Cơn giận giảm xuống đôi chút, tôi chỉnh trang lại y phục, dung nhan rồi lặng lẽ quay trở lại bàn tiệc, bất giác đưa mắt nhìn sang Hoa Phi, thấy nàng ta vẫn ngồi đó uống rượu một mình. Lăng Dung vội hỏi: “Tỷ tỷ đi đâu vậy? Lâu quá mà không thấy về, My tỷ đã gọi người tìm mấy lần rồi.”
Tôi bình thản mỉm cười, đáp: “Ta say rượu nên ngủ một giấc ở bên điện phụ, ai ngờ ngủ quên mất thời gian.”
Lăng Dung khẽ thở phào rồi cười, hỏi: “Tỷ tỷ ngủ nghê thỏa thích, coi như muội muội uổng công lo lắng rồi.”
Đang nói chuyện, Huyền Lăng đi về phía tôi, hỏi: “Thị nữ của nàng nói nàng đi thay áo, sao lại đi lâu như thế?”
“Thần thiếp say rượu nên ngủ quên, giờ mới tỉnh dậy.”
“Trẫm cũng hơi say rồi, gọi người dâng hoa quả giải rượu lên thôi.” Các cung nữ tất bật dâng lên các loại quả tươi ngâm trong nước giếng lạnh, chiếc mâm tròn thủy tinh trong suốt như băng chất đầy dưa thơm trắng muốt, dưa bầu đỏ tươi, ngó sen xanh ngọc, bồ đào tím ngắt…
Tào Tiệp dư bước qua, yêu kiều mỉm cười, thưa: “Ca vũ hôm nay tuy long trọng nhưng khó tránh khỏi rập khuôn. Đây vốn là gia yến, dự tiệc toàn là người thân, hay bây giờ nghĩ vài trò vui để cùng chơi, có được không ạ?”
Huyền Lăng đồng ý. “Hôm nay nàng là nhân vật chính mà, nàng có ý gì hay thì cứ nói cho mọi người nghe thử xem!”
“Thần thiếp nghĩ các tỷ muội trong cung hầu hạ thánh giá, đương nhiên ai cũng có tài riêng, hay bây giờ chúng ta viết những tài riêng ấy ra giấy rồi bốc thăm, ai bắt được tài gì thì biểu diễn trước mặt mọi người, Hoàng thượng thấy thế nào ạ?”
Huyền Lăng gật đầu, nói: “Ý này mới mẻ đây, vậy cứ làm như nàng nói đi!”
Tào Tiệp dư vội lui xuống chuẩn bị, không bao lâu sau đã bưng ra một chiếc bình vuông bằng sứ Thanh Hoa. “Dung hoa muội muội có thai, không nên vất vả quá, việc bốc thăm hành lệnh cứ để thần thiếp gánh lấy vậy!”
Huyền Lăng hỏi: “Sao vậy? Nàng nghĩ ra ý hay như vậy mà không tham gia biểu diễn hay sao?”
Tào Tiệp dư thưa: “Thần thiếp chẳng có tài cán gì, chỉ biết thắt dây hạt châu chơi thôi, không xứng để biểu diễn trước mặt mọi người. Thần thiếp đã tính cả rồi, bất kể các tỷ muội biểu diễn tài gì, thần thiếp đều tặng một sợi hạt châu để bày tỏ lòng biết ơn. Hoàng thượng, người nói có được không?”
“Miễn cưỡng cũng có thể chấp nhận.”
My Trang ngồi bên cạnh, lên tiếng hỏi: “Nếu lỡ có tỷ muội nào chọn phải lá thăm không phải là sở trường của mình thì làm thế nào cho phải?”
Tào Tiệp dư cười, nói: “Dẫu không phải là sở trường đi chăng nữa thì cũng phải biết chút ít chứ. Huống gì ở đây toàn là các tỷ muội gặp mặt nhau hàng ngày, tùy ý biểu diễn một chút là được.”
Tiệc diễn ra cả nửa ngày trời, âm nhạc, đàn hát nghe đã phát chán, thấy Tào Tiệp dư nảy ra ý hay, mọi người đều cảm thấy thú vị, háo hức muốn tham gia.
Phi tần trong cung trước giờ vì muốn giành được sủng ái, ai cũng cố gắng trổ hết tài năng, so tài đọ sắc. Bây giờ thấy có trò hay, lại có thể nở mày nở mặt trước Hoàng đế, Hoàng hậu và hoàng thất thì ai cũng muốn cố gắng một phen.
Tào Tiệp dư rút thăm cho Hoàng hậu, là tay trái tay phải cùng viết chữ “Thọ”. Thư pháp của Hoàng hậu vốn tinh diệu đứng đầu hậu cung, nói gì đến trò hai tay cùng viết chữ. Hai chữ “Thọ” vừa viết xong, ai cũng cất tiếng khen ngợi.
Đoan Phi yếu ớt, sớm đã quay về nghỉ ngơi. Phùng Thục nghi viết một bài từ. Điềm Quý nhân và Tần Phương nghi hợp tấu một khúc Phượng cầu hoàng. Lưu Lương viện về một bức đan thanh Quan âm tống tử… Ai cũng có nét phong lưu, đặc sắc riêng.
Tào Tiệp dư vươn tay ngọc, lấy một lá thăm đặt vào lòng bàn tay, nói: “Đến lượt Chân Uyển nghi rồi!” Nói xong, nàng ta mở thăm ra xem rồi mỉm cười, nói: “Xin mời muội muội múa một khúc Kinh hồng vũ.” Quay sang Huyền Lăng, nàng ta lại cười, nói: “Nhan sắc của muội muội vốn “nhẹ như chim hồng, uyển chuyển như rồng”, thần thiếp khi không lại rút đúng lá thăm này, cho thấy điệu múa này nhất định là dành riêng cho muội muội. Muội muội ngàn vạn lần đừng từ chối nhé!”
Hai tay tôi xiết lại thành nắm đấm. Kinh hồng vũ vốn do phi tử của Đường Huyền Tông là Mai Phi nghĩ ra, đã thất truyền từ lâu. Thuần Nguyên Hoàng hậu mê đắm âm nhạc, vũ đạo, nhiều lần tìm kiếm điệu múa nguyên bản, lại dốc sức tự mình cải tiến, vừa múa đã khiến cả thiên hạ chấn động, từ đó điệu múa này trở nên rất thịnh hành, bất kể trong đình hay ở chốn dân gian, nơi nào có giếng nước thì nơi đó có nữ nhân múa Kinh Hồng vũ. Chỉ có điều, điệu Kinh Hồng vũ này vốn rất khó học, yêu cầu về thân hình và sức khỏe cực kỳ nghiêm khắc, không luyện tập từ ba đến năm năm thì chưa thể múa được, phải mất bảy, tám năm mới có thể thành thục. Múa đẹp thì khiến mọi người ngưỡng mộ, múa không đẹp thì không khác gì Đông Thi nhăn mặt, trở thành trò cười cho thiên hạ.
Tính cách của Hân Quý tần thẳng như ruột ngựa, vừa nghe thấy vậy, mặt đã lộ vẻ khinh thường. “Chân Uyển nghi được bao nhiêu tuổi m có thể múa Kinh Hồng vũ cơ chứ? Hơn nữa, nếu múa không được bằng cố Hoàng hậu thì cũng là chuyện đương nhiên, tỷ muội chúng ta cứ tùy ý múa may một chút, đâu cần phải cố gắng quá làm gì!”
Hân Quý tần vốn bất bình thay cho tôi nhưng lại bị Tào Tiệp dư chặn họng, không nói được gì thêm liền bực bội quay mặt đi, không thèm để ý đến nàng ta nữa.
Hoa Phi vốn đang ngồi tự rót rượu uống, đột nhiên lên tiếng: “Đã không múa được thì đừng múa, miễn cưỡng làm gì? Cố Hoàng hậu nhờ điệu múa này mà vang danh thiên hạ, giờ e là chẳng ai có thể sánh bằng người.” Nói đến đây thì nàng ta dừng lại, ngẩng đầu, uống cạn một chung rượu.
Lời này rõ ràng là có ý khiêu khích, lòng tôi như bị dội một gáo nước lạnh, trong chốc lát, tôi đã nghĩ thông. Nếu không múa thì khó tránh khỏi bị mọi người chê cười, rằng Chân thị, tân sủng của Hoàng đế bình thường, vô tài, chỉ có hư danh, làm mất thể diện của hoàng gia. Nếu tôi múa, múa không hay thì đương nhiên trở thành trò cười, nhưng ngộ nhỡ múa hay thì mọi người vỗ tay tán thưởng, chiếm được vị trí nổi bật nhất trong ngày hôm nay. Nhưng nếu có ngày không được lòng Hoàng thượng, chỉ e sẽ lại có người ghen ghét, gièm pha rằng tôi bất kính với tiên Hoàng hậu. Đương kim Hoàng hậu là em gái ruột của cố Hoàng hậu, Hoàng thượng và cố Hoàng hậu kết tóc se duyên từ thuở thiếu niên, ân ái mặn nồng, nếu tôi bị người đời gièm pha như thế, những ngày còn lại ở hậu cung sẽ vô cùng khó khăn.
Hoàng hậu nghe thấy cố Hoàng hậu được nhắc đi nhắc lại đến hai, ba lần, mặt hơi biến sắc, lén nhìn sang Huyền Lăng. Hoàng hậu thấy Huyền Lăng đang trầm tư suy nghĩ điều gì đó, bèn nhỏ giọng khuyên: “Kinh Hồng vũ dễ học nhưng khó tinh, đừng múa nữa thì hơn, đổi sang lá thăm khác đi vậy!”
My Trang và Lăng Dung cùng cau mày. My Trang biết trước giờ tôi chỉ đắm mình vào thi thư, không mấy quan tâm đến ca vũ, bèn liên tục nháy mắt ra hiệu với tôi, ý bảo tôi xin Hoàng đế không múa điệu này. Nghe Hoàng hậu mở miệng nói vậy, tỷ ấy phụ họa ngay: “Vừa rồi Uyển nghi say rượu, nhảy múa thật không tiện.”
Huyền Lăng chăm chú nhìn tôi hồi lâu rồi chậm rãi nói: “Trong cung đã lâu rồi không diễn Kinh Hồng vũ, trẫm bỗngmuốn xem. Uyển nghi, nàng cứ tự nhiên mà múa.”
Hoàng đế đã nói vậy, tôi muốn từ chối cũng không được. Tôi hít sâu một hơi, chầm chậm bước ra khoảng trống giữa đại điện. Giờ mọi người đều đã chuẩn bị chứng kiến cảnh tôi xấu mặt: Chân thị mồm mép thi thư được Hoàng đế sủng ái, sẽ múa thế nào được phong thái “nhẹ như chim hồng tung cánh” đây, chỉ e sẽ hóa thành “chim sợ cành cong” mất!
My Trang đột nhiên đứng dậy, mỉm cười, nói với Hoàng đế: “Âm thanh đàn sáo tầm thường quá, hay thần thiếp đàn cổ cầm, An Tuyển thị cất tiếng hát giúp Uyển nghi thêm phần hào hứng?”
Tôi biết My Trang có ý giúp mình, lấy tiếng đàn, tiếng hát phân tán sự chú ý của mọi người. Tôi liếc mắt nhìn sang Lăng Dung, My Trang lúc nào cũng tâm niệm muốn Lăng Dung thu hút sự chú ý của Hoàng đế để giúp chúng tôi một tay. Đây quả là một cơ hội tốt, chỉ là không biết Lăng Dung có đồng ý không?
Hoàng đế gật đầu đồng ý. “Đi lấy chiếc đàn Trường tương tư của Thư Thái phi đến đây!” Lập tức có nội giám dâng lên cây cổ cầm tôi từng đàn ở Thủy Lục Nam Huân điện hôm đó. Ngày trước, Thư Quý phi được tiên hoàng sủng ái, bởi thân phận của Thư Quý phi lúc đó gây trở ngại, hai người họ khổ sở yêu đương rất lâu mới có thể được ở gần bên nhau. Ngày Thư Quý phi tiến cung, Hoàng đế đặc biệt ban cho bà một cây cổ cầm mang tên Trường tương tư, một cây sáo mang tên Trường tương thù làm tín vật định tình. Lúc tiên hoàng băng hà, Thư Quý phi tự thỉnh rời cung tu hành, từ đó, đàn, sáo của bà được lưu lại trong cung.
My Trang chỉnh lại dây đàn rồi gật đầu ra hiệu với tôi. Lăng Dung hành lễ với Hoàng đế, Hoàng hậu rồi ngồi xuống cạnh My Trang, đưa ánh mắt lo lắng nhìn tôi. Tôi khẽ gật đầu ra hiệu, Lăng Dung bắt đầu cất giọng ca tha thiết.
Nhạc vang lên, điệu múa bắt đầu, cơ thể tôi cũng nhẹ nhàng tung bay. Ngoài tiếng đàn của My Trang và tiếng hát của Lăng Dung, cả Phù Lệ cung im phăng phắc như chẳng có ai ở đó. Tay áo dài, rộng múa như ráng chiều rải rác, lấp lánh ánh mặt trời, châu ngọc trên đầu phát ra những tiếng leng keng gấp gáp, vòng eo nhỏ nhắn, mềm mại như cành liễu, hết ngửa hẳn ra sau lại gập về phía trước, những đóa tử nở rộ bày trong đình bị làn gió phái ra từ tay áo quét qua, cánh hoa tung bay đầy trời, trông giống những bông hoa hạnh phấp phới khi bị chân của tôi đá vào thuở nọ.
Giọng ca tha thiết của Lăng Dung hòa vào tiếng đàn réo rắt của My Trang, tôi chỉ cần tập trung vào từng động tác múa. Tôi thầm nghĩ, Tào Tiệp dư đúng là quá coi thường tôi rồi, cứ nghĩ tôi xuất thân từ gia đình lễ giáo nên không tinh thông vũ đạo. Tuy tôi nhờ vào thi thư mà được lòng Hoàng thượng nhưng tôi biết rõ mình không cần phô bày tất cả tài năng cùng lúc, chỉ trong lúc vô ý mới lộ ra một chút để gây bất ngờ, như thế mới thu hút được ánh mắt của người mà tôi muốn mê hoặc.
Tôi không hề lo lắng về khả năng nhảy múa của mình, dì tôi lúc nhỏ sống ở Giang Nam thường dạy tôi các điệu múa. Lúc bảy, tám tuổi, tôi nghe nói điệu múa Kinh Hồng vũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu mê hoặc chúng sinh, ai nấy xem qua đều thán phục. Tôi tuy nhỏ tuổi nhưng trong lòng có chút háo thắng, đòi cha mời một vũ sư từng đi theo Thuần Nguyên Hoàng hậu trong cung đến truyền dạy điệu múa này. Tôi lại nghiên cứu thêm những sử liệu có liên quan đến Lạc Thần phú và Kinh Hồng vũ của Mai Phi, khổ luyện mười năm liền mới đạt được thành tựu thế này.
Chỉ có điều, chuyện duy nhất khiến tôi khó xử là Kinh Hồng vũ vốn do Thuần Nguyên Hoàng hậu sáng tạo ra, động tác, tư thế đều mô phỏng theo Hoàng hậu, tôi phải làm thế nào để vừa mô phỏng vừa có được phong cách của riêng mình, thế mới tránh bị người khác bắt được điểm yếu là bất kính với cố Hoàng hậu. Chỉ trong chốc lát mà phải nhảy múa sao cho ra điểm mới lạ, đúng là khó khăn thật, điều này khiến tôi phải đau đầu suy nghĩ hồi lâu.
Đột nhiên tôi nghe thấy tiếng sáo trong trẻo, cao vút, uyển chuyển, lưu loát như sóng biếc dập dờn, mây nhẹ rời núi. Tôi xoay tròn một vòng thì thấy Thanh Hà vương đứng ở giữa điện, cây sáo tía đặt trên môi, y khoan thai cất tiếng thổi, giữa những cánh hoa mỏng manh, tím biếc đầy trời, vạt áo trắng muốt của y khẽ tung bay như bị gió thổi. Vài tiếng sáo vang lên, khúc nhạc đã thoát khỏi giai điệu bình thường của Kinh Hồng vũ, tựa như biển biếc, sóng dâng, hoa ngọc hé nở, giai điệu cao hơn hai nhịp càng thêm phần thong thả, thiết tha.
My Trang nhanh trí, giai điệu vừa thay đổi đã lập tức theo được Thanh Hà vương, Lăng Dung cũng đổi sang một khúc hát khác.
©STENT
Trong lòng thả lỏng, tôi cảm thấy vô cùng cao hứng. Khúc sáo của Thanh Hà vương đã giúp tôi thoát khỏi khuôn mẫu từng được học, cuốn tay áo phất ngang giữa không trung, tùy hứng vung vẩy theo ý mình. Những cánh hoa tử la lướt qua mái tóc tôi, rơi trên tay áo rồi theo giai điệu mà biến thành mây thơm ngát.
Đang nhảy múa thỏa thích, tôi chợt nghe thấy tiếng đàn của My Trang dần hạ thấp, vài tiếng tạp âm làm loạn, không còn sức để tiếp tục. Tôi vội vã quay đầu nhìn thì thấy My Trang cau mày che miệng, hình như đang muốn nôn ra. Trong lúc gấp rút chẳng kịp nghĩ nhiều, tôi thấy Thanh Hà vương ném cây sáo tía về phía tôi, rồi thuận tay kéo lấy chiếc đàn Trường tương tư, ngồi phịch xuống đất, bắt đầu gảy.
My Trang được cung nữ vội vàng đỡ xuống nghỉ ngơi. Tôi vừa đón lấy cây sáo tía, trong lòng lập tức nghĩ ra ngay một kế. Năm xưa, Mai Phi Giang Thái Bình may mắn gặp được Đường Huyền Tông, bởi nàng ta tinh thông thi văn, lại am hiểu âm luật, thêm tài ca vũ hiếm có nên được Huyền Tông vô cùng yêu thương. Mai Phi từng “thổi sáo bạch ngọc, nhảy Kinh Hồng vũ, hào quang chói lọi”, được Huyền Tông gọi đùa là “Mai Tinh”. Giờ tôi cầm sáo lại cất bước nhảy múa, đương nhiên không thể đánh đồng với tư thái nhẹ bẫng của Thuần Nguyên Hoàng hậu. Thế thì chẳng ai có thể gièm pha là tôi có ý bất kính, vượt quyền được nữa. Huống hồ Kinh Hồng vũ vốn xuất phát từ Mai Phi, không thể tính là lạc đề.
Nghĩ đến đó, tôi để sáo ngang miệng, hai chân xoay tròn càng lúc càng nhanh, đến lúc vạt váy tung bay như hoa lựu tỏa sáng chói lọi, tiếng ngọc bội leng keng như nước chảy, những người xung quanh biến thành một vòng trắng toát nhưng hơi thở vẫn không gấp loạn. Khúc nhạc vang lên du dương, dập dìu.
Trong lúc xoay tròn, tôi nghe thấy có tiếng tiêu đuổi theo tiếng sáo, nghe rất quen tai, biết ngay là do Huyền Lăng thổi, trong lòng tôi càng thêm hưng phấn. Đưa mắt liếc nhìn, tôi thấy y đang nhìn tôi đầy âu yếm, vẻ mặt hệt như lúc vừa gặp nhau ngày đó. Trong lòng tôi cảm thấy ấm áp, không còn canh cánh chuyện xảy ra ở Thủy Lục Nam Huân điện nữa.
Sáo tiêu hòa quyện, tiếng đàn ngân nga, tiếng hát uyển chuyển rồi dần thấp xuống. Cơ thể như liễu mềm trước gió từ từ hạ mình rồi theo dư âm du dương, vấn vít mà xoay lại vị trí cũ. Tấm sa mỏng thướt tha quấn quanh cánh tay và eo lưng từ từ trải ra, tạo thành một đóa hoa đỏ rực, diễm lệ, nở rộ trên sàn điện trắng toát. Tôi lúng liếng đưa mắt nhìn về phía Huyền Lăng đang tiến lại gần, y đưa tay về phía tôi, ôm tôi vào lòng, nói khẽ vào tai tôi: “Nàng còn bao nhiêu bất ngờ mà trẫm chưa được biết nữa đây?”
Tôi cúi đầu, mỉm cười duyên dáng. “Chút tài năng thấp kém chỉ đủ để Hoàng thượng nở nụ cười mà thôi!”
Quay người lại, tôi thấy Tào Tiệp dư hơi biến sắc mặt, nhưng nàng ta nhanh chóng đứng dậy, mỉm cười, nói với Huyền Lăng: “Hoàng thượng thấy thần thiếp nói có đúng không? Muội muội quả nhiên thông minh, có thể múa điệu múa mà người bình thường không sao múa nổi, đúng là không thua gì cố Hoàng hậu lúc còn sống.”
Chưa dứt lời, Hoàng hậu đã nửa cười nửa không nhìn sang Tào Tiệp dư, nói: “Tại sao hôm nay Tào Tiệp dư cứ nhắc đi nhắc lại điệu múa Kinh Hồng vũ của cố Hoàng hậu vậy? Bản cung nhớ lúc cố Hoàng hậu múa điệu này, đến Hoa Phi vẫn còn chưa nhập cung, nói gì đến Tiệp dư nhà ngươi? Sao Tiệp dư biết được phong thái của cố Hoàng hậu kia chứ? Sao có thể lấy bài múa của Chân Uyển nghi ra so sánh được?”
Tào Tiệp dư thấy giọng nói của Hoàng hậu có vẻ không vui, khác hẳn lúc bình thường, bèn mỉm cười ngượng ngập, thưa: “Thần thiếp lỗ mãng rồi! Thần thiếp chỉ từng nghe nói chứ không thể chứng kiến phong thái khi múa của cố Hoàng hậu, đó là nỗi tiếc nuối lớn nhất của thần thiếp.”
Huyền Lăng hơi cau mày nhìn về phía Tào Tiệp dư, chẳng thèm để ý đến nàng ta, chỉ dịu giọng hỏi tôi: “Múa lâu như vậy, nàng đã mệt chưa?”
Tôi nhìn y, mỉm cười, thưa: “Thần thiếp không mệt. Thần thiếp chưa từng được nhìn thấy phong thái tuyệt diệu của cố Hoàng hậu khi múa Kinh Hồng vũ mà thần thiếp múa hôm nay là mô phỏng theo điệu múa cũ của Mai Phi, ánh đom đóm lập lòe sao có thể sánh được với ánh trăng sáng rỡ của cố Hoàng hậu kia chứ?”
Huyền Lăng phá lên cười, buông tay tôi ra rồi quay sang Thanh Hà vương. “Lục đệ, đệ đến trễ, phải phạt ba chung rượu mới được!”
Huyền Thanh nhấc chung rượu lên, cười, thưa: “Thần đệ đã thổi sáo giúp các tân tẩu tẩu nhảy múa, hát ca cho thêm phần hứng thú, dù gì hoàng huynh cũng nên nể mặt các tân tẩu tẩu mà tha cho, đừng trách phạt thần đệ mới phải!” Nói xong, y uống cạn một chung rượu.
Huyền Lăng nói: “Tiếng sáo Trường tương thủ thù nhất định phải phối với tiếng đàn Trường tương tư thì mới có thể đạt đến mức tinh diệu vô song.” Nói xong, y chỉ sang tôi và My Trang, nói: “Đây là Uyển nghi Chân thị, Dung hoa Thẩm thị” rồi lại quay sang Lăng Dung, hỏi: “Người ca hát là…”
Lăng Dung thấy Hoàng đế hỏi đến mình, bèn vội quỳ xuống, thưa: “Thần thiếp Tuyển thị An thị.”
Huyền Lăng “ồ” một tiếng, lệnh cho nàng ta đứng dậy, thuận miệng ra lệnh: “Thưởng!” rồi không nhìn Lăng Dung nữa, y kéo tay tôi đến ngồi xuống bên cạnh bàn tiệc của đế hậu. Lăng Dung thất thần một thoáng rồi nhanh chóng thi lễ, lẳng lặng lui xuống.
Tôi quay người, duyên dáng mỉm cười, đưa trả cây sáo tía cho Thanh Hà vương, nói: “Đa tạ Vương gia giúp đỡ, nếu không tần thiếp đã trở thành trò cười cho thiên hạ rồi.”
Y thản nhiên mỉm cười. “Uyển nghi khách sáo rồi!” Nói xong, y liền ngồi vào chỗ của mình. Tôi thấy y có thân hình, dung mạo như cây quỳnh cành ngọc, tựa thủy nguyệt quan âm chứ không còn bộ dạng khinh bạc, vô lại như trước nữa. Tôi cười thầm, hóa ra dẫu bản tính có phong lưu, vô phép đến đâu cũng phải giả vờ đàng hoàng, nghiêm chỉnh trước mặt người khác. Đưa mắt nhìn bốn vị vương gia trong đình, Kỳ Sơn vương Huyền Tuân chỉ là kẻ tầm thường, không chí tiến thủ, Nhữ Nam vương Huyền Tể tuy chiến công hiển hách nhưng nhìn bộ dạng của y không phải là kẻ hiền lương, phụ thân của Hoa Phi là Mộ Dung Huỳnh lại ở dưới trướng của y, nhất định phải lưu tâm. Bình Dương vương Huyền Phần tuy vẫn chưa thành niên, mẹ ruột xuất thân hèn hạ nhưng khí độ, đối nhân xử thế quang minh lỗi lạc, khiến người người không dám xem thường, chính là châu ngọc trong các vương gia chữ “Huyền”. Còn Huyền Thanh tuy nổi danh thật nhưng chỉ là tài hoa phong lưu với túi da anh tuấn mà thôi.
Huyền Lăng kéo tôi ngồi xuống bên cạnh, quay sang nói với Huyền Thanh: “Lục đệ tinh thông thi từ, hôm nay ngắm ca múa có nghĩ ra được tác phẩm xuất sắc nào không?”
Huyền Thanh thưa: “Hoàng huynh nói đùa rồi! Thần đệ xin được phép bêu xấu vậy!”
Nói xong, y ngẫm nghĩ một lát rồi đưa tay cầm lấy chiếc bút lông, trải mạnh tờ giấy Tuyên Thành, từng hàng chữ rồng bay phượng múa hiện ra. Trong chốc lát, y đã viết xong. Lý Trường đích thân đón lấy rồi trình lên Huyền Lăng. Huyền Lăng cầm lấy xem qua, long nhan hớn hở, luôn miệng khen: “Hay! Hay lắm!” Nói xong, y cao giọng ngâm nga: “Nam quốc có giai nhân, thắt lưng xanh phấp phới. Chiếu rượu cuối tháng Chín, tay áo phẩy mây mưa. Nhẹ bẫng tựa chim xanh, mềm mại rồng uốn lượn. Gái Việt ngưng Tiền Khê, ả Ngô dừng Bạch Trữ. Chầm chậm mà không dứt, dồn dập khúc đến cùng. Xoay tròn sen lướt sóng, tới tấp tuyết quấn phong. Hoan nhạc thời gian trôi, vén áo muốn bay cùng. Chỉ sợ không níu được, bay vút đuổi chim hồng.” Huyền Lăng càng ngâm, hứng chí càng cao, ngâm xong quay sang tôi, nói: “Lục đệ làm thơ càng lúc càng tinh diệu. Một bài ngũ ngôn thôi mà như hiện ra cảnh Hoàn Hoàn nàng nhảy múa trước mắt.”
Hoàng đế đã nói như vậy, mọi người tự nhiên phụ họa khen hay. Chỉ mỗi Nhữ Nam vương lộ vẻ khinh miệt trong ánh mắt, đặt mạnh chung rượu trong tay xuống bàn, tỏ vẻ không đồng ý. Nhữ Nam vương phi vội kéo tay áo y, có ý nhắc nhở y đừng làm mất hứng của mọi người.
Tôi vờ như không để ý, cúi đầu thưa: “Hôm nay được chứng kiến tài năng của Lục vương gia, lại được vương gia khen ngợi, Hoàn Hoàn thật sự vinh hạnh.”
Hoàng hậu gật đầu, mỉm cười phụ họa: “Hoàng thượng tuy không hay làm thơ nhưng tài bình phẩm là hạng nhất. Hoàng thượng đã nói hay thì nhất định là hay rồi.”
Huyền Lăng cười, nói: “Hoàn Hoàn có tài năng vượt trội cả hậu cung, vì sao không làm luôn một bài thơ phụ họa nhỉ?”
Tôi tủm tỉm cười, vốn định tìm lý do thoái thác, ngẩng lên thấy Thanh Hà vương chắp tay mỉm cười, từ từ uống một ngụm rượu rồi nhìn sang tôi, nói: “Thần đệ nghe nói trong chốn khuê các vốn có nhiều người thiện tài làm thơ, xưa có Trác Văn Quân, Ban Tiệp dư, gần đây có Mai Phi, Ngư Huyền Cơ, thần đệ mong được nghe Uyển nghi chỉ dạy.”
Ngẫm nghĩ một lát, tôi cầm đôi đũa ngà voi gõ vào chung thủy tinh, chậm rãi ngân nga: “Mồ hôi đẫm ướt, họa chẳng thành, tơ trúc khua vang áo lụa tung. Hoa rơi lả tả như vô ảnh, tuyết ngoái phong, tựa hữu tình.” Ngâm xong, mắt tôi lúng liếng nhìn sang Huyền Lăng rồi lập tức ung dung mỉm cười, thưa: “Tần thiếp tài mỏng, bài thơ vụng về sao có thể lọt mắt xanh của vương gia, chỉ đọc lên làm trò cười vậy thôi.”
Hai mắt Huyền Thanh sáng rực, ánh mắt mềm mại như lông ngỗng lướt qua gương mặt tôi, khóe môi thấp thoáng nét cười như có như không, tựa như tia nắng nhạt nhòa mùa đông rọi lên băng tuyết: “Hay cho câu: “Tuyết ngoái nhìn phong, tựa hữu tình”, Uyển nghi của hoàng huynh không những thông minh, tài hoa nổi trội mà còn đối với hoàng huynh tình ý ôn nhu. Hoàng huynh có diễm phúc dày thật!” Nói xong, y nâng chung rượu lên. “Thần đệ xin kính hoàng huynh và Uyển nghi một chung!” rồi ngẩng đầu uống cạn một hơi.
Huyền Lăng uống hết rượu trong chung của mình, giữ lấy cánh tay tôi, dịu giọng dặn dò: “Cứ uống từ từ thôi, nàng vừa nhảy múa xong, uống vội quá dễ bị sặc lắm!”
Tôi âu yếm nhìn sang Huyền Lăng, mỉm cười, thưa: “Đa tạ Hoàng thượng quan tâm! Tửu lượng của thần thiếp kém lắm.”
Huyền Lăng đón lấy chung rượu từ tay tôi, mỉm cười, nói: “Vậy để trẫm uống thay nàng vậy!” Huyền Lăng uống cạn phần rượu thừa trong chung của tôi rồi lệnh cho Lý Trường: “Chi ghép lại bài thơ của Lục vương gia và Chân Tiệp dư hôm nay, giữ gìn cẩn thận!”
Lý Trường vốn nhanh trí, lập tức xưng tụng: “Chúc mừng vương gia! Chúc mừng Tiệp dư tiểu chủ!”
Hoàng hậu ngồi bên cạnh cười, nói: “Còn không mau đi truyền chỉ, tấn phong Chân thị làm tòng tam phẩm Tiệp dư.”
Mọi người đứng dậy, mời rượu chúc mừng tôi: “Chúc mừng Tiệp dư hân hạnh được tấn phong!” Nghiêng đầu nhìn thấy gương mặt My Trang dãn ra, mỉm cười với tôi, tôi cũng mỉm cười đáp lại tỷ.
Mọi người lại ngồi xuống uống rượu dùng tiệc, đột nhiên nghe thấy ở chỗ ngồi bên dưới vang lên tiếng nức nở khe khẽ, nghẹn ngào không dứt. Tôi bất giác hơi cau mày, đang giữa tiệc mừng thế này, ai lại dám mạo phạm khóc lóc làm mọi người mất hứng như thế?
Quả nhiên, Huyền Lăng đưa mắt nhìn về phía vang lên tiếng khóc, thấy Hoa Phi mày sầu nhíu lại, trong mắt lấp lánh ánh lệ, đầy vẻ buồn thương. Hoa Phi trước giờ tự kiêu là đệ nhất phi tần chốn hậu cung, không bao giờ tỏ vẻ yếu đuối trước mặt mọi người, giờ nàng ta nước mắt tuôn rơi, như hoa lê gặp mưa, sầu xuân đong đầy, đúng là khiến người ta vừa nhìn phải động lòng thương cảm.
Tôi thầm cười lạnh một tiếng, quả nhiên đã ra tay rồi.
Hoàng hậu lộ vẻ không vui, hỏi: “Đang yên đang lành, Hoa Phi khóc lóc vì chuyện gì vậy? Có điều gì không hài lòng chăng?”
Hoa Phi vội vã đứng dậy, quỳ mọp xuống, thưa: “Thần thiếp sai rồi, nhất thời thất thái làm ảnh hưởng đến nhã hứng của Hoàng thượng và Hoàng hậu. Xin Hoàng thượng và Hoàng hậu thứ tội!”
Huyền Lăng bình tĩnh hỏi: “Hoa Phi, nàng có uất ức gì thì cứ nói thẳng ra đi!”
Hoàng hậu liếc mắt nhìn Huyền Lăng đầy ẩn ý rồi không nói gì thêm.
Hoa Phi miễn cưỡng lau lệ, thưa: “Thần thiếp chẳng uất ức chuyện gì cả. Chỉ là vừa rồi xem Chân Tiệp dư múa Kinh Hồng vũ, nhất thời xúc động nên mới thất lễ như vậy thôi!”
Huyền Lăng hứng thú hỏi: “Ngày xưa, lúc Thuần Nguyên Hoàng hậu múa Kinh Hồng vũ, nàng vẫn chưa nhập cung, có gì mà xúc động cơ chứ?”
Hoa Phi lại lạy một lạy rồi thưa: “Mấy ngày liền thần thiếp ở lì trong cung, rảnh rỗi lật xem thi từ văn chương, đọc qua bài Lâu đông phú của Mai Phi gửi cho vua Đường Huyền Tông, nghiền ngẫm nhiều lần rồi sinh lòng cảm thông. Kinh Hồng vũ vốn do Mai Phi sáng tạo ra, múa cho vua Huyền Tông xem lúc đắc sủng. Lâu đông phú được viết lúc bị giam lỏng trong Thượng Dương cung. Hôm nay xem Kinh Hồng vũ mà nhớ đến Lâu đông phú, thần thiếp vì Mai Phi mà thương cảm không thôi.”
Huyền Lăng tò mò hỏi: “Trước giờ nàng chẳng mấy quan tâm đến sách vở, thơ ca, sao bây giờ lại hứng chí thế này?”
Hoa Phi ngước nhìn Huyền Lăng, thưa rằng: “Thần thiếp ngu muội, nghe nói thi thư có thể sửa tình đổi tính. Thần thiếp biết mình vô đức vô tài, nếu không chịu tu thân dưỡng tính thì chẳng còn mặt mũi nào để tiếp tục hầu hạ quân vương nữa.”
“Nàng đã nói có cảm xúc với Lâu đông phú như vậy thì có thể đọc lại cho mọi người cùng nghe chăng?”
Hoa Phi “vâng” một tiếng rồi mắt rưng rưng lệ, chầm chậm cất tiếng ngâm: “Gương ngọc bụi bám, hộp phượng hương phai. Mái tóc mây thưa chải, tấm áo thêu biếng cài. Khổ vắng vẻ nơi huệ các, riêng nhớ nhung chốn lan đài. Tin hoa mai đang rơi rụng, nhìn Trường Môn nào thấy ai… Tình vua quyến luyến, xoắn xuýt duyên tơ. Thề non nước vững vàng muôn thuở, cùng nhật nguyệt sáng tỏ ngàn thu…” Khi ngâm đến mấy câu: “Mong vui xưa khó được, những mơ tưởng lung tung. Nhìn trăng chiều cùng hoa sớm, thẹn gió xuân thêm lạnh lùng” thì nàng ta đã nghẹn ngào khôn xiết, không đọc tiếp được nữa. Vẻ đau thương buồn bã của nàng ta khiến người nghe không ai không than thở.
Nhữ Nam vương không kìm được, đứng dậy thưa: “Việc của Hoa Phi nương nương vốn là chuyện trong hậu cung của Hoàng thượng, thần vốn không nên xen vào, chỉ có điều, Hoa Phi nương nương hầu hạ Hoàng thượng đã âu nhưng chưa hề nghe thấy có sai lầm gì quá lớn. Nếu có lúc hầu hạ không được chu đáo, xin Hoàng thượng nhớ tình bầu bạn lâu năm mà khoan thứ cho nương nương!”
Huyền Lăng không khỏi sinh lòng cảm động, an ủi Hoa Phi: “Thật khổ cho nàng quá!” Ngẫm nghĩ hồi lâu, y nói tiếp: “Đứng dậy đi! Chỗ nàng đang ở quá xa xôi, hãy chuyển đến Thận Đức đường vậy, cũng gần nơi trẫm hơn.”
Mặt Hoa Phi lộ nét mừng, cảm động rơi lệ, vội vã dập đầu tạ ơn.
Tôi nhón một miếng củ sen cho vào miệng, tủm tỉm cười. Hoa Phi vực dậy vốn là chuyện tôi đã đoán trước, chỉ là không ngờ ả lại nhanh như vậy. Thấy vẻ mặt tái nhợt của Hoàng hậu ngồi bên cạnh Huyền Lăng, tình thế hôm nay đã hết sức rõ ràng rồi. Hoa Phi có Nhữ Nam vương chống lưng, lại có phụ thân quên mình ra chiến trận, chỉ e mấy ngày nữa sẽ tiếp tục được quyền phụ trợ quản lý lục cung, khí thế hơn hẳn ngày trước.
Những ngày tháng sắp tới lại trở nên khó thở đây.
Tôi nhớ lại tình cảnh ở Thủy Lục Nam Huân điện tối qua.
Vừa mới tới trước điện, Phương Nhược đã ngăn tôi lại: “Mấy vị đại nhân trong nội các đang ở bên trong, xin mời tiểu chủ sang điện phụ chờ một lát!”
Đêm tĩnh lặng, điện phụ nằm kế bên đại điện, gió đêm thổi tới, vài ba câu đứt quãng vẳng vào tai tôi:
“Hiện giờ triều đình đang cần dùng binh ở Tây Nam, cha của Hoa Phi là Mộ Dung Huỳnh đang quên mình hy sinh dưới trướng của Nhữ Nam vương, xin Hoàng thượng suy nghĩ kĩ.”
…
“Dẫu Hoa Phi có sai lầm lớn nhưng triều đình hiện đang lúc cần người, sự biến thì phải tòng quyền thôi.”
…
Sự biến tòng quyền? Tôi mỉm cười chua xót, chiến cuộc ở Tây Nam hết sức gian khổ, chẳng biết đến khi nào mới kết thúc? Một khi đắc thắng khải hoàn thì đương nhiên phải phong tướng, chỉ e lúc đó, khí thế của Hoa Phi càng lúc càng phô trương.
Nhưng mà…
Khi tôi tiến vào điện chính, đám quan lại đã ra về. Hoàng đế một mình nằm đó, nhắm mắt dưỡng thần, nghe thấy tiếng bước chân tôi tiến vào cũng chẳng thèm mở mắt, chỉ nói: “Trẫm đau đầu quá, nàng lại xoa bóp giúp trẫm đi!”
Tôi nghe lời. Trong điện, bầu không khí thật yên tĩnh, mùi hương hoa nhài pha lẫn hơi cay chua của dầu bạc hà. Tôi biết mỗi khi Huyền Lăng gặp phải chuyện triều chính khó xử lý, nhức đầu khó chịu thì đều dùng đến dầu bạc hà này.
Tay khẽ day rồi nhỏ giọng hỏi y: “Tứ lang có tâm sự gì sao?”
Huyền Lăng nói: “Hoàn Hoàn, trước giờ nàng luôn thông minh, hiểu chuyện, nàng thử đoán xem trẫm đang phiền lòng chuyện gì?”
“Trái tim Hoàng thượng gắn với thiên hạ, đương nhiên là phiền não vì chuyện triều chính rồi.”
“Nàng nói không sai.” Huyền Lăng lên tiếng. “Thực ra hậu cung cũng là một phần của thiên hạ, trẫm cũng phải để tâm đến.”
Điều y muốn nói tôi đã rõ rành rành, có lẽ y cũng không cam tâm tình nguyện làm như vậy, chỉ là hy vọng tôi mở miệng khuyên nhủ y.
Làn gió mát dịu từ mặt hồ thổi tới, mang theo cả tiếng ếch nhái râm ran, làn áo mỏng manh tung bay.
Tôi khẽ khàng lên tiếng: “Một mình Hoàng hậu lo lắng mọi chuyện lớn nhỏ chốn hậu cung cũng vô cùng vất vả, nên có người chia sẻ, giúp đỡ.”
“Vậy nàng thấy nên làm gì?”
“Thực ra Hoa Phi nương nương giữ quyền phụ trợ quản lý hậu cung nhiều năm, có thể giúp đỡ Hoàng hậu một tay. Huống gì…” Tôi dừng lại một thoáng rồi nói tiếp: “Chuyện lúc trước thực ra là sai lầm của Lệ Quý tần, chưa hẳn đã liên quan đến Hoa Phi nương nương. Nếu Hoàng thượng vì thế mà lãnh đạm với Hoa Phi quá lâu, chỉ e khiến người người bất mãn. Hơn nữa, Hoàng thượng chỉ là không thích thái độ độc đoán của Hoa Phi, hiện giờ đã dạy cho nàng ta một bài học cũng đủ rồi, hẳn nương nương cũng biết bớt phóng túng đi.”
Huyền Lăng im lặng hồi lâu rồi vươn tay ôm lấy tôi, nói: “Chỉ e sau này, chuyện của Hoa Phi sẽ khiến nàng chịu nhiều uất ức. Nàng cứ an tâm, trẫm nhất định sẽ bảo vệ nàng.”
Tôi lẳng lặng tựa vào bờ vai của Huyền Lăng, thưa: “Vì Hoàng thượng, thần thiếp chẳng cảm thấy uất ức chút nào.”
Đây chẳng qua chỉ là một vở kịch mà mọi người đều phải tham gia thôi… Tôi yên lặng nhìn sang Hoàng hậu, có lẽ Hoàng hậu mới là người đau đầu hơn cả tôi và My Trang về chuyện hôm nay.
Yến tiệc kết thúc, mọi người rời đi.
Lúc đi ngang qua Tào Tiệp dư, tôi đột nhiên dừng lại, nói nhỏ vào tai nàng ta: “Muội muội có một câu muốn hỏi Tiệp dư tỷ tỷ, lá thăm viết mấy chữ Kinh Hồng vũ vốn được giấu sẵn trong tay áo của tỷ tỷ phải không?” Nói xong, tôi duyên dáng mỉm cười. “Cho nên điệu múa hôm nay của muội muội là do tỷ tỷ định sẵn, tỷ tỷ thật có lòng!”
Tào Tiệp dư vịn vào tay cung nữ, bình tĩnh đáp trả: “Chân muội muội muốn nói tới chuyện gì? Tỷ tỷ đây nghe không hiểu.”
Tôi ngước mắt nhìn bầu trời xanh ngắt, ngàn dặm chẳng một gợn mây. “Tỷ tỷ thông minh như vậy đương nhiên biết rõ, không có Kinh Hồng vũ thì làm gì có Lâu đông phú! Hoa Phi nương nương trước giờ không ưa sách vở, sao đột nhiên lại thích xem thi từ, ca phú cơ chứ? Bài Lâu đông phú chất chứa bao cảm tình của Mai Phi, không thể giúp nàng ta lấy lại được sủng ái của Đường Huyền Tông nhưng lại có thể khiến cho Hoa Phi nương nương của chúng ta làm Hoàng thượng cảm động. Chắc rằng hương hồn của Mai Phi biết được cũng thông cảm với nỗi khổ tâm của tỷ tỷ, ngậm cười nơi chín suối rồi.”
Tào Tiệp dư thản nhiên mỉm cười. “Muội muội nói thế nào thì ta biết thế ấy. Tỷ tỷ miệng lưỡi vụng về, muốn cãi cũng chẳng cãi được. Mấy ngày tới chắc muội muội sẽ rảnh rỗi lắm đấy, hay là tập trung chăm sóc cho cái thai trong bụng của Thẩm Dung hoa đi, đó mới là điều Hoàng thượng thực sự quan tâm đến.”