Một buổi tối tôi ngồi trong phòng thí nghiệm của mình; mặt trời đã lặn; trăng vừa nhô lên khỏi mặt biển; không đủ ánh sáng cho công việc, và tôi chỉ đang ngồi vơ vẩn, ngưng lại để nghĩ xem nên nghỉ đêm nay hay cố làm cho chóng xong bằng cách tập trung không nghỉ. Ngồi nghĩ ngợi như vậy, một luồng suy tưởng đến với tôi, khiến tôi xem xét lại kết quả của việc mình đang làm. Ba năm trước, tôi cũng thực hiện một công việc như thế này, và đã tạo ra một con quỷ man rợ không gì sánh nổi, đã tàn phá trái tim tôi và rót đầy vào đó niềm cay đắng vì ân hận. Bây giờ tôi lại đang sắp tạo ra một sinh vật khác, tính cách nó tôi cũng chưa biết như kẻ trước; nó có thể ác độc hơn thằng bạn nó hàng ngàn lần, và biết đâu, bản thân nó, lại thích giết chóc và gieo rắc cảnh khốn khổ khốn nạn thì sao? Hắn thì đã thề rời bỏ nơi con người sinh sống, ẩn thân nơi hoang địa; nhưng nó thì không; nó, mà mọi khả năng đều cho thấy sẽ trở thành một con vật biết suy nghĩ và lý luận, rất có thể sẽ không chịu tuân theo hiệp ước đã thỏa thuận trước khi nó được tạo ra. Chúng có thể còn ghét nhau nữa; con quỷ đang sống kia ghê tởm hình thù dị dạng của chính mình, chắc gì hắn không còn thấy kinh khiếp hơn khi sự dị dạng ấy chường ra trước mắt hắn trong cái vỏ giống cái? Cô ả cũng có thể kinh tởm hắn, chạy theo vẻ đẹp thượng đẳng của con người; có thể từ bỏ hắn, và hắn sẽ lại cô độc, tuyệt vọng hơn nữa vì nỗi đau mới mẻ, ngay cả giống loài cũng bỏ rơi mình.
Ngay cả nếu như chúng cùng nhau rời khỏi châu Âu, tới vùng hoang địa của thế giới mới, thì kết quả đầu tiên của tình đồng cảm mà tên ác thần khao khát đến thế sẽ là việc chúng sinh con đẻ cái, và một nòi giống quỷ sẽ lan tràn khắp thế gian, khiến cho cả sự tồn tại của loài người sẽ bị đặt vào một tình thế nguy hiểm và đầy khiếp sợ. Liệu tôi có quyền, vì lợi ích riêng tư, đem lời nguyền đó trút lên các thế hệ mãi mãi về sau không? Tôi đã từng cảm động vì lời lẽ ngụy biện của kẻ do tôi tạo ra; tôi đã bị những lời hăm dọa ma quỷ của hắn làm khiếp sợ đến mất lý trí; nhưng giờ đây, lần đầu tiên tôi nhận ra tai họa trong lời hứa của mình; tôi rùng mình nghĩ đến các thế hệ tương lai sẽ nguyền rủa tôi gieo vạ cho chúng, chỉ vì ích kỷ đã không ngần ngại mua lấy yên bình cho bản thân với cái giá là – biết đâu đấy – sự tồn vong của toàn thể giống người.
Tôi run lên, cõi lòng suy sụp, vừa lúc nhìn lên, tôi bắt gặp, dưới ánh trăng, tên ác thần đang đứng bên bậu cửa. Một nụ cười ma quái kéo rộng qua đôi môi nhăn nhúm khi hắn nhìn chằm chằm vào tôi, đang ngồi lo hoàn thành nhiệm vụ hắn giao cho tôi. Phải, hắn đã theo tôi suốt cuộc hành trình, đã lảng vảng trong rừng, chui rúc trong hang, ẩn náu trong các vùng đất sỏi hoang vắng mênh mông, và bây giờ hắn đến đây xem xét tiến triển của công việc và đòi hỏi tôi thực hiện lời hứa của mình.
Khi tôi nhìn lên, nét mặt hắn biểu lộ rành rành thói độc địa và phản bội thâm hiểm nhất. Tôi điên dại nghĩ về lời hứa tạo cho hắn một sinh vật giống như hắn, và run rẩy cả người vì xúc động, tôi xé tan thành từng mảnh những gì đã tiến hành. Tên khốn nạn chứng kiến tôi hủy diệt sinh vật mà hạnh phúc của hắn sau này phụ thuộc hoàn toàn vào đó, và hú lên một tiếng tuyệt vọng và căm hờn như ác quỷ, hắn rút lui.
Tôi rời căn buồng, khóa cửa lại, thề độc với mình sẽ không bao giờ tiếp tục vụ lao dịch này nữa, và rồi bước chân run rẩy, tôi loạng choạng tìm về nơi ở. Tôi còn có một mình; không có ai bên cạnh xua bớt u ám, giải thoát cho tôi khỏi cái áp lực ma quái từ những suy tư khủng khiếp.
Nhiều giờ trôi qua, tôi vẫn ngồi bên cửa sổ trông ra biển; mặt nước gần như không xao động, bởi gió đã ngừng thổi, tất cả thiên nhiên thiêm thiếp dưới ánh mắt vầng trăng lặng lẽ. Vài con thuyền đánh cá lác đác trên mặt nước, thỉnh thoảng làn gió biển thoảng đến tiếng người nói, khi các ngư dân cất tiếng gọi nhau. Tôi cảm thấy sự tĩnh lặng, mặc dầu không ý thức được hết tận cùng đáy sâu của nó, tới khi bỗng nhiên tai tôi giật mình nghe tiếng mái chèo khuấy nước gần bờ biển và tiếng một người nào đó lên bờ ở gần nhà tôi.
Vài phút sau, tôi nghe tiếng kẹt cửa túp nhà của mình, tựa như có người khẽ mở. Tôi run lập cập từ đầu đến chân; linh tính mách bảo tôi đó là ai, tôi chỉ muốn đánh động một trong số những người nông dân gần đó; nhưng tôi như liệt đi vì cảm giác không ai giúp nổi mình, giống như trong những cơn ác mộng, khi ta hoài công cố gắng thoát khỏi mối nguy hiểm nào đó lơ lửng trên đầu, và tôi đứng chôn chân tại chỗ.
Tiếp đến tôi nghe tiếng bước chân vang dọc lối đi; cửa phòng tôi mở ra, của khốn nạn tôi đang khiếp hãi xuất hiện. Hắn đóng cửa lại, đến gần tôi, nói bằng một giọng đã nén dịu:
“Ngài đã phá hủy công trình đang làm, ngài có ý định gì vậy? Ngài dám phá vỡ lời hứa với tôi sao? Tôi đã chịu đựng bao nhọc nhằn khổ sở; tôi đã rời Thụy Sĩ đi theo ngài; đã lẩn lút theo bờ sông Rhine, qua các hòn đảo trồng liễu; trèo qua bao nhiêu là đồi cao. Tôi đã sống nhiều tháng trời trong các trảng cỏ ở nước Anh và những miền hoang vu ở Scotland. Tôi đã mệt mỏi không biết thế nào mà kể, chịu đói, chịu rét; ngài còn dám hủy hoại mọi hy vọng của tôi ư?”
“Mi cút đi! Ta phá vỡ lời hứa đấy; không bao giờ ta sẽ lại tạo ra một sinh vật giống như mi, vừa dị hình vừa nhẫn tâm như mi nữa.”
“Kẻ nô lệ kia, ta đã lý luận phải trái với ngươi, nhưng ngươi đã tỏ ra không xứng đáng với sự chiếu cố của ta. Hãy nhớ rằng ta có sức mạnh; ngươi cứ tưởng mình thảm hại lắm rồi, nhưng ta có thể làm cho ngươi trở thành khốn nạn đến mức căm ghét cả ánh sáng ban ngày. Ngươi là người sáng tạo ra ta, nhưng ta là ông chủ của ngươi; hãy tuân lệnh đi!”
“Giờ khắc ta do dự đã qua rồi, thời điểm mi thi thố quyền lực đã đến. Lời dọa dẫm của mi không thể khiến ta làm một hành động xấu xa; chúng chỉ khẳng định thêm quyết tâm của ta không tạo cho mi một tên đồng bọn. Chẳng lẽ ta có thể lạnh lùng thản nhiên mà thả ra đời một tên ác thần lấy chết chóc và gieo rắc cảnh khốn nạn làm vui ư? Cút đi! Lòng ta đã quyết, mi càng nói chỉ càng làm ta căm giận mà thôi.”
Con quái vật nhìn thấy vẻ quyết tâm trên nét mặt tôi, nghiến răng nghiến lợi trong cơn điên giận bất lực. “Chẳng lẽ mỗi con người đều có quyền ấp ủ một bạn đời,” hắn thét lên, “và cả đến con vật cũng có đôi có lứa, mà chỉ mình ta đơn chiếc hay sao? Ta đã từng có tình cảm yêu thương nhưng nó được đền đáp bởi ghét bỏ và căm giận. Con người kia! Cứ ghét đi, nhưng hãy coi chừng! Ngày giờ còn lại của ngươi sẽ trôi qua trong khiếp đảm và khổ sở, tiếng sét sẽ nhanh chóng giáng xuống, cướp đi vĩnh viễn của ngươi mọi hạnh phúc. Chẳng lẽ ngươi có quyền hạnh phúc khi ta phải đắm mình trong cảnh khốn nạn tận cùng ư? Ngươi có thể tiêu diệt mọi tình cảm khác của ta, nhưng sự thù hằn còn mãi đó – thù hằn từ đây quý báu hơn cả ánh sáng, cả thức ăn! Ta có thể chết, nhưng ngươi, tên bạo chúa, kẻ hành hạ ta, trước hết sẽ nguyền rủa mặt trời đã chiếu sáng trên nỗi khổ của ngươi(40)_. Hãy coi chừng; ta không sợ gì hết, do đó ta mạnh mẽ. Ta sẽ canh chừng ngươi xảo quyệt như rắn, để chờ táp được ngươi bằng nọc rắn. Hỡi con người, ngươi sẽ phải ân hận vì những tổn thất đã gây ra.”
“Ác quỷ, hãy im đi; đừng làm bẩn không khí bởi những lời tàn độc đó nữa. Ta đã công bố quyết định của ta rồi, và ta không hèn nhát tới mức uốn lưỡi đổi lời đâu. Đi đi, ý ta không thể lay chuyển được.”
“Tốt thôi. Ta đi, nhưng nhớ lấy điều này: ta sẽ ở bên ngươi vào đêm tân hôn.”
Tôi nhào ra trước, kêu lên: “Tên côn đồ kia! Trước khi mi ký án tử cho ta, hãy lo cho cái thân mi an toàn đã.”
Tôi đã suýt túm được hắn; nhưng hắn né tránh và rời khỏi nhà tôi nhanh thoăn thoắt. Chỉ mấy phút sau tôi đã trông thấy hắn ngồi trong thuyền, lao vùn vụt trên mặt nước như một mũi tên, chẳng mấy chốc mất hút giữa những con sóng.
Tất cả lại im lặng, nhưng lời hắn vẫn văng vẳng bên tai tôi. Giận dữ bừng bừng, tôi chỉ muốn đuổi theo kẻ đã giết chết sự an bình của tôi, dìm hắn xuống biển cả. Tôi cứ rảo bước đi đi lại lại trong phòng, tâm thần rối loạn, trí tưởng tượng hình dung hàng ngàn hình ảnh giày vò, day dứt tôi. Tại sao tôi không chạy theo hắn, sống mái với hắn một phen? Tôi đã để cho hắn đi, và hắn đang đi về phía đất liền. Tôi rùng mình nghĩ đến ai sẽ là nạn nhân sắp tới, vật tế thần cho sự trả thù không bao giờ thỏa mãn của hắn. Và tôi bất giác nhớ lại lời hắn: “Ta sẽ ở bên ngươi vào đêm tân hôn”. Vậy ra đó là hạn định để chấm dứt số phận tôi. Vào giờ ấy tôi sẽ phải chết, cùng lúc thỏa mãn và dập tắt ác tâm của hắn. Viễn cảnh ấy chẳng khiến tôi kinh sợ; nhưng khi tôi nghĩ đến Elizabeth thân yêu – nàng sẽ khóc than và buồn khổ khôn nguôi khi thấy người yêu bị rứt khỏi mình một cách man rợ như vậy – nước mắt, lần đầu tiên sau nhiều tháng, giàn giụa trên mặt tôi, và tôi càng quyết tâm không chịu gục xuống dưới tay kẻ thù mà không bắt hắn trải qua chiến đấu ác liệt.
Đêm tàn, mặt trời ló lên từ đại dương; những tình cảm xáo động trong lòng tôi lắng lại, nếu có thể gọi là lặng lẽ khi cơn giận dữ đã chìm vào nỗi tuyệt vọng sâu xa. Tôi rời nhà, rời cái sân khấu đáng sợ diễn ra cảnh cãi vã hồi đêm, đi dạo trên bãi biển, mà tôi gần như cảm thấy là vật cản không thể vượt qua ngăn tôi với đồng loại; hoặc ít nhất tôi cũng chợt mong ước nó là như vậy; tôi mong ước suốt đời sống trên đảo đá xác xơ này, tuy đúng là mòn mỏi, nhưng không bị gián đoạn bởi những cơn sốc hay đau khổ đột ngột nào khác. Nếu tôi quay lại, sẽ là để hiến mình, hoặc là phải chứng kiến những người thân yêu nhất của mình chết dưới tay tên ác thần do chính mình tạo ra.
Tôi cứ lang thang khắp nơi trên hòn đảo như một hồn ma bất an, phải xa cách những người yêu dấu, và khổ sở vì sự xa cách này. Mãi cho đến trưa khi mặt trời đã lên cao, tôi mới nằm xuống bãi cỏ, thiếp đi vì quá mệt. Suốt đêm vừa rồi tôi không ngủ, thần kinh xáo động, mắt tôi cháy bừng do phải canh chừng, phải đau đớn. Giấc ngủ khiến tôi lại người; và khi tỉnh dậy, tôi lại có cảm giác mình thuộc về giống nòi gồm những con người giống như mình, và tuyệt đối bình tĩnh nhìn lại những việc vừa xảy ra. Tuy nhiên lời con quỷ vẫn gióng riết bên tai tôi như một hồi chuông báo tử; chúng có vẻ như trong một giấc mơ, nhưng cũng rõ rệt và bức bối như thực tế.
Mặt trời đã lặn từ lâu, tôi vẫn ngồi bên bờ biển ăn một cái bánh lúa mạch cho đỡ cơn đói đang trở thành ngốn ngấu, thì bỗng thấy một chiếc thuyền đánh cá cặp bờ ngay gần chỗ tôi, một người trên thuyền mang đến cho tôi một cái gói, trong có thư nhà ở Geneva và một lá thư của Clerval nài nỉ tôi trở về với anh. Anh nói anh đang tiêu phí thời gian vô bổ ở Scotland; thư từ của bạn bè ở London gọi anh về lại đó hoàn tất những thương lượng của họ về vụ việc Ấn Độ. Anh không thể nấn ná ở đây được nữa; nhưng bởi chuyến về London rất có thể sẽ dẫn đến hành trình xa xôi kia, có thể bắt đầu sớm hơn đã định, anh mong tôi cố gắng ở bên anh càng lâu càng tốt. Do đó, anh đề nghị tôi bỏ ngay cái hòn đảo đơn độc ấy, về lại Perth gặp anh, chúng tôi sẽ cùng nhau đi về phía Nam. Lá thư phần nào kêu gọi tôi trở lại đời thường, tôi quyết định rời đảo sau hai ngày nữa.
Thế nhưng trước khi rời đảo tôi còn có việc phải làm, một việc chỉ nghĩ tới đã rùng mình: tôi phải gói ghém các dụng cụ thí nghiệm, mà muốn vậy phải vào lại căn buồng nơi tiến hành cái công trình đáng tởm của tôi, phải thu dọn những thứ đồ lề chỉ nhìn thấy đã lợm giọng buồn nôn. Sáng hôm sau khi bình minh tới, tôi thu hết can đảm mở cửa phòng thí nghiệm. Di thể của cái sinh vật dở dang mà tôi đã phá tan hoang đó nằm rải rác trên sàn, khiến tôi có cảm giác gần như đã hủy hoại thịt da một con người. Tôi đứng một lúc cho bình tâm lại rồi bước vào căn phòng. Bàn tay run rẩy của tôi nhặt các dụng cụ đem ra ngoài; đồng thời cũng nghĩ rằng không nên để lại chứng tích của công việc cho người dân đảo hãi hùng và ngờ vực, tôi cho các mảnh da thịt đó vào cái sọt lớn, chất thêm rất nhiều đá và quyết sẽ quăng xuống biển ngay đêm đó; và trong khi chờ đợi tôi ngồi trên bờ biển, lo thu dọn và lau sạch các máy móc thiết bị thí nghiệm hóa học.
Kể từ đêm tên ác thần xuất hiện, trong cảm nghĩ tôi đã có một sự thay đổi triệt để. Trước đây với niềm thất vọng u ám, tôi nhìn nhận lời hứa với hắn như một việc phải hoàn thành bất kể hậu quả là như thế nào; nhưng nay thì, như thể tấm màng mỏng che mắt tôi được vứt bỏ đi, lần đầu tiên tôi nhìn thấy vấn đề thật rõ ràng và sáng sủa. Ý nghĩ tiếp tục vụ lao dịch không còn lúc nào trở lại trong đầu tôi nữa; lời đe dọa quả có đè nặng tâm trí tôi, nhưng tôi không cho rằng một hành động từ phía tôi có thể thay đổi được nó. Lòng tôi đã quyết rằng tạo một con quỷ khác giống như con quỷ đầu tiên là một sự ích kỷ cực kỳ đê hèn và ác độc; và tôi gạt khỏi tâm trí mọi ý nghĩ có thể đưa đến một kết luận nào khác.
Giữa hai đến ba giờ sáng, trăng lên; khi đó đem cái sọt lên một chiếc xuồng nhỏ, tôi chèo ra xa cách bờ khoảng bốn dặm. Cảnh vật hoàn toàn vắng vẻ: có vài con thuyền đánh cá trở về đất liền, nhưng tôi đang rời khỏi họ. Tôi cảm giác mình đang thực hiện một tội ác ghê rợn, và lo lắng run rẩy mà lánh đi mọi khả năng giáp mặt đồng loại mình. Có một lúc mặt trăng đang trong trẻo thình lình bị mây che phủ, tôi tranh thủ giờ khắc đang bóng tối ném luôn cái sọt xuống biển; tôi lắng nghe tiếng nó chìm xuống nước ùng ục, rồi đưa xuồng khỏi chỗ đó. Trời bây giờ đầy mây, nhưng không khí khá trong trẻo, dù lạnh đi dưới làn gió bấc đang thổi đến. Tuy nhiên gió làm tôi tỉnh lại, và khiến tôi ngập tràn những cảm giác khoan khoái, khiến tôi quyết định ngồi lại trên mặt nước ít lâu, và chỉnh bánh lái cho chạy thẳng, tôi nằm dài dưới đáy xuồng. Mây lại che khuất mặt trăng, mọi thứ đều mờ ảo, chỉ còn nghe thấy tiếng con xuồng đang cắt qua làn nước; tiếng rì rầm như ru tôi ngủ, và tôi nhanh chóng chìm vào một giấc ngủ sâu.
Tôi không biết mình ở trong tình trạng đó bao lâu, chỉ biết rằng khi tỉnh dậy mặt trời đã lên cao. Gió khá mạnh, sóng liên tục táp vào đe dọa lật xuồng. Tôi phát hiện gió đang thổi theo hướng Đông Bắc, và chắc đã đưa tôi đi rất xa bờ nơi tôi xuống thuyền. Tôi định đổi hướng thuyền, nhưng phát hiện rằng mỗi lần định làm vậy thì con thuyền lập tức ngập đầy nước. Tôi chỉ còn cách cho xuồng nương theo chiều gió. Phải thú nhận tôi có cảm thấy đôi chút hốt hoảng. Địa bàn không có, tôi lại chẳng mấy quen thuộc địa dư miền đất này, nên có định hướng bằng mặt trời cũng chẳng ích gì. Tôi rất có thể sẽ trôi nổi ra giữa Đại Tây Dương, chịu đựng cái đói tra tấn đến chết, hay chìm nghỉm trong sóng dữ gầm thét và nhồi lên lắc xuống xung quanh. Tôi đã xuống nước khá lâu rồi, và bắt đầu cảm thấy khát đến cháy họng, khúc dạo đầu cho mọi khổ sở khác của tôi. Tôi nhìn lên bầu trời ngập mây đang bị gió đuổi hết đợt này đến đợt khác; tôi nhìn xuống biển, đây sẽ là mồ chôn của mình. “Quỷ dữ!” tôi thốt lên. “Nhiệm vụ mi thế là sắp hoàn thành rồi đó!” Tôi nghĩ đến Elizabeth, đến cha tôi, đến Clerval đang để lại đằng sau cho con quái vật tha hồ trút lòng khát máu và những tình cảm tàn bạo của hắn. Ý nghĩ này đưa tôi vào những hình dung hãi hùng tuyệt vọng tới mức, ngay cả khi vạn vật sắp sửa khép lại trước mắt tôi vĩnh viễn, tôi vẫn rùng mình khi nghĩ đến nó.
Vài giờ đồng hồ trôi qua như vậy; nhưng rồi dần dần, khi mặt trời từ từ hạ xuống đường chân trời, gió cũng dịu đi thành làn nhè nhẹ, và không còn sóng táp nữa. Nhưng thay vào đó lòng biển lại động dữ dội; tôi nôn nao cả người, và không cầm nổi mái chèo, thì bỗng trông thấy về phía Nam có một dải đất cao.
Hầu như kiệt lực sau nhiều giờ chịu đựng mệt nhọc và kinh hoàng, dấu hiệu đảm bảo sống sót bất ngờ này xộc vào tim tôi thành một niềm vui ấm áp, và nước mắt tôi trào ra.
Tình cảm con người ta thật dễ đột biến biết chừng nào, và lạ thay cho lòng ham sống của ta ngay cả lúc khốn khổ đến tận cùng! Tôi lấy một mẩu trang phục làm một mảnh buồm mới, hăm hở dong thuyền vào chỗ đất liền. Trông xa có vẻ toàn núi đá hoang vu, nhưng khi lại gần hơn, tôi dễ dàng thấy dấu vết canh tác. Tôi nhìn ra những con tàu lớn gần bờ, và thấy mình thình lình được đưa trở lại bên những con người văn minh. Tôi cẩn thận cho thuyền đi theo bờ uốn lượn của đất liền, cuối cùng hoan hỉ vẫy chào một tháp chuông ló ra sau một mũi đất nhỏ. Vì đang trong tình trạng sức tàn lực kiệt, tôi quyết định chèo thẳng đến thị trấn, nơi dễ tìm được tiện nghi và chăm sóc nhất. May thay trong túi tôi có ít tiền. Vòng ra sau mũi đất, tôi nhìn thấy một thị trấn nhỏ sạch sẽ và một hải cảng đông đúc, và tôi đưa thuyền vào, trống ngực đập dồn vì vui mừng không ngờ thoát chết.
Trong lúc tôi mải neo con thuyền, cột buồm lại, khá đông người dần dần túm tụm lại chỗ đó. Họ có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy tôi, nhưng đáng nhẽ tới giúp tôi một tay thì họ lại xì xào, chỉ trỏ, giả sử vào một lúc khác hẳn đã khiến tôi hơi cảnh giác. Lúc đó, tôi chỉ để ý mỗi một điều là họ nói tiếng Anh, do đó dùng ngôn ngữ này mà nói với họ. “Các bạn tốt bụng ơi,” tôi hỏi, “xin làm ơn bảo tôi thành phố này tên là gì và cho biết hiện tôi đang ở đâu đây?”
“Sẽ chóng biết thôi,” một người đàn ông khàn giọng trả lời. “Có lẽ mày đã đến một nơi chẳng hợp gu lắm, tuy nhiên sẽ không ai thèm hỏi ý kiến mày về chuyện đó đâu, tao đảm bảo như vậy.”
Tôi vô cùng sửng sốt khi nghe một câu trả lời thô lỗ như vậy từ một người hoàn toàn lạ mặt, đồng thời mất cả bình tĩnh thấy ai nấy cau có, mặt mày giận dữ. “Sao các vị trả lời tôi cộc cằn quá vậy?” tôi đáp lại, “rõ ràng là đón tiếp khách lạ theo cách đuổi khách như thế đâu phải là tập tục ở Anh.”
“Tao không cần biết tập tục ở Anh thế nào,” anh ta nói, “nhưng tập tục Ireland là căm ghét bọn hung ác côn đồ.”
Trong khi cuộc đối thoại kỳ quặc này diễn ra, tôi nhận thấy người đến mỗi lúc một đông. Nét mặt người nào cũng trộn lẫn vẻ tò mò lẫn tức giận khiến tôi bực mình và có phần nào hoảng hốt. Tôi hỏi đường vào quán trọ, nhưng không ai trả lời. Tôi bèn tiến lên trước, nhưng đám đông xôn xao lên, đi theo và vây lấy tôi. Một người mặt mũi khó coi tiến tới, vỗ vai tôi mà bảo: “Này ông, ông phải đi theo tôi tới ông Kirwin để khai báo về bản thân mình.”
“Ông Kirwin là ai? Tại sao tôi phải khai báo về bản thân tôi? Đây không phải là một đất nước tự do sao?”
“Phải, thưa ông, đối với những con người lương thiện. Ông Kirwin là thẩm phán; còn ông cần khai báo về cái chết của một quý ông vừa bị sát hại ở đây hôm qua.”
Câu trả lời khiến tôi giật mình, nhưng lập tức trấn tĩnh lại. Tôi vô tội, khó gì mà không chứng minh được; vì vậy tôi đi theo người dẫn đường không nói năng gì. Tôi được dẫn đến ngôi nhà đẹp nhất thị trấn. Tôi chỉ muốn lăn ra vì mệt và đói; nhưng với một đám đông bâu quanh, tôi nghĩ khôn ngoan là phải gồng người lên cho mạnh mẽ, để thể chất yếu đuối khỏi bị hiểu lầm thành nỗi sợ hay ý thức về tội lỗi. Lúc đó tôi có ngờ đâu đến cái tai họa chỉ ít phút nữa là ập xuống đầu tôi, trong hoảng loạn và tuyệt vọng sẽ dập tắt mọi sợ hãi về thanh danh hay cái chết.
Tôi phải dừng lại một chút; bởi triệu tập lại về trí nhớ những sự kiện khủng khiếp mà tôi sắp kể chi tiết cho anh nghe, việc đó đòi hỏi tôi phải tập trung toàn bộ sức lực trong người.
Một buổi tối tôi ngồi trong phòng thí nghiệm của mình; mặt trời đã lặn; trăng vừa nhô lên khỏi mặt biển; không đủ ánh sáng cho công việc, và tôi chỉ đang ngồi vơ vẩn, ngưng lại để nghĩ xem nên nghỉ đêm nay hay cố làm cho chóng xong bằng cách tập trung không nghỉ. Ngồi nghĩ ngợi như vậy, một luồng suy tưởng đến với tôi, khiến tôi xem xét lại kết quả của việc mình đang làm. Ba năm trước, tôi cũng thực hiện một công việc như thế này, và đã tạo ra một con quỷ man rợ không gì sánh nổi, đã tàn phá trái tim tôi và rót đầy vào đó niềm cay đắng vì ân hận. Bây giờ tôi lại đang sắp tạo ra một sinh vật khác, tính cách nó tôi cũng chưa biết như kẻ trước; nó có thể ác độc hơn thằng bạn nó hàng ngàn lần, và biết đâu, bản thân nó, lại thích giết chóc và gieo rắc cảnh khốn khổ khốn nạn thì sao? Hắn thì đã thề rời bỏ nơi con người sinh sống, ẩn thân nơi hoang địa; nhưng nó thì không; nó, mà mọi khả năng đều cho thấy sẽ trở thành một con vật biết suy nghĩ và lý luận, rất có thể sẽ không chịu tuân theo hiệp ước đã thỏa thuận trước khi nó được tạo ra. Chúng có thể còn ghét nhau nữa; con quỷ đang sống kia ghê tởm hình thù dị dạng của chính mình, chắc gì hắn không còn thấy kinh khiếp hơn khi sự dị dạng ấy chường ra trước mắt hắn trong cái vỏ giống cái? Cô ả cũng có thể kinh tởm hắn, chạy theo vẻ đẹp thượng đẳng của con người; có thể từ bỏ hắn, và hắn sẽ lại cô độc, tuyệt vọng hơn nữa vì nỗi đau mới mẻ, ngay cả giống loài cũng bỏ rơi mình.
Ngay cả nếu như chúng cùng nhau rời khỏi châu Âu, tới vùng hoang địa của thế giới mới, thì kết quả đầu tiên của tình đồng cảm mà tên ác thần khao khát đến thế sẽ là việc chúng sinh con đẻ cái, và một nòi giống quỷ sẽ lan tràn khắp thế gian, khiến cho cả sự tồn tại của loài người sẽ bị đặt vào một tình thế nguy hiểm và đầy khiếp sợ. Liệu tôi có quyền, vì lợi ích riêng tư, đem lời nguyền đó trút lên các thế hệ mãi mãi về sau không? Tôi đã từng cảm động vì lời lẽ ngụy biện của kẻ do tôi tạo ra; tôi đã bị những lời hăm dọa ma quỷ của hắn làm khiếp sợ đến mất lý trí; nhưng giờ đây, lần đầu tiên tôi nhận ra tai họa trong lời hứa của mình; tôi rùng mình nghĩ đến các thế hệ tương lai sẽ nguyền rủa tôi gieo vạ cho chúng, chỉ vì ích kỷ đã không ngần ngại mua lấy yên bình cho bản thân với cái giá là – biết đâu đấy – sự tồn vong của toàn thể giống người.
Tôi run lên, cõi lòng suy sụp, vừa lúc nhìn lên, tôi bắt gặp, dưới ánh trăng, tên ác thần đang đứng bên bậu cửa. Một nụ cười ma quái kéo rộng qua đôi môi nhăn nhúm khi hắn nhìn chằm chằm vào tôi, đang ngồi lo hoàn thành nhiệm vụ hắn giao cho tôi. Phải, hắn đã theo tôi suốt cuộc hành trình, đã lảng vảng trong rừng, chui rúc trong hang, ẩn náu trong các vùng đất sỏi hoang vắng mênh mông, và bây giờ hắn đến đây xem xét tiến triển của công việc và đòi hỏi tôi thực hiện lời hứa của mình.
Khi tôi nhìn lên, nét mặt hắn biểu lộ rành rành thói độc địa và phản bội thâm hiểm nhất. Tôi điên dại nghĩ về lời hứa tạo cho hắn một sinh vật giống như hắn, và run rẩy cả người vì xúc động, tôi xé tan thành từng mảnh những gì đã tiến hành. Tên khốn nạn chứng kiến tôi hủy diệt sinh vật mà hạnh phúc của hắn sau này phụ thuộc hoàn toàn vào đó, và hú lên một tiếng tuyệt vọng và căm hờn như ác quỷ, hắn rút lui.
Tôi rời căn buồng, khóa cửa lại, thề độc với mình sẽ không bao giờ tiếp tục vụ lao dịch này nữa, và rồi bước chân run rẩy, tôi loạng choạng tìm về nơi ở. Tôi còn có một mình; không có ai bên cạnh xua bớt u ám, giải thoát cho tôi khỏi cái áp lực ma quái từ những suy tư khủng khiếp.
Nhiều giờ trôi qua, tôi vẫn ngồi bên cửa sổ trông ra biển; mặt nước gần như không xao động, bởi gió đã ngừng thổi, tất cả thiên nhiên thiêm thiếp dưới ánh mắt vầng trăng lặng lẽ. Vài con thuyền đánh cá lác đác trên mặt nước, thỉnh thoảng làn gió biển thoảng đ 53bd n tiếng người nói, khi các ngư dân cất tiếng gọi nhau. Tôi cảm thấy sự tĩnh lặng, mặc dầu không ý thức được hết tận cùng đáy sâu của nó, tới khi bỗng nhiên tai tôi giật mình nghe tiếng mái chèo khuấy nước gần bờ biển và tiếng một người nào đó lên bờ ở gần nhà tôi.
Vài phút sau, tôi nghe tiếng kẹt cửa túp nhà của mình, tựa như có người khẽ mở. Tôi run lập cập từ đầu đến chân; linh tính mách bảo tôi đó là ai, tôi chỉ muốn đánh động một trong số những người nông dân gần đó; nhưng tôi như liệt đi vì cảm giác không ai giúp nổi mình, giống như trong những cơn ác mộng, khi ta hoài công cố gắng thoát khỏi mối nguy hiểm nào đó lơ lửng trên đầu, và tôi đứng chôn chân tại chỗ.
Tiếp đến tôi nghe tiếng bước chân vang dọc lối đi; cửa phòng tôi mở ra, của khốn nạn tôi đang khiếp hãi xuất hiện. Hắn đóng cửa lại, đến gần tôi, nói bằng một giọng đã nén dịu:
“Ngài đã phá hủy công trình đang làm, ngài có ý định gì vậy? Ngài dám phá vỡ lời hứa với tôi sao? Tôi đã chịu đựng bao nhọc nhằn khổ sở; tôi đã rời Thụy Sĩ đi theo ngài; đã lẩn lút theo bờ sông Rhine, qua các hòn đảo trồng liễu; trèo qua bao nhiêu là đồi cao. Tôi đã sống nhiều tháng trời trong các trảng cỏ ở nước Anh và những miền hoang vu ở Scotland. Tôi đã mệt mỏi không biết thế nào mà kể, chịu đói, chịu rét; ngài còn dám hủy hoại mọi hy vọng của tôi ư?”
“Mi cút đi! Ta phá vỡ lời hứa đấy; không bao giờ ta sẽ lại tạo ra một sinh vật giống như mi, vừa dị hình vừa nhẫn tâm như mi nữa.”
“Kẻ nô lệ kia, ta đã lý luận phải trái với ngươi, nhưng ngươi đã tỏ ra không xứng đáng với sự chiếu cố của ta. Hãy nhớ rằng ta có sức mạnh; ngươi cứ tưởng mình thảm hại lắm rồi, nhưng ta có thể làm cho ngươi trở thành khốn nạn đến mức căm ghét cả ánh sáng ban ngày. Ngươi là người sáng tạo ra ta, nhưng ta là ông chủ của ngươi; hãy tuân lệnh đi!”
“Giờ khắc ta do dự đã qua rồi, thời điểm mi thi thố quyền lực đã đến. Lời dọa dẫm của mi không thể khiến ta làm một hành động xấu xa; chúng chỉ khẳng định thêm quyết tâm của ta không tạo cho mi một tên đồng bọn. Chẳng lẽ ta có thể lạnh lùng thản nhiên mà thả ra đời một tên ác thần lấy chết chóc và gieo rắc cảnh khốn nạn làm vui ư? Cút đi! Lòng ta đã quyết, mi càng nói chỉ càng làm ta căm giận mà thôi.”
Con quái vật nhìn thấy vẻ quyết tâm trên nét mặt tôi, nghiến răng nghiến lợi trong cơn điên giận bất lực. “Chẳng lẽ mỗi con người đều có quyền ấp ủ một bạn đời,” hắn thét lên, “và cả đến con vật cũng có đôi có lứa, mà chỉ mình ta đơn chiếc hay sao? Ta đã từng có tình cảm yêu thương nhưng nó được đền đáp bởi ghét bỏ và căm giận. Con người kia! Cứ ghét đi, nhưng hãy coi chừng! Ngày giờ còn lại của ngươi sẽ trôi qua trong khiếp đảm và khổ sở, tiếng sét sẽ nhanh chóng giáng xuống, cướp đi vĩnh viễn của ngươi mọi hạnh phúc. Chẳng lẽ ngươi có quyền hạnh phúc khi ta phải đắm mình trong cảnh khốn nạn tận cùng ư? Ngươi có thể tiêu diệt mọi tình cảm khác của ta, nhưng sự thù hằn còn mãi đó – thù hằn từ đây quý báu hơn cả ánh sáng, cả thức ăn! Ta có thể chết, nhưng ngươi, tên bạo chúa, kẻ hành hạ ta, trước hết sẽ nguyền rủa mặt trời đã chiếu sáng trên nỗi khổ của ngươi(40)_. Hãy coi chừng; ta không sợ gì hết, do đó ta mạnh mẽ. Ta sẽ canh chừng ngươi xảo quyệt như rắn, để chờ táp được ngươi bằng nọc rắn. Hỡi con người, ngươi sẽ phải ân hận vì những tổn thất đã gây ra.”
“Ác quỷ, hãy im đi; đừng làm bẩn không khí bởi những lời tàn độc đó nữa. Ta đã công bố quyết định của ta rồi, và ta không hèn nhát tới mức uốn lưỡi đổi lời đâu. Đi đi, ý ta không thể lay chuyển được.”
“Tốt thôi. Ta đi, nhưng nhớ lấy điều này: ta sẽ ở bên ngươi vào đêm tân hôn.”
Tôi nhào ra trước, kêu lên: “Tên côn đồ kia! Trước khi mi ký án tử cho ta, hãy lo cho cái thân mi an toàn đã.”
Tôi đã suýt túm được hắn; nhưng hắn né tránh và rời khỏi nhà tôi nhanh thoăn thoắt. Chỉ mấy phút sau tôi đã trông thấy hắn ngồi trong thuyền, lao vùn vụt trên mặt nước như một mũi tên, chẳng mấy chốc mất hút giữa những con sóng.
Tất cả lại im lặng, nhưng lời hắn vẫn văng vẳng bên tai tôi. Giận dữ bừng bừng, tôi chỉ muốn đuổi theo kẻ đã giết chết sự an bình của tôi, dìm hắn xuống biển cả. Tôi cứ rảo bước đi đi lại lại trong phòng, tâm thần rối loạn, trí tưởng tượng hình dung hàng ngàn hình ảnh giày vò, day dứt tôi. Tại sao tôi không chạy theo hắn, sống mái với hắn một phen? Tôi đã để cho hắn đi, và hắn đang đi về phía đất liền. Tôi rùng mình nghĩ đến ai sẽ là nạn nhân sắp tới, vật tế thần cho sự trả thù không bao giờ thỏa mãn của hắn. Và tôi bất giác nhớ lại lời hắn: “Ta sẽ ở bên ngươi vào đêm tân hôn”. Vậy ra đó là hạn định để chấm dứt số phận tôi. Vào giờ ấy tôi sẽ phải chết, cùng lúc thỏa mãn và dập tắt ác tâm của hắn. Viễn cảnh ấy chẳng khiến tôi kinh sợ; nhưng khi tôi nghĩ đến Elizabeth thân yêu – nàng sẽ khóc than và buồn khổ khôn nguôi khi thấy người yêu bị rứt khỏi mình một cách man rợ như vậy – nước mắt, lần đầu tiên sau nhiều tháng, giàn giụa trên mặt tôi, và tôi càng quyết tâm không chịu gục xuống dưới tay kẻ thù mà không bắt hắn trải qua chiến đấu ác liệt.
Đêm tàn, mặt trời ló lên từ đại dương; những tình cảm xáo động trong lòng tôi lắng lại, nếu có thể gọi là lặng lẽ khi cơn giận dữ đã chìm vào nỗi tuyệt vọng sâu xa. Tôi rời nhà, rời cái sân khấu đáng sợ diễn ra cảnh cãi vã hồi đêm, đi dạo trên bãi biển, mà tôi gần như cảm thấy là vật cản không thể vượt qua ngăn tôi với đồng loại; hoặc ít nhất tôi cũng chợt mong ước nó là như vậy; tôi mong ước suốt đời sống trên đảo đá xác xơ này, tuy đúng là mòn mỏi, nhưng không bị gián đoạn bởi những cơn sốc hay đau khổ đột ngột nào khác. Nếu tôi quay lại, sẽ là để hiến mình, hoặc là phải chứng kiến những người thân yêu nhất của mình chết dưới tay tên ác thần do chính mình tạo ra.
Tôi cứ lang thang khắp nơi trên hòn đảo như một hồn ma bất an, phải xa cách những người yêu dấu, và khổ sở vì sự xa cách này. Mãi cho đến trưa khi mặt trời đã lên cao, tôi mới nằm xuống bãi cỏ, thiếp đi vì quá mệt. Suốt đêm vừa rồi tôi không ngủ, thần kinh xáo động, mắt tôi cháy bừng do phải canh chừng, phải đau đớn. Giấc ngủ khiến tôi lại người; và khi tỉnh dậy, tôi lại có cảm giác mình thuộc về giống nòi gồm những con người giống như mình, và tuyệt đối bình tĩnh nhìn lại những việc vừa xảy ra. Tuy nhiên lời con quỷ vẫn gióng riết bên tai tôi như một hồi chuông báo tử; chúng có vẻ như trong một giấc mơ, nhưng cũng rõ rệt và bức bối như thực tế.
Mặt trời đã lặn từ lâu, tôi vẫn ngồi bên bờ biển ăn một cái bánh lúa mạch cho đỡ cơn đói đang trở thành ngốn ngấu, thì bỗng thấy một chiếc thuyền đánh cá cặp bờ ngay gần chỗ tôi, một người trên thuyền mang đến cho tôi một cái gói, trong có thư nhà ở Geneva và một lá thư của Clerval nài nỉ tôi trở về với anh. Anh nói anh đang tiêu phí thời gian vô bổ ở Scotland; thư từ của bạn bè ở London gọi anh về lại đó hoàn tất những thương lượng của họ về vụ việc Ấn Độ. Anh không thể nấn ná ở đây được nữa; nhưng bởi chuyến về London rất có thể sẽ dẫn đến hành trình xa xôi kia, có thể bắt đầu sớm hơn đã định, anh mong tôi cố gắng ở bên anh càng lâu càng tốt. Do đó, anh đề nghị tôi bỏ ngay cái hòn đảo đơn độc ấy, về lại Perth gặp anh, chúng tôi sẽ cùng nhau đi về phía Nam. Lá thư phần nào kêu gọi tôi trở lại đời thường, tôi quyết định rời đảo sau hai ngày nữa.
Thế nhưng trước khi rời đảo tôi còn có việc phải làm, một việc chỉ nghĩ tới đã rùng mình: tôi phải gói ghém các dụng cụ thí nghiệm, mà muốn vậy phải vào lại căn buồng nơi tiến hành cái công trình đáng tởm của tôi, phải thu dọn những thứ đồ lề chỉ nhìn thấy đã lợm giọng buồn nôn. Sáng hôm sau khi bình minh tới, tôi thu hết can đảm mở cửa phòng thí nghiệm. Di thể của cái sinh vật dở dang mà tôi đã phá tan hoang đó nằm rải rác trên sàn, khiến tôi có cảm giác gần như đã hủy hoại thịt da một con người. Tôi đứng một lúc cho bình tâm lại rồi bước vào căn phòng. Bàn tay run rẩy của tôi nhặt các dụng cụ đem ra ngoài; đồng thời cũng nghĩ rằng không nên để lại chứng tích của công việc cho người dân đảo hãi hùng và ngờ vực, tôi cho các mảnh da thịt đó vào cái sọt lớn, chất thêm rất nhiều đá và quyết sẽ quăng xuống biển ngay đêm đó; và trong khi chờ đợi tôi ngồi trên bờ biển, lo thu dọn và lau sạch các máy móc thiết bị thí nghiệm hóa học.
Kể từ đêm tên ác thần xuất hiện, trong cảm nghĩ tôi đã có một sự thay đổi triệt để. Trước đây với niềm thất vọng u ám, tôi nhìn nhận lời hứa với hắn như một việc phải hoàn thành bất kể hậu quả là như thế nào; nhưng nay thì, như thể tấm màng mỏng che mắt tôi được vứt bỏ đi, lần đầu tiên tôi nhìn thấy vấn đề thật rõ ràng và sáng sủa. Ý nghĩ tiếp tục vụ lao dịch không còn lúc nào trở lại trong đầu tôi nữa; lời đe dọa quả có đè nặng tâm trí tôi, nhưng tôi không cho rằng một hành động từ phía tôi có thể thay đổi được nó. Lòng tôi đã quyết rằng tạo một con quỷ khác giống như con quỷ đầu tiên là một sự ích kỷ cực kỳ đê hèn và ác độc; và tôi gạt khỏi tâm trí mọi ý nghĩ có thể đưa đến một kết luận nào khác.
Giữa hai đến ba giờ sáng, trăng lên; khi đó đem cái sọt lên một chiếc xuồng nhỏ, tôi chèo ra xa cách bờ khoảng bốn dặm. Cảnh vật hoàn toàn vắng vẻ: có vài con thuyền đánh cá trở về đất liền, nhưng tôi đang rời khỏi họ. Tôi cảm giác mình đang thực hiện một tội ác ghê rợn, và lo lắng run rẩy mà lánh đi mọi khả năng giáp mặt đồng loại mình. Có một lúc mặt trăng đang trong trẻo thình lình bị mây che phủ, tôi tranh thủ giờ khắc đang bóng tối ném luôn cái sọt xuống biển; tôi lắng nghe tiếng nó chìm xuống nước ùng ục, rồi đưa xuồng khỏi chỗ đó. Trời bây giờ đầy mây, nhưng không khí khá trong trẻo, dù lạnh đi dưới làn gió bấc đang thổi đến. Tuy nhiên gió làm tôi tỉnh lại, và khiến tôi ngập tràn những cảm giác khoan khoái, khiến tôi quyết định ngồi lại trên mặt nước ít lâu, và chỉnh bánh lái cho chạy thẳng, tôi nằm dài dưới đáy xuồng. Mây lại che khuất mặt trăng, mọi thứ đều mờ ảo, chỉ còn nghe thấy tiếng con xuồng đang cắt qua làn nước; tiếng rì rầm như ru tôi ngủ, và tôi nhanh chóng chìm vào một giấc ngủ sâu.
Tôi không biết mình ở trong tình trạng đó bao lâu, chỉ biết rằng khi tỉnh dậy mặt trời đã lên cao. Gió khá mạnh, sóng liên tục táp vào đe dọa lật xuồng. Tôi phát hiện gió đang thổi theo hướng Đông Bắc, và chắc đã đưa tôi đi rất xa bờ nơi tôi xuống thuyền. Tôi định đổi hướng thuyền, nhưng phát hiện rằng mỗi lần định làm vậy thì con thuyền lập tức ngập đầy nước. Tôi chỉ còn cách cho xuồng nương theo chiều gió. Phải thú nhận tôi có cảm thấy đôi chút hốt hoảng. Địa bàn không có, tôi lại chẳng mấy quen thuộc địa dư miền đất này, nên có định hướng bằng mặt trời cũng chẳng ích gì. Tôi rất có thể sẽ trôi nổi ra giữa Đại Tây Dương, chịu đựng cái đói tra tấn đến chết, hay chìm nghỉm trong sóng dữ gầm thét và nhồi lên lắc xuống xung quanh. Tôi đã xuống nước khá lâu rồi, và bắt đầu cảm thấy khát đến cháy họng, khúc dạo đầu cho mọi khổ sở khác của tôi. Tôi nhìn lên bầu trời ngập mây đang bị gió đuổi hết đợt này đến đợt khác; tôi nhìn xuống biển, đây sẽ là mồ chôn của mình. “Quỷ dữ!” tôi thốt lên. “Nhiệm vụ mi thế là sắp hoàn thành rồi đó!” Tôi nghĩ đến Elizabeth, đến cha tôi, đến Clerval đang để lại đằng sau cho con quái vật tha hồ trút lòng khát máu và những tình cảm tàn bạo của hắn. Ý nghĩ này đưa tôi vào những hình dung hãi hùng tuyệt vọng tới mức, ngay cả khi vạn vật sắp sửa khép lại trước mắt tôi vĩnh viễn, tôi vẫn rùng mình khi nghĩ đến nó.
Vài giờ đồng hồ trôi qua như vậy; nhưng rồi dần dần, khi mặt trời từ từ hạ xuống đường chân trời, gió cũng dịu đi thành làn nhè nhẹ, và không còn sóng táp nữa. Nhưng thay vào đó lòng biển lại động dữ dội; tôi nôn nao cả người, và không cầm nổi mái chèo, thì bỗng trông thấy về phía Nam có một dải đất cao.
Hầu như kiệt lực sau nhiều giờ chịu đựng mệt nhọc và kinh hoàng, dấu hiệu đảm bảo sống sót bất ngờ này xộc vào tim tôi thành một niềm vui ấm áp, và nước mắt tôi trào ra.
Tình cảm con người ta thật dễ đột biến biết chừng nào, và lạ thay cho lòng ham sống của ta ngay cả lúc khốn khổ đến tận cùng! Tôi lấy một mẩu trang phục làm một mảnh buồm mới, hăm hở dong thuyền vào chỗ đất liền. Trông xa có vẻ toàn núi đá hoang vu, nhưng khi lại gần hơn, tôi dễ dàng thấy dấu vết canh tác. Tôi nhìn ra những con tàu lớn gần bờ, và thấy mình thình lình được đưa trở lại bên những con người văn minh. Tôi cẩn thận cho thuyền đi theo bờ uốn lượn của đất liền, cuối cùng hoan hỉ vẫy chào một tháp chuông ló ra sau một mũi đất nhỏ. Vì đang trong tình trạng sức tàn lực kiệt, tôi quyết định chèo thẳng đến thị trấn, nơi dễ tìm được tiện nghi và chăm sóc nhất. May thay trong túi tôi có ít tiền. Vòng ra sau mũi đất, tôi nhìn thấy một thị trấn nhỏ sạch sẽ và một hải cảng đông đúc, và tôi đưa thuyền vào, trống ngực đập dồn vì vui mừng không ngờ thoát chết.
Trong lúc tôi mải neo con thuyền, cột buồm lại, khá đông người dần dần túm tụm lại chỗ đó. Họ có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy tôi, nhưng đáng nhẽ tới giúp tôi một tay thì họ lại xì xào, chỉ trỏ, giả sử vào một lúc khác hẳn đã khiến tôi hơi cảnh giác. Lúc đó, tôi chỉ để ý mỗi một điều là họ nói tiếng Anh, do đó dùng ngôn ngữ này mà nói với họ. “Các bạn tốt bụng ơi,” tôi hỏi, “xin làm ơn bảo tôi thành phố này tên là gì và cho biết hiện tôi đang ở đâu đây?”
“Sẽ chóng biết thôi,” một người đàn ông khàn giọng trả lời. “Có lẽ mày đã đến một nơi chẳng hợp gu lắm, tuy nhiên sẽ không ai thèm hỏi ý kiến mày về chuyện đó đâu, tao đảm bảo như vậy.”
Tôi vô cùng sửng sốt khi nghe một câu trả lời thô lỗ như vậy từ một người hoàn toàn lạ mặt, đồng thời mất cả bình tĩnh thấy ai nấy cau có, mặt mày giận dữ. “Sao các vị trả lời tôi cộc cằn quá vậy?” tôi đáp lại, “rõ ràng là đón tiếp khách lạ theo cách đuổi khách như thế đâu phải là tập tục ở Anh.”
“Tao không cần biết tập tục ở Anh thế nào,” anh ta nói, “nhưng tập tục Ireland là căm ghét bọn hung ác côn đồ.”
Trong khi cuộc đối thoại kỳ quặc này diễn ra, tôi nhận thấy người đến mỗi lúc một đông. Nét mặt người nào cũng trộn lẫn vẻ tò mò lẫn tức giận khiến tôi bực mình và có phần nào hoảng hốt. Tôi hỏi đường vào quán trọ, nhưng không ai trả lời. Tôi bèn tiến lên trước, nhưng đám đông xôn xao lên, đi theo và vây lấy tôi. Một người mặt mũi khó coi tiến tới, vỗ vai tôi mà bảo: “Này ông, ông phải đi theo tôi tới ông Kirwin để khai báo về bản thân mình.”
“Ông Kirwin là ai? Tại sao tôi phải khai báo về bản thân tôi? Đây không phải là một đất nước tự do sao?”
“Phải, thưa ông, đối với những con người lương thiện. Ông Kirwin là thẩm phán; còn ông cần khai báo về cái chết của một quý ông vừa bị sát hại ở đây hôm qua.”
Câu trả lời khiến tôi giật mình, nhưng lập tức trấn tĩnh lại. Tôi vô tội, khó gì mà không chứng minh được; vì vậy tôi đi theo người dẫn đường không nói năng gì. Tôi được dẫn đến ngôi nhà đẹp nhất thị trấn. Tôi chỉ muốn lăn ra vì mệt và đói; nhưng với một đám đông bâu quanh, tôi nghĩ khôn ngoan là phải gồng người lên cho mạnh mẽ, để thể chất yếu đuối khỏi bị hiểu lầm thành nỗi sợ hay ý thức về tội lỗi. Lúc đó tôi có ngờ đâu đến cái tai họa chỉ ít phút nữa là ập xuống đầu tôi, trong hoảng loạn và tuyệt vọng sẽ dập tắt mọi sợ hãi về thanh danh hay cái chết.
Tôi phải dừng lại một chút; bởi triệu tập lại về trí nhớ những sự kiện khủng khiếp mà tôi sắp kể chi tiết cho anh nghe, việc đó đòi hỏi tôi phải tập trung toàn bộ sức lực trong người.
Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !