Chương 36 Thị trấn Đa Minh Tiểu Quân như sắp sụp đổ. Cô đưa Trường Thành vào một câu chuyện ma quái. Không biết ai đã đạo diễn những trò này? Người mù và anh lái xe tắc-xi chỉ là những vai phụ. Cái bẫy này quá thâm hiểm. Phải chăng rừng cây xung quanh cũng là bối cảnh họ dựng lên, màn sương dày đặc là hiệu ứng khói mây mà họ tạo ra?
Trường Thành không cáu gắt với anh lái xe nữa, hình như đã nhận ra điều gì đó, anh khẽ hích Tiểu Quân một cái, nói nhỏ: “Hừ! Đúng là đến rồi…”
Tiểu Quân sững sờ nhìn ra ngoài. Anh lái xe bật đèn pha sáng trắng. Trong màn sương quả nhiên nhìn thấy nhà cửa thấp thoáng! Đúng là đến nơi rồi thật! Tiểu Quân không sao hiểu nổi, đất đai thì mênh mông, có thể chôn cất người chết xa hơn, sao lại chôn sát thị trấn như vậy?
Cô nói ra điều nghi ngờ này: “Anh ạ, tôi vừa nhìn thấy rất nhiều bia mộ, thế là sao?”
Người lái xe nói: “Xung quanh thị trấn Đa Minh đều là nghĩa địa, đây là phong tục của địa phương chúng tôi. Chôn người chết ở gần thì sẽ được họ phù hộ.” Vẻ mặt anh ta lạnh tanh. Có vẻ như anh ta vẫn giận Tiểu Quân và Trường Thành lúc nãy không xuống giúp anh ta khuân khúc gỗ. Tiểu Quân đã hơi thấy nhẹ nhõm.
Anh lái xe lại nói: “Một hôm nào đó tôi cũng phải chọn trước cho mình một chỗ thì mới yên tâm.”
Tiểu Quân rất kinh ngạc. Anh ta mới ngoài 20 tuổi!
Dù sao cũng nên thấy rằng, suốt dọc đường cô và Trường Thành lo xa không cần thiết. Nhưng ở một nơi xa lạ, vào lúc trời đất tù mù, đi với một anh lái xe lạ hoắc, ai có thể không nghi ngờ này nọ?
Vào thị trấn Đa Minh, anh ta đỗ xe sang mép đường, hỏi: “Hai vị đi đâu?”
Tiểu Quân nói: “Bọn tôi đi dạo xem sao.” Rồi cô đưa anh ta tờ 100 đồng. “Trời sương mù, đường xấu. Anh cầm đi, khỏi phải trả lại nữa.”
Anh ta giơ tờ tiền ra soi trước đèn pha, giằng nhẹ mấy cái rồi bỏ tiền vào túi áo. “Vâng, cảm ơn.”
Trường Thành hỏi: “Đường chúng ta vừa đi là quốc lộ gì?”
Lái xe: “Quốc lộ?”
Trường Thành: “Ý tôi là, nó là đường cấp quốc gia hay cấp tỉnh, cấp huyện?”
Lái xe: “Tôi không hiểu. Chúng tôi quen gọi là đường Vô Miên.”
Tiểu Quân hiểu ý Trường Thành, anh hay lái xe, cần tìm hiểu rõ mã đường này là G, là S hay là X, hoặc mã số của nó là bao nhiêu, để anh nắm được phương vị của nó. Ở Trung Quốc, tên các con đường lớn đều viết tắt từ địa danh, nghe khô khan, không nên thơ gì cả. Ví dụ cao tốc Kinh Thẩm, cao tốc Du Trường, cao tốc Quảng Triệu… con đường này tên là Vô Miên, Tiểu Quân thấy thích, tên này quá đẹp[1].
[1] Vô Miên: nghĩa là không ngủ.
Họ xuống xe. Chiếc tắc-xi quay đầu, đi trở lại đường Vô Miên phóng về phía Đồng Hoảng, nhanh chóng mất hút trong màn sương. Tức là anh ta không “về quê”.
Rốt cuộc Tiểu Quân đã đến thị trấn Đa Minh bí hiểm. Nơi này nằm dưới chân núi, không khí rất trong lành, da mặt cô ươn ướt, man mát. Phía không xa vọng đến tiếng nước chảy róc rách, không rõ nó đã chảy bao nhiêu ngàn vạn năm. Tiểu Quân vốn tưởng nơi đây là nhà cửa phó xá cổ xưa, nhưng không phải thế, hai bên phố toàn là những tòa nhà sáng sủa đẹp mắt, cao nhất là ba tầng. Hiệu ăn, quán trà, quán bi-a, hiệu cắt uốn tóc, ngân hàng, bưu điện có đủ cả. Bên đường dựng một cọc tiêu bằng đá, viết “Ngõ Dao Găm”
Các địa danh ở dây nghe rất hay, khiến Tiểu Quân có cảm giác lạc vào một thế giới thoát tục.
Thị trấn Đa Minh rất nhỏ, trên đường phố lác đác mấy chiếc ô tô, vài chiếc xe đạp, một ít người đi bộ. Hầu như mọi người đi qua đều nhìn Tiểu Quân và Trường Thành với ánh mắt hiếu kỳ, nhìn áo quần hai người biết ngay là người tỉnh khác.
Có một bà già đẩy chiếc xe nôi đi dọc theo phố, Tiểu Quân bước đến hỏi: “Bà ơi, khách sạn ở đâu ạ?” Bà già chỉ về phía không xa, nói: “Phía sau bưu điện.” Bà nói tiếng phổ thông khiến Tiểu Quân rất ngạc nhiên.
“Cám ơn bà.”
Bà già lại bước đi, Tiểu Quân nhìn theo chiếc xe nôi, thấy chăn đắp kín, bên dưới là mảnh vải hoa xanh, không thấy đưa bé. Trời quá lạnh, chắc người ta sợ đưa bé rét cóng nên mới đắp chăn kín mít như thế.
Bà ta đi rồi, Tiểu Quân nói: “Anh ạ, chúng ta dạo phố xem sao, biết đâu lại mua được thứ gì đó hay hay.”
Trường Thành trả lời: “Tùy em.”
Bên đường có một sạp hàng, treo tấm biến mộc bằng sợi dây thừng, viết: “Cửa hàng thủ công mỹ nghệ.” Lúc này trời vẫn chưa tối hẳn nhưng sạp hàng đã bật đèn sáng. Hai người bước vào.
Người bán hàng là một cô gái trẻ đang chơi game, không đứng dậy chào mời khách. Tiểu Quân không thích chủ hàng quá nhiệt tình, sẽ khiến khách hàng lúng túng. Vào đây cô thấy nhẹ nhõm, có thể xem ngắm thoải mái. Họ bày nhiều thứ đồ đẹp, có các loại túi vải in hoa, số tay bìa da thật, các đồ đựng mây tre đan, các loại dao kéo thủ công… Một thanh niên bước vào nói: “Chị Hồng, bình xịt của nhà chị đâu?”
Chủ hiệu đáp: “Bên dưới cửa sổ.”
Cậu thanh niên: “Cho em mượn, lát nữa sẽ gửi lại.”
Chủ hiệu: “Cứ cầm đi.”
Cậu ta đi ra. Tiểu Quân ngắm một lúc, thấy ứng một bao diêm to bằng bao thuốc lá, bên trên vẽ hình con gà trống; nét vẽ màu đen, mào và lông dưới cổ màu đỏ, rất sinh động. “Cô ơi hộp này bao nhiêu tiền?”
Chủ hiệu: “10 đồng.”
Tiểu Quân lẩm bẩm: “Đắt quá.”
Cả hai đi xem một vòng, rồi mua bao diêm ấy. Tiểu Quân nhận ra dân chúng ở thị trấn này đều nói tiếng phổ thông, kể cả bà già đẩy xe nôi, cô chủ cửa hàng và cậu thanh niên vừa rồi…
Kể từ lúc lên chuyến tàu số 1655, cô toàn nghe tiếng địa phương ù cả tai, đến Đồng Hoảng, người ta nói hơi nhanh thì cô gần như không hiểu gì; bây giờ đến thị trấn Đa Minh này bỗng không còn cảm giác cách biệt về ngôn ngữ nữa, cô nhẹ nhõm hơn, tuy vẫn cảm thấy là lạ.
Cả hai nhanh chóng đi dạo hết thị trấn, Trường Thành nói: “Bây giờ ta vào khách sạn nghỉ, mai sương tan hết lại đi chơi.”
Tiểu Quân đáp: “Được!”
Họ theo chỉ dẫn của bà già kia, đi vòng ra phía sau bưu điện, nhìn thấy một cột đá chỉ dẫn: “Ngõ Tối”. Tiểu Quân rất thích những cột mốc này, chỉ tiếc rằng không thể khuân chúng về nhà. Một con ngõ ngoằn ngoèo dốc dần lên cao, hai bên có rãnh thoát nước, nước đang chảy róc rách; hai bên đường là những bức tường cũ bám rêu xanh đậm nhạt. Đoạn cuối con ngõ có một ngôi nhà nhỏ hai tầng màu xám nhạt, trên nóc có biển hiệu đèn nê-ông “Khách sạn”, nó giống như một biệt thự tư nhân, có khoảng ba chục phòng. Trước cửa khách sạn là một bãi trống.
Trường Thành nhìn Tiểu Quân: “Ta vào đây chứ?”
“Vâng.”
Cả hai bèn bước vào.
Còn 7 giờ 14 phút nữa thì sẽ xảy ra chuyện.
Có hai cô gái một cao một thấp, đứng ở quầy lễ tân mặc đồng phục màu xanh sẫm. Khi Trường Thành và Tiểu Quân bước vào, họ hơi cúi đầu chào, cô cao hơn nói: “Xin chào quý khách.” Cô ta cũng nói tiếng phổ thông.
Trường Thành nói: “Tôi muốn thuê một phòng đầy đủ tiện nghi.”
Cô ta nhanh chóng làm thủ tục, rồi đưa chìa khóa phòng cho Trường Thành, mỉm cười: “Chúc anh chị vui vẻ.” Trường Thành lịch sự: “Cảm ơn.”
Đó là ngày 12 tháng 12, Chủ nhật.
Trường Thành dẫn Tiểu Quân đi dọc hành lang tìm phòng 109. Thảm hành lang màu đỏ sẫm, rất dày và êm, chân bước đi không một tiếng động, nhưng cũng đồng thời tạo cảm giác chơi vơi. Các phòng dọc theo hai bên khóa cửa, hình như không có khách. Rất ít người đi du lịch đến vùng hẻo lánh này. Phòng 109 của họ nằm cuối hành lang. Trường Thành tra chìa khóa mở cửa “xạch” một tiếng.
Cả hai bước vào bật đèn. Đèn hơi mờ. Họ thấy phòng bố trí rất lạ: thứ gì cũng chia đôi tách biệt, giường, tivi, tủ áo, toilet, bàn, ghế, đèn bàn, tủ lạnh… cứ như là hai phòng dồn làm một. Giường rất hẹp, chỉ một người nằm được. Tiểu Quân thích giường rộng rãi, giường tân hôn của cô và Trường Thành phải đặt làm chứ không mua sẵn, vì họ muốn giường rộng hơn bình thường.
Tiểu Quân đặt túi xách lên bàn rồi ngồi xuống giường nhún thử, rất êm; cô nằm úp người xuống, nói: “Mệt quá. Anh đấm lưng cho em với!”
Trường Thành ngồi bên, vừa đấm lưng hộ cô vừa nói: “Thị trấn này thật đặc biệt, ngay khách sạn cũng khác lạ. Xem ti vi đỡ phải tranh nhau, em cứ việc xem ca nhạc, anh xem tình hình cổ phiếu.”
“Anh thấy thích rồi chứ?”
“Này, ta vào tắm chung, rồi đi ngủ. Mai anh dẫn em đi leo núi.”
“Anh tắm đi. Lát nữa em xuống đi tìm vài món ăn lạ.”
“Anh sẽ đi cùng em.”
“Anh đói không?”
“Không đói.”
“Thế thì anh cứ vào tắm, em đi mua, một lát sẽ quay lên.”
“Được!”
Được đấm lưng, Tiểu Quân thấy rất dễ chịu. Trường Thành đi tắm. Cô đứng dậy cầm chìa khóa rồi đi ra.
Lúc cô ra khỏi khách sạn, trời đã tối hẳn nhưng sương mù vẫn nặng. Nhà nhà đều đã lên đèn. Đèn gắn tường bên ngoài khách sạn hắt ánh sáng đỏ thắm, át cả màu sơn vôi, nó biến thành ngôi nhà màu đỏ.
Tiểu Quân đi qua Ngõ Tối, rồi ra phố. Cô biết rõ mình đến đây để làm gì. Cô muốn tách khỏi Trường Thành để đi dò hỏi nơi tổ chức đám cưới ma. Ngoài ra còn một vấn đề cô đang băn khoăn: tấm ảnh cưới ma chụp cách đây hàng trăm năm, tức là thị trấn này đã tồn tại ít ra là một trăm năm, tại sao lại toàn là nhà cửa mới xây?
Một phụ nữ đang bước đến, chị ta mặc trang phục dân tộc thiểu số, màu sắc phối hợp rất cổ lỗ. Tiểu Quân mỉm cười, nói: “Chào chị!”
Chị ta dừng lại, cũng mỉm cười, nói độc một tiếng: “Ừ!”
Tiểu Quân hỏi: “Tôi từ tỉnh khác đến, muốn hỏi thăm chị, nhà cửa ở đây đã phá dỡ hết cả à?”
Người ấy đáp: “Ừ! Phần lớn đều đã dỡ bỏ, chỉ còn một số ở sau mặt phố.” Chị cũng nói tiếng phổ thông rất chuẩn, vừa nói vừa chỉ tay về phía cao hơn. Tiểu Quân nhìn theo. Đúng thế, phía sau mặt phố, là khu đất hơi cao, có một số ngôi nhà cũ. Trong màn sương mờ đục vẫn lờ mờ nhìn thấy chúng, tường vàng ố lở lói, lộ ra những viên đá màu xám. Có hai ngôi nhà sàn, ván cột phết dầu trấu cũng đã bong từng mảng loang lổ, nhưng mái nhà vẫn vươn cao trong màn đêm nặng nề, như muốn vỗ cánh bay lên.
Tiểu Quân lại hỏi: “Nghe nói ở đây có một cụ già thọ 120 tuổi, đúng thế không?”
Chị ta đáp: “Ý cô nói là Chu tổ tông chứ gì? Cụ ấy vẫn còn sống. Kia kìa…” Chị ta chỉ tay về phía những ngôi nhà cũ: “Căn nhà treo tấm vải đó là nhà cụ ấy.”
Màn sương dường như càng lúc càng dày đặc, có tiếng mèo gào ré lên ở một nơi nào đó xa xăm. Tiểu Quân lặn lội từ xa đến đây để tìm đáp án cuộc đời, tất nhiên cô không mong lời nói của người mù ấy là giả dối, nhưng câu trả lời của người phụ nữ này thật sự khiến cô cảm thấy nặng nề. Cô ngoảnh nhìn sang, đúng thế, cửa sổ ngôi nhà ấy treo tầm vải đỏ, bên trong lờ mờ ánh đèn.
“Ai chăm nuôi cụ ấy? Nhà nước à?”
“Cụ ấy rất đông cháu chắt.”
Tiểu Quân bỗng hỏi: “Cụ ấy có một người cháu bị mù phải không?”
“Có! Mới sinh ra đã hỏng mắt, thật không may. Rồi lại gặp chuyện…”
Tiểu Quân lập tức chăm chú nhìn vào mắt chị ta: “Là chuyện gì?”
“Bốn năm trước, ông ấy dò dẫm đi kiếm sống, bị ngã xuống vực.”
“Có được cứu lên không?”
“Cứu gì mà cứu? Vực sâu bốn năm trượng, rơi xuống chết luôn.”
Tiểu Quân thấy chưng hửng. Người mù vẫn ngồi xem bói ở ngoài cổng khu chung cư của cô đã chết cách đây bốn năm! Cô đã bị oan hồn ông ta dụ đến cái thị trấn này sao?
Tiểu Quân rùng mình. Cô hỏi tiếp: “Trong đám cháu chắt của Chu tổ tông, còn ai bị hỏng mắt không?”
Chị ta đáp: “Chỉ có mình ông này.”
“Khi còn sống ông ta đi đâu kiếm sống?”
“Đi Trung Nguyên.”
Bắc Kinh là trung tâm của vùng Trung Nguyên.
Nhà nhà trên phố đều đã sáng đèn, có một ô cửa sổ bỗng tối om, nó ở ngay bên cạnh Tiểu Quân. Cũng tức là, khi cô và người phụ nữ này nói chuyện thì người bên trong nghe rõ hết. Có thể là chủ nhà tắt đèn đi ngủ? Nhưng cánh cửa gỗ vẫn chỉ khép hờ, bên trên treo một cái lốp xe cũ, chắc đây là hiệu sửa chữa xe. Tiểu Quân nghĩ rằng, có lẽ vì người phụ nữ này nói hơi nhiều, chủ nhà thấy khó chịu bèn tắt đèn.
Tiểu Quân nghĩ đến một vấn đề nhưng lại im lặng không nói ra. Cô không dám hỏi vì sợ sẽ nghe được một lời đáp khẳng định.
Người phụ nữ nói: “Cô còn việc gì nữa không?”
Lúc này Tiểu Quân mới nhớ đến chủ đề, cô liếc nhìn cánh cửa gỗ khép hờ, nói nhỏ: “Chị ơi, chị có biết rất nhiều năm về trước thị trấn này từng tổ chức đám cưới ma không?”
“Các cụ già có nói thế.”
“Căn nhà ấy có còn không?”
“Dỡ bỏ từ lâu rồi.”
“Vị trí của nó hồi xưa ở đâu?”
“Ở ngay Ngõ Tối này, sau khi dỡ bỏ thì xây khách sạn.”
Tiểu Quân kinh ngạc, khách sạn mà cô và Trường Thành vào ở chính là nơi năm xưa làm đám cưới ma! Ngẫu nhiên thật đáng sợ. Kể cũng lạ, cửa sổ bên cạnh bỗng lại bật đèn.
Tiểu Quân thẫn thờ nói: “Cảm ơn chị…”
Chị ta mỉm cười rồi bước đi.
Vừa đi được mấy bước, Tiểu Quân lại gọi: “Chị ơi!”
Chị ta dừng bước, ngoảnh lại nhìn cô. Cô lấy hết lòng can đảm để hỏi cái câu lúc nãy không dám hỏi: “Chị nói là Chu tổ tông rất đông cháu chắt, hiện giờ nhà họ có bao nhiêu người, chị có biết không?”
Chị ta lắc đầu: “Tôi chịu không biết.” Nói rồi chị ta gọi vào căn nhà có cánh cửa gỗ đang khép hờ: “Anh Dương ơi!” Có vẻ như chị ta quen khắp thị trấn này.
Một giọng nam vọng ra rất rõ ràng: “Gì thế?”
“Anh có biết nhà Chu tổ tông có bao nhiêu người không?”
Anh ta đáp: “Mười một.”
Tiểu Quân lại rất kinh ngạc. Cô nhớ như in người mù nói “mười một người nhà đang chờ tôi về ăn cơm”. Cô cho rằng “mười một người” là câu đố chữ, ám chỉ họ Cát của Trường Thành, nào ngờ nhà ông ta có mười một người thật! Khi Tiểu Quân định thần trở lại thì người phụ nữ đã đi xa. Tiểu Quân ngoảnh nhìn cái cửa sổ đỏ treo mảnh vải đỏ, cô nhận ra, bên hàng xóm đều tối om, chỉ mình nhà ấy thắp đèn.
Chu tổ tông vẫn đang sống, như một ngọn đèn không bao giờ tắt. Nến hoặc đèn dầu đều có lúc cạn nhiên liệu, đèn điện cũng có lúc mất điện… vậy đèn gì có thể sáng mãi?
Tiểu Quân định tìm đường đi đến đó, đẩy cửa vào nhìn xem ông già mà trời đánh mất sổ sinh tử, con người từng làm đám cưới ma cách đây hàng trăm năm, nay đã già đến đâu, chắc bộ dạng ông ta sẽ cực kỳ đáng sợ…
Nhưng chỉ nghĩ vậy thôi chứ cô không dám đến, vì sợ rằng vừa đẩy cửa ra thì nhìn thấy người mù kia đã kiếm được tiền ở “Trung Nguyên” và trở về nhà. Ông ta không cần đi tàu hỏa, âm hồn ông ta luôn nhớ mười một người nhà đang chờ ông ta về ăn cơm.
Tiểu Quân chầm chậm đi theo Ngõ Tối trở về khách sạn. Tâm trạng rất nặng nề, vì cô đã có thể khẳng định 100% mình gặp ma rồi.
Cô xâu chuỗi lại các sự kiện, thấy rằng người mù kia ngay từ đầu đã không bình thường, hễ máy tính của cô xuất hiện tấm ảnh cưới ma đầy âm khí ấy thì ông ta cũng xuất hiện, nhưng Tiểu Quân chưa từng nghi ngờ ông ta không phải là người. Lá cờ của ông ta viết: chúng ta mới chỉ hiểu một nửa thế giới, thực tế là ông ta hiểu tất cả, nửa âm nửa dương, giống như Thái cực đồ. Thứ đáng sợ nhất trên đời này không phải tấm ảnh cưới ma mà là con cá âm dương đan xen nhau trong cái hình vẽ này[2].
[2] Thái cực đồ: gồm hai nửa âm - dương, tựa hình hai con cá xoắn vào nhau.
Bây giờ nên làm gì? Không thể đến đây rồi tay trắng trở về. Tiểu Quân định quay lại khách sạn động viên Trường Thành chụp chung tấm ảnh với cô, sau đó, sáng sớm mai hai người sẽ đi tắc-xi về Đồng Hoảng, từ đó lên tàu hỏa chuyến 1655 quay về Bắc Kinh.
Nhưng cô không biết lúc này còn năm giờ và bốn mươi chín phút nữa sẽ xảy ra chuyện.