh cũng có họ với Dòng họ Don.”

Gương mặt của chàng ca sĩ đầy vẻ đau khổ. “Người họ Fflam luôn tỏ ra biết ơn,” anh ta mở đầu, “và trong hoàn cảnh bình thường thì tôi sẽ rất mong được làm một chuyến đi biển. Nhưng tôi bằng lòng được ở lại trong vương quốc của mình hơn. Thực ra, mặc dù nó quả là ảm đạm thật, nhưng tôi lại thấy nhớ nó lắm.”

Lúc ấy thì Taliesin liền lên tiếng. “Anh không có quyền lựa chọn, Con Trai của Godo ạ. Nhưng anh hãy biết rằng Vương Quốc Mùa Hè là một xứ sở tươi đẹp, tươi đẹp hơn cả Prydain nữa, và ở đó mọi ước mong trong lòng ta sẽ trở thành sự thật. Llyan sẽ đi cùng với anh. Anh sẽ có một cây đàn hạc mới. Chính tôi sẽ dạy anh chơi nó, và anh sẽ học được mọi tri thức của các ca sĩ hát rong. Anh đã luôn có trái tim của một ca sĩ chân chính, Fflewddur Fflam ạ. Từ trước tới giờ thì nó chưa sẵn sàng. Chẳng phải anh đã hy sinh vật anh yêu quý nhất vì các bạn của mình đó sao? Cây đàn hạc đang chờ đợi anh sẽ còn đáng giá hơn, và những sợi dây của nó sẽ không bao giờ đứt.

“Anh cũng cần biết điều này nữa,” Taliesin nói thêm. “Tất cả những ai sinh ra đều phải chết đi, ngoại trừ những người sống ở Vương Quốc Mùa Hè. Đó là vùng đất không có xung đột hay khổ đau, và không ai biết đến cái chết cả.”

“Vẫn còn một số phận nữa đã được định sẵn cho chúng ta,” cụ Dallben nói. “Khi các Con Trai của Don phải quay về xứ sở của mình thì mọi quyền phép của ta cũng biến mất. Từ lâu ta đã suy nghĩ về lời tiên tri mà tấm thẻ bài cuối cùng của Hen Wen đã có thể cho chúng ta biết. Giờ thì ta đã hiểu rõ tại sao các thanh gỗ tần bì lại bị vỡ vụn. Chúng không chịu nổi một lời tiên tri mạnh mẽ nhường ấy, và lời t iên tri ấy chỉ có thể là như thế này mà thôi: Không chỉ có ngọn lửa của Dyrnwyn sẽ bị dập tắt và quyền lực của nó biến mất, mà mọi phép thuật cũng sẽ biến mất theo, và con người sẽ phải tự định đoạt lấy số phận mình mà không có gì giúp đỡ.”

“Ta cũng sẽ đi về Vương Quốc Mùa Hè,” cụ Dallben nói tiếp. “Ta đau lòng khi phải ra đi, nhưng niềm vui sướng của ta còn lớn hơn thế. Ta đã là một ông già và mệt mỏi lắm rồi, và giờ ta sẽ được nghỉ ngơi và trút được một gánh nặng đã trở nên quá lớn trên hai vai ta.

“Doli thì, than ôi, sẽ phải quay về vương quốc của người Mỹ Tộc, và Quạc cũng vậy,” vị pháp sư nói tiếp. “Các trạm canh đường đã bị bỏ trống cả. Chẳng mấy chốc nữa Vua Eiddileg sẽ ra lệnh chặn kín mọi lối đi dẫn vào vương quốc của ông, cũng như Medwyn đã vĩnh viễn đóng kín thung lũng của ông đối với loài người, và chỉ cho phép các con vật tìm đến với mình mà thôi.”

Doli cúi đầu xuống. “Hừm!” ông khịt mũi. “Cũng đã đến lúc chúng tôi không dính dáng gì đến người thường nữa rồi. Chỉ toàn dẫn đến chuyện rắc rối thôi. Phải, tôi sẽ rất mừng được quay trở về. Tôi đã ngấy những câu lão-Doli-già-tử-tế thế này, lão-Doli-già-tử-tế thế khác, và ‘lão-Doli-già-tử-tế ơi hãy tàng hình một lần nữa đi’ lắm rồi!” Ông lùn cố tỏ ra bực tức hết mức có thể, nhưng cặp mắt đỏ tươi của ông đầy nước.

“Cả Công chúa Eilonwy Con Gái của Angharad cũng phải đi tới Vương Quốc Mùa Hè,” cụ Dallben nói. “Đành phải như vậy,” cụ nói tiếp, khi Eilonwy há hốc miệng vì không tin nổi vào tai mình. “Ở Caer Colur, Công chúa đã chỉ từ chối không sử dụng quyền phép của mình mà thôi. Mọi quyền phép ấy vẫn còn lại thuộc về Công chúa, như chúng đã được truyền cho mọi đời con gái của Dòng họ Llyr. Vì thế Công chúa sẽ phải ra đi. Tuy vậy,” cụ nhanh chóng tiếp tục, trước khi Eilonwy kịp phản đối, “còn có những người khác cũng đã phục vụ cho các Con Trai của Don: Gurgi trung thành; cả Hen Wen nữa, theo cách riêng của nó; và Taran xứ Caer Dallben. Họ sẽ được trọng thưởng bằng cách được cho phép cùng đi với chúng ta.”

“Đúng, đúng rồi!” Gurgi reo lên. “Tất cả sẽ được đến vùng đất không có tiếng thở than và chết chóc!” Nó sung sướng nhảy cẫng lên và huơ hai cánh tay lên không trung, làm chỗ lông còn lại rụng lả tả. “Vâng, ồ vâng! Tất cả sẽ được mãi mãi ở bên nhau! Và Gurgi cũng sẽ thấy được điều nó tìm kiếm. Sự thông thái cho cái đầu yếu ớt khốn khổ của nó!”

Tim Taran đập mạnh khi cậu cất tiếng gọi Eilonwy và bước vội đến bên cạnh để lắm lấy tay cô. “Chúng ta sẽ không phải xa nhau nữa. Ở Vương Quốc Mùa Hè chúng ta sẽ thành hôn_” Cậu ngừng bặt. “Nếu... _nếu đó là điều nàng muốn. Nếu nàng bằng lòng kết hôn với một tên Phụ-Chăn Lợn.”

“Thế đấy,” Eilonwy đáp lại, “tôi đã tự hỏi không biết liệu có bao giờ anh thốt ra được câu hỏi ấy hay không. Tất nhiên là có, và nếu anh chỉ cần nghĩ một chút đến câu hỏi ấy thôi thì hẳn anh đã biết trước câu trả lời của tôi rồi.”

Đầu óc Taran vẫn còn quay cuồng với những điều vị pháp sư vừa nói, cậu quay sang cụ Dallben. “Có thật như thế không ạ? Rằng Eilonwy và con có thể cùng đi với nhau?”

Cụ Dallben không nói gì một hồi lâu, rồi cụ gật đầu. “Đúng thế. Ta không thể ban cho con món quà gì quý giá hơn nữa.”

Glew phì một tiếng. “Thật là hay quá nhỉ, ban phát cuộc sống vĩnh hằng hết chỗ này đến chỗ khác. Thậm chí cả một con lợn cũng có phần! Nhưng chẳng ai nghĩ đến ta cả. Thật là ích kỷ! Không quan tâm gì đến người khác hết! Rõ ràng là nếu cái hầm mỏ ấy của người Mỹ Tộc không bị sập xuống_và ta xin nói thêm là đã cướp của ta cả một gia tài_thì ắt hẳn chúng ta đã đi một con đường khác, chúng ta đã không bao giờ đến được Đỉnh Núi Rồng, không bao giờ tìm được Dyrnwyn, bọn Vạc Dầu sẽ không bao giờ bị tiêu diệt...” Mặc dù hết sức bất bình, vầng trán tên khổng-lồ-một-thời vẫn nhăn nhúm lại vẻ khổ sở và miệng y run lên. “Đi đi, cứ đi đi! Để mặc cho ta ở lại với hình thù kệch cỡm này! Ta xin thề rằng, khi ta còn là người khổng lồ...”

“Đúng, đúng đấy!” Gurgi kêu lên. “Ông khổng lồ hay kêu ca cũng đã giúp đỡ đấy! Thật không công bằng nếu bỏ mặc ông ta cô độc và bơ vơ trong hình hài bé nhỏ này! Và trong kho báu của Chúa tể Tử địa độc ác, khi mọi báu vật rơi xuống trong đám cháy, một mạng sống đã được cứu khỏi ngọn lửa cháy rừng rực nóng bỏng!”

“Đúng vậy, ngay cả Glew cũng đã góp công, mặc dù không tự nguyện,” cụ Dallben đáp lại. “Y cũng sẽ được trọng thưởng không kém gì các bạn. Ở Vương Quốc Mùa Hè, nếu muốn, y sẽ có thể có tầm vóc cao lớn hơn. Nhưng con định nói với ta là,” cụ Dallben nói, nghiêm nghị nhìn Gurgi, “rằng y đã cứu mạng con ư?”

Gurgi ngần ngừ một lát. Nó chưa kịp trả lời thì Glew đã vội lên tiếng. “Tất nhiên là không phải rồi,” tên khổng-lồ-một-thời nói. “Quả là một mạng sống đã được cứu thoát. Chính là tính mạng của tôi. Nếu nó không lôi tôi ra khỏi cái kho báu ấy thì tôi đã chẳng còn lại gì ngoài một mẩu than ở Annuvin rồi.”

“Ít ra thì mi cũng đã nói thật, tên khổng lồ ạ!” Fflewddur reo lên. “Tốt lắm! Ôi Belin Vĩ Đại, ta nghĩ là mi đã cao lên một chút rồi đấy!”

Gwydion bước lên trước và nhẹ nhàng đặt bàn tay lên vai Taran. “Thời khắc của chúng ta sắp đến rồi,” ông khẽ nói. “Sáng mai chúng ta sẽ lên đường. Hãy chuẩn bị sẵn sàng đi, chàng Phụ-Chăn Lợn.”

 

Đêm đó Taran chỉ ngủ chập chờn. Niềm vui khiến lòng cậu lâng lâng đã biến mất một cách kỳ lạ, bay đi tựa như một con chim với bộ lông rực rỡ sắc màu mà cậu không thể bắt lại được. Ngay cả ý nghĩ về Eilonwy và niềm hạnh phúc đang chờ đợi họ ở Vương Quốc Mùa Hè cũng không thể làm cậu vui trở lại.

Rốt cuộc cậu rời khỏi cái ổ rơm của mình và đến đứng bên cạnh cửa sổ một cách bứt rứt. Đống lửa trại của các Con Trai dòng họ Don đã tàn thà nh tro. Vầng trăng tròn biến cánh đồng đang ngủ yên thành một biển bạc. Xa xa đằng sau rặng đồi, một giọng hát cất lên, yếu ớt nhưng rõ ràng; một giọng khác hòa theo, rồi lại một giọng nữa. Taran nín thở. Cậu mới chỉ được nghe tiếng hát như thế có một lần, cách đây đã lâu ở vương quốc của người Mỹ Tộc. Giờ đây, bài hát còn vang lên du dương hơn cả trong trí nhớ của cậu, một giai điệu kéo dài long lanh sáng hơn ánh trăng. Đột nhiên nó ngừng lại. Taran đau đớn kêu lên, vì biết rằng cậu sẽ không bao giờ được nghe tiếng hát nào giống như vậy nữa. Và, dường như trong trí tưởng tượng của cậu, từ khắp mọi phương trời vọng tới tiếng những ô cửa nặng nề đóng sập lại.

“Sao thế, không ngủ được à, con gà nhép của ta?” một giọng cất lên sau lưng cậu hỏi.

Cậu quay ngoắt lại. Ánh sáng tràn ngập gian buồng làm cậu lóa mắt, nhưng khi nhìn được rõ ràng hơn cậu thấy ba người thân hình cao và mảnh dẻ; hai người mặc áo dài với những màu trắng, vàng óng và đỏ rực liên tục đổi chỗ; và người thứ ba khoác một chiếc áo choàng đen nhánh. Ngọc quý lấp lánh trên mái tóc của người thứ nhất, và người thứ hai đeo ở cổ một sợi dây chuyền làm bằng những viên đá trắng muốt. Taran thấy mặt họ thanh thản, đẹp đến não lòng, và mặc dù cái mũ trùm đen đã che mất khuôn mặt của người thứ ba, Taran biết rằng bà cũng đẹp không kém.

“Không ngủ được và không nói nên lời nữa,” người đứng giữa nói. “Đến ngày mai thì, tội nghiệp, thay vì vui vẻ nhảy nhót nó sẽ phải ngáp đến sái cả quai hàm thôi.”

“Giọng nói của các vị... _tôi biết rất rõ,” Taran lắp bắp, gần như không thể nói to hơn một tiếng thì thầm. “Nhưng khuôn mặt của các vị_phải, tôi đã nhìn thấy một lần, cách đây đã lâu lắm rồi, ở vùng Đầm Lầy Morva. Nhưng các vị không thể là họ được. Orddu? Orwen và... _Orgoch?”

“Tất nhiên là chúng ta rồi, con ngỗng con ạ,” Orddu trả lời, “nhưng đúng là khi con gặp chúng ta trước kia, nom chúng ta không được chỉnh tề cho lắm.”

“Nhưng cũng đủ để thực hiện điều cần làm,” Orgoch khẽ nói từ bên dưới chiếc mũ trùm.

Orwen cười khúc khích như một cô bé và nghịch nghịch những hạt ngọc trên sợi dây chuyền của mình. “Con không được nghĩ là lúc nào chúng ta cũng trông như những mụ phù thủy già xấu xí đâu đấy nhé,” bà ta nói. “Chỉ khi nào cần thiết thôi.”

“Tại sao các vị lại đến đây?” Taran hỏi, vẫn còn sửng sốt khi nghe thấy giọng quen thuộc của ba bà pháp sư cất lên từ những hình dáng đẹp đẽ đến vậy. “Các vị cũng phải đi tới Vương Quốc Mùa Hè ư?”

Orddur lắc đầu. “Chúng ta cũng ra đi, nhưng không đi cùng với con. Hơi muối biển làm cho Orgoch buồn nôn, mặc dù có lẽ đó là điều duy nhất hề hấn gì được đến bà ta. Chúng ta sẽ đi tới... __ ...tới đâu cũng được. Con cũng có thể nói là chúng ta sẽ đi tới tất cả mọi nơi.”

“Con sẽ không gặp lại chúng ta nữa, và chúng ta cũng sẽ không gặp lại con,” Orwen thêm vào, vẻ gần như tiếc nuối. “Chúng ta sẽ nhớ con lắm. Có nghĩa là, nhớ hết mức chúng ta có thể nhớ được. Đặc biệt là Orgoch thì rất muốn... _à, có lẽ tốt hơn là không nên nói tới chuyện đó.”

Orgoch phì một tiếng chẳng lấy gì làm hòa nhã. Trong khi đó thì Orddu đã mở ra một tấm thảm thêu rực rỡ và giơ nó ra cho Taran.

“Chúng ta đem đến cho con vật này, chú vịt con của ta ạ,” bà ta nói. “Hãy nhận lấy nó đi và đừng để ý đến những lời cằn nhằn của Orgoch. Bà ta sẽ phải nuốt nỗi thất vọng của mình thôi, _ta không còn từ nào hay hơn cả.”

“Tôi đã nhìn thấy tấm thảm này trên khung cửi của các vị,” Taran nói, không phải là không có phần nghi ngờ. “Tại sao các vị lại tặng nó cho tôi? Tôi không đòi hỏi nó, và cũng không thể mua nó được.”

“Nó thuộc về con một cách chính đáng, con chim cổ đỏ của ta ạ,” Orddu nói. “Đúng là nó đến từ khung cửi của chúng ta, nếu con khăng khăng muốn biết thật chi tiết và chặt chẽ, nhưng chính con mới là người dệt nên nó.”

Bối rối, Taran ngắm kỹ tấm thảm hơn và thấy rằng nó đầy những hình đàn ông, phụ nữ, binh lính và chiến trận, chim chóc và thú vật. “Những thứ này,” cậu kinh ngạc nói, “đây chính là cuộc đời tôi.”

“Tất nhiên rồi,” Orddu trả lời. “Chính con đã chọn mẫu hoa văn ấy, và luôn luôn là như thế.”

“Chính do tôi chọn ư?” Taran hỏi. “Không phải là các bà ư? Thế nhưng tôi đã ngỡ rằng...” Cậu ngừng lại và đưa mắt nhìn Orddu. “Phải,” cậu chậm rãi nói, “đã có lúc tôi tin là cả thế giới này đều phải làm theo lệnh của các vị. Nhưng giờ thì tôi đã hiểu rằng không phải như vậy. Những sợi chỉ của cuộc đời không được dệt nên bởi ba mụ phù thủy già hay ba thiếu nữ xinh đẹp. Mẫu hoa văn này đúng là của tôi. Nhưng ở chỗ này,” cậu thêm vào, mày nhíu lại khi cậu nhìn đoạn cuối của tấm thảm nơi các hoa văn ngừng lại và những sợi chỉ xõa ra, “chỗ này chưa được dệt xong.”

“Tất nhiên rồi,” Orddu nói. “Con vẫn còn phải chọn một mẫu hoa văn, và mỗi người trong số những con chim non tội nghiệp lúng túng như các con đều phải làm vậy, chừng nào mà vẫn còn sợi để dệt.”

“Nhưng tôi không còn nhìn thấy mẫu hoa văn của mình một cách rõ ràng nữa,” Taran kêu lên. “Tôi không còn hiểu chính lòng mình nữa. Tại sao nỗi đau buồn của tôi lại che lấp niềm vui của tôi? Xin hãy cho tôi biết. Hãy cho tôi biết điều đó thôi, một ân huệ cuối cùng.”

“Con gà nhép thân yêu của ta ơi,” Orddu buồn bã mỉm cười nói, “thật ra đã có lúc nào chúng ta cho con bất kỳ điều gì chưa?”

Và rồi họ biến mất.

Hết chương 20. Mời các bạn đón đọc chương 21!

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/t38332-bien-nien-su-xu-prydain-chuong-20.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận